Nhạc thơ ở anh song sinh từ niềm thôi thúc muốn tỏ tình với cuộc đời. Nhạc thơ đó cũng lung linh ảo diệu như bóng trăng in trên mặt nước mà chúng ta thường không phân biệt nổi đâu là nhạc đâu là thơ. Nói cách khác, thơ và nhạc là đôi cánh để bay chở tình yêu trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn, không thể tách lìa được. Từ đó thơ nhạc sẽ la đà bay vào lòng người, khiến tai ta có thể nghe được những âm thanh vọng xuống từ trời cao, tiếng của đất trời rộn ràng... Dù em khẽ bước không thành tiếng, cõi đời bao la vẫn ngân dài. Mỗi khúc hát của Trịnh Công Sơn là mỗi giấc mơ hóa thân thu mình bé lại làm mưa tan giữa trời, là mỗi lần tâm hồn bụi bặm thường nhật của chúng ta được tuôn tưới, gột rửa.
...
Trịnh Công Sơn đã từng và ngay lúc này đây đang vọng nhìn cuộc đời từ bờ bên kia: mệt quá thân ta này, nằm xuống với đất muôn đời. Kìa còn biết bao người, dìu dặt tới quanh đây. Đã từng ta thấy em trong tiền kiếp tới cách nhìn sau này với nhãn quan lưỡng nguyên pha thêm tính u mặc humor kiểu Bùi Giáng trong bài hát Con mắt còn lại. (Cõi bờ con mắt Hoa Nghiêm, con mắt còn lại một con khóc người/ Bây giờ riêng đối diện tôi, còn hai con mắt khóc người một con - B.G). Con mắt còn lại là con mắt Hoa Nghiêm: con mắt thứ ba: con mắt hiệu nằm giữa trán.
Văn Cao đã gọi chính danh Trịnh Công Sơn là người Thơ ca - để nói về các thi ca sĩ troubadour/ minstrel - những sứ giả sống để phụng thờ và ca tụng tình yêu như là nguồn sáng cứu rỗi trong đêm trường Trung cổ. Một khoảnh khắc sống với quả tim yêu nồng nhiệt đáng giá hơn một trăm năm sống bằng quả tim khô héo, dù ngay cả khi ca tụng tình yêu bằng những bài tình ca không có hạnh phúc. Đời thi ca sĩ là một kiếp rong chơi:
Đời vẽ tôi tên mục đồng
Rồi vẽ thêm con ngựa hồng
Từ đó lên đường phiêu linh.
Đời vẽ trong tôi một ngày
Rồi vẽ thêm đêm thật dài
Từ đó tôi thề sẽ rong chơi... (Chỉ có ta trong một thời)
Dõi trông cuộc hành hương của người du ca Trịnh Công Sơn, ta thấy nhạc khởi đầu đã hòa chung vào với từng giọt nước mắt buồn rơi trong đêm mưa từ độ ấy. . . và từ đó đêm (và mưa) bao trùm lên những ca khúc của anh - như những bài Tụng ca Đêm của thi sĩ Novalis: "Đêm đã trở nên, dạ con kết trái, đầy những mạc khải. . ." - Đêm ta nằm nghe tiếng trăm năm... đêm nghe tiếng muôn trùng, đêm nghe tiếng khóc cười của bào thai. Hóa thân vào dòng thác đêm là cái chết đang cuốn trôi đi tất cả trong Đêm thấy ta là thác đổ. Đêm mạc khải cho trăng vàng khai hội một đóa hoa quỳnh. Từ đó ta là đêm nở đóa hoa vô thường.
Từ thánh vịnh ca Cát bụi tới hương thiền ca Đóa hoa vô thường, là cả một hành trình vượt qua những chặng thương khó của từng Ca khúc da vàng đầy ắp những hình ảnh thánh giá, khổ nạn, phúc âm, lời kinh đêm, vực sâu, những lời truyền tin đợi chờ phục sinh... là nỗi tuyệt cùng chỉ còn hi vọng vào sự cứu rỗi của tình yêu. Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người, này xin em cứu một người này em có nhớ cuộc đời... Đợi chờ yêu thương trên cây thánh giá. Đời có sân si dưới bóng bồ đề. . . Cho tới thời điểm tĩnh mịch giữa ngọ(1) cây trưa thu bóng dài và tôi thu bóng tôi là nỗi khát khao đi tìm lại sự an nhiên (người về soi bóng mình) trong cõi tâm linh với hương thiền đầy tính mỹ học (mà thiền sư Nhật Suzuki Daisetz đã tung gieo ra ngoài thế giới). Những tác phẩm mang hương vị Thiền thời kì này (1972 - 1975) như Ở trọ, Biết đâu nguồn cội, Ngẫu nhiên, Nguyệt ca, Níu tay nghìn trùng, Giọt lệ thiên thu, Lời thiên thu gọi, Phôi pha, Bên đời hiu quạnh, Đêm thấy ta là thác đổ, Cũng sẽ chìm trôi, Tự tình khúc, Một cõi đi về ... và được "viên thành" bằng tổ khúc Đóa hoa vô thường. Đóa hoa vô thường có thể coi là bức "tứ bình" bằng nhạc, thơ và họa mở ra cho ta thấy trọn cuộc hành trình tâm linh đi tìm ý nghĩa trong cuộc hội ngộ với tình yêu, cái đẹp, cái vô thường.
(1) Nietzsche Zarathustla đã nói thế, phần IV chương "Về giữa ngọ”. Bản Anh ngữ của R.J.Hollingdale. Penguin Books. 1961.
Khát khao đi tìm sự bình an của Trịnh Công Sơn trong Thiền tông, không hẳn là để tìm sự giải thoát hoặc để đạt tới cõi hoàn toàn an nhiên tự tại, mà có phần gần với lí tưởng Bồ tát (như đối với nhà thơ Cao Bá Quát) là “mang cái bệnh Duy-ma" vì chúng sinh(1). Lí tưởng này không nhằm đạt tới Niết Bàn, cho dù tình yêu ở đây có mang tính vô ngã đi nữa: Tôi xin làm quán đợi buồn chân em ghé chơi / Tôi xin làm đá cuội mà lăn theo gót hài / Tôi thu tôi bé lại làm mưa tan giữa trời. Trong ca khúc Biết đâu nguồn cội đó, đầy những hình ảnh (mang Âm tính, Nữ tính, Mẫu tính và Pháp tính) thường thấy trong Thiền tông: nước, trăng, thuyền (chứa chở trời đất và người) đều nổi trôi, che chở và uyển chuyển. Ở trong bài nhạc này để nói về sự tương tác luôn "ở trọ" trong nhau và “thiếu nợ" lẫn nhau giữa cõi đời và với trời đất (trăng muôn đời thiếu nợ mà sông không nhớ ra) hơn là để nói tới cái tâm chân như hay cái tính không: "Kìa xem bóng nguyệt lòng sông. Ai hay không có có không là gì” (Thiền sư Đạo Hạnh). Ở Trịnh Công Sơn, cái đẹp bi lụy còn in dấu khi bước tới hư vô khoác áo chân như/ nhưng vẫn còn long lanh giọt lệ thiên thu (Giọt lệ thiên thu). Đôi khi trầm tư về cái đẹp với cảm xúc bâng khuâng trước cái mênh mang mà sự giải thoát thì diệu vợi tận cõi “bỉ ngạn" (bờ kia):
Bên kia sông nước vô bờ
Hồng nhan em có bao giờ bâng khuâng (Lời ở phố về)
(l) "Bồ tát vì chúng sinh mà vào vòng sinh tử, đã có sinh tử thì có bệnh, bao giờ chúng sinh hết bệnh thì Bồ tát sẽ không còn bệnh". (Kinh Duy - ma - cập)
Nhan sắc Đóa hoa vô thường
Tim tôi đã nở
Đóa hoa dưới trời
Chùm cánh khát mong
Bầu nhụy mơ mòng. (Garcia Lorea)
Nếu chiêm ngắm kỹ, bạn sẽ thấy con người là một bông hoa năm cánh. Một thiền giả Nhật đã có chiêm nghiệm như vậy. “Giao hưởng thơ" Đóa hoa vô thường là một dụ ngôn bằng ý thơ nẻo nhạc để kể về cuộc hành hương đi tìm ý nghĩa của tình yêu, nghệ thuật và cái chết. Tương tự như trong truyền thuyết đi tìm Đóa hoa Xanh biểu trưng cho nghệ thuật của thi sĩ Lãng mạn Đức Novalis - một cuộc luyện đan (alchemy) trong tình yêu và nghệ thuật. Hoặc gần với Thiền tông hơn, nó được luân diễn trong mười bức tranh chăn trâu, là hình ảnh kẻ mục đồng hay lữ khách lạc nẻo giữa đồng hoang nội cỏ, khởi đi tìm cái tâm (chân như) của chính mình đã đánh mất trên siêu lộ mê ảnh trong cõi sinh tử trập trùng mộng mị ...
Bốn "chương” (movement) nhạc của Đóa hoa vô thường tương ứng với bốn hay bốn mùa tâm cảnh về một đời người, như vòng "quy hồi vĩnh cửu” (eternal recurrence) trong Một cõi đi về. Lối tiến hành âm hình giai điệu của Đóa hoa vô thường là một cuộc chuyển hóa liên tục giọng, điệu tính, tiết nhịp, tâm thái... trong từng đoạn, câu hoặc tiết nhạc. Ý thơ dựa trên một chủ đề chính tái hiện nhiều lần là bông hoa xuyên suốt tác phẩm. Sự chuyển hóa sắc thái liên tục này làm gợi nhớ tới ý niệm "giao hưởng thơ ' (symphonic poem của các nhà soạn nhạc Đức như F.Liszt thời Lãng mạn) đưa ra tính tự do của một nhạc thể và khả năng sử dụng dàn nhạc như là một bảng pha màu, từ đó vẽ ra một bức tranh linh động bằng âm thanh - hình ảnh.
Chương I - Tìm Tình, Nhịp Thong Dong
Khởi đầu bằng thể hát kể đồng dao bốn chữ Tìm em tôi tìm... như nhịp chân rảo bước đi tìm Tình trong vẻ Đẹp mà hình ảnh thanh tao hiện thân trong mình hạc xương mai. Bước đầu tìm trong cái đơn độc, cái một, tìm trên non ngàn một cành hoa khôi - hiển hiện trong đóa hoa tinh khôi đó là nụ cười mong manh, một hồn yếu đuối, một bờ môi thơm mang tấm lòng sơ nguyên của một hồn giấy mới. Điều đó khiến chúng ta liên tưởng tới những vần thơ tình tâm linh diễm tuyệt “vì tình tôi phải tìm tình" trong Nhã Ca (Kinh Thánh) hoặc trong Tụng ca Tâm linh (của San Juan de la Cruz) để đi tới chỗ kết hợp huyền nhiệm (unio mystica).
(Rộn rã bồi hồi)
Đường nét "hướng thượng” trong giai điệu: "Tìm em tôi tìm nhủ lòng tôi ơi. . ." là nỗi quyết tâm tìm trong cả những thấp thoáng ảo hóa (maya) của vạn vật đắp đổi; thời gian: tìm đêm chưa từng, tìm ngày tinh khôi. Trên trời: tìm chim trong đàn ngậm hạt sương bay. Dưới đất: tìm lại trên sông... những dấu hài. Từ thơ bốn chữ giờ còn lại ba chữ: những dấu hài.. giọng ngậm ngùi tưởng nhớ. Ở đây "tình lại gặp tình” lần tìm theo chỉ thấy từng bước in rêu của một hồng nhan bạc mệnh...
(Trầm tưởng)
(Dịu lắng)
“Tìm em xa gan đất trời rộn ràng. . ." lòng người đi tìm bây giờ đã lắng xuống để quán tưởng mà ôm lấy đất trời xa gần trong cả cái tính phù du, bạc mệnh, tàn và tận của tấn tuồng ảo hóa đó: Tìm trong sương hồng, trong chiều bạc mệnh, trăng tàn nguyệt tận, chưa từng tuyệt vọng đâu em. Thêm hai chữ "đâu em" như lời nhắn nhủ mãi mãi tới cõi phù sinh này (Đừng tuyệt vọng tôi / em ơi đừng tuyệt vọng...).
(Rộn ràng)
Từ thể hát đồng dao giờ hóa thành bài kệ (gatha) tụng reo:
Tìm trong vô thường
Có đôi dòng Kinh
Sấm bay rền vang
Bỗng tôi thấy em
Dưới chân cội nguồn...
Là lúc cảnh giới của đất trời giao hội từ khi câu Kinh đã bước vào đời (Nguyệt ca) - đôi dòng Kinh Sấm (Vajracchedika) ấy bay rền vang là ánh kim cương chẻ toang bóng tối âm u... Cũng chính là lúc bỗng tôi thấy em dưới chân cội nguồn - cội nguồn của chân như, bản lai diện mục - Người Tình hay cái Tâm sẽ tự hiển hiện cho thấy khi thôi tìm trong hình sắc, âm thanh... Giờ tôi mời em về trong đêm thiêng liêng có ơn mưa trời gội rửa tuôn tưới. Em giờ hiện hữu ở khắp bốn bề tẩm hương trầm thơm ngát. (Tiếng đàn như tiếng mưa nhỏ giọt). Khi vườn mưa tạnh, tiếng nhạc liền cất lên hân hoan để soạn sửa cho cuộc lễ mạc khải thiêng liêng dưới ánh trăng vàng: Một đóa hoa quỳnh trong ngọc trắng ngần lồng với bóng trăng tròn. Cũng từ lòng đóa hoa tố tâm đó mở ra (chỉ trong một đêm thắp sáng) mà vạn vật được phản chiếu và mở phơi như trong một tấm gương trong. Cái nôi vũ trụ tình yêu nhiệm màu đó là những ngón tay xòe bung ôm lấy tất cả làm một.
Tới đây lời thơ ngưng. (Tiếng đàn... giờ là ánh trăng lung linh tĩnh mặc) để chiêm ngắm vẻ đẹp của đóa ngọc quỳnh. Như cái thị kiến ân sủng (beatific vision) của thi sĩ Dante chói mắt trước ánh sáng tâm linh phát tỏa từ tình yêu được kết thành đóa hoa hồng trắng.
Chương II
Dưa tình về, nhịp hớn hở (Nhạc...)
Thanh thản (Nhạc...)
Bình an
Từ khi có duyên hội ngộ, đã có tình là có đối đáp. Lời thơ chuyển sang thể lục bát trữ tình để bày tỏ khoảng an bình khi cả hai đã có nhau như hình với bóng. Bằng một nhịp thơ liền lạc, vui và đầm ấm: "Từ nay tôi đã có người, có em đi đứng bên đời líu lo... Từ em tôi đã đắp bồi, có tôi trong dáng em ngồi trước sân".
Hát tự do
Giọng chuyển đột ngột chùng xuống thành khúc hoài cảm (melancholy) đượm vẻ nuối tiếc, man mác, buốt lạnh như lời linh cảm trước cho tính bạc mệnh của đóa hoa "mới chớm đã viên thành” như nụ tình ái Kim - Kiều. Mùa đông cho em nỗi buồn, chiều em ra đứng hát kinh đầu sông... chút tình mới chớm đã viên thành. Và tàn đông con nước kéo lên đợi mùa xuân tới:
Nhịp nhàng thư thái
Điệp từ "Từ nay"... đã luôn được nhắc lại, cung giọng bây giờ cao và nhấn nhá vui hơn. Toàn chương II diễn tả một cuộc "đối đáp” nói - thưa (đối điểm/ counterpoint), đắp - bồi giữa hai bè ngôi thứ khởi từ tôi - người, tôi - tình sang tôi - em; cho tới đoạn này là anh - nàng để đồng xướng (homophony) một chữ có. Ở đoạn này như là giai điệu chim hót trầm bổng cùng với tiếng ca đồng thanh của đất trời sông núi đáp đền tới cuộc hội ngộ từ khi đã có... "Từ nay anh đã có nàng, biết ơn sông núi đáp đền tiếng ca. Mùa xuân trên những mái nhà, có con chim hót tên là ái ân”.
Chương III
Bốn mùa yêu nhau trong lẽ vô thường của trời đất
(Nhạc chuyển... Chậm lại...)
Bình an
Khúc arioso (vịnh tự khúc): "Sen hồng một nụ..." Chuyển từ hình ảnh đóa quỳnh trắng của chương I sang một hóa thân khác là nụ sen hồng đang ngồi đong đưa - khoảng cách từ “thơ ngây" tới “kinh nghiệm" - bằng một giọng kể hoài tưởng lại thời thanh xuân êm đềm chuyển sang sắc màu “chín" của tình yêu đã nếm trải từ rạng đông cao đến đêm ngọt ngào. Bảng màu "mùa xuân chín" rõ rệt hơn: Em hồng một thuở xuân xanh ... giờ còn lại nỗi buồn hoài niệm để đền trọn mối tình. (Hồng đi nhé xin hồng với nụ Vàng phai sẽ cuốn đi mịt mù - Vàng phai trước ngõ).
(Nhạc chuyển...)
Hiu hắt
Từ đây chuyển đoạn trầm xuống hiu hắt như tiếp nối đoạn hoài cảm ở chương II nhưng đã trở thành thể thơ độc thoại sáu chữ. "Một chiều em đứng cuối sông, gió mùa thu rất ân cần chở lời kinh đến núi non, những lời tình em trối trăn..." Cuộc tình đã trải qua cả hạnh phúc lẫn khổ đau, thân phận lưu lạc hoa trôi bèo dạt, lênh đênh từ đầu sông cho tới cuối sông đoạn trường "tính từ sông nước cát lầm”.
Cánh gió mùa thu chở lời Kinh hát về thân phận gửi tới non nước quê nhà. Một thời yêu dấu đã qua. Giờ đây gót hồng (gót sen/ đôi chân hồng trần của Thúy Kiều) mong mỏi được quay về. Từ khúc hoài cảm ở trên giờ hợp lại trở thành khúc hoài hương (nostalgia) trối trăn rằng: dù trần gian có xót xa cũng đành về với quê nhà.
(Con sóng biển dâu đã mang tình về quê quán cũ)
(Nhạc...)
Chương IV
(Nhạc chuyển...) Rộng rãi
Dồn dập vừa
Mênh mông
Tình đi, người ở lại - (đoạn cuối)
Êm đềm, xa vắng
Khúc 1: “Từ đó trong vườn khuya, ôi áo xưa em là một chút mây phù du, đã thoáng qua đời ta..."
Khúc bi ca (elegy) u huyền này bằng thể thơ tự sự năm chữ, là tiếng thở dài mênh mang khi tình đã đi, người ở lại. Có thể diễn tả lại bằng lời thơ trong Lửa thiêng:
Bóng đêm tỏa không lấp niềm thương nhớ,
Tình đi mau, - sầu ở lại lâu dài.
Ta đã để hồn tan trong tiếng thở
Kêu gọi người đưa tiễn nỗi tàn phai. (Bi ca - Huy Cận)
Từ cảnh vườn đêm hội ngộ có ánh trăng vàng mạc khải của chương I tới cảnh vườn khuya cô tịch trong chương cuối này, là nỗi thấu cảm tính phù du của chữ tình, của vẻ đẹp mong manh, là hình ảnh của chính cái chết. Từ đó trong hồn ta, ôi tiếng chuông não nề... Nỗi tuyệt vọng mênh mang, nhịp tim xao động trong lòng là tiếng chuông não nề văng vẳng như tiếng chuông cầu hồn. Tiếng ngựa hí vang rừng xa vọng suốt đất trời kia, mang tính ẩn dụ đầy âm - hình (audio- visual) loan báo cho giờ phút khởi hành chuyến xe cuối cùng của đời người. "Từ đó ta ngồi mê, để thấy trên đường xa, một chuyến xe tựa như, vừa đến nơi chia lìa”.
(Tình do tâm mà sinh, có khi tình mất mà tâm còn động vọng. Đến lúc tâm bình an thì tình kia cũng đoạn nỗi.)
(nhạc) Mạnh và liền nhau
Êm dịu lại
Khúc hai: "Từ đó ta nằm đau, ôi núi cũng như đèo, một chút vô thường theo..."
Bài tự tình khúc cuối này như bức tranh thủy mặc của cõi tâm bao la vô cùng.
Từ đó... từ chốn vô thủy vô chung để mà chiêm nghiệm toàn cảnh lộ trình đã qua của người nghệ sĩ - kẻ hành hương - giờ nằm đau dạt dào bi cảm trước cái như tính của vẻ đẹp của sự vật; chẳng còn biện biệt nữa không gian (ôi núi cũng như đèo) với thời gian (từng phút cao giờ sâu) để rồi nhập vào với trạng thái tịnh mặc (samadhi) ngay trong nỗi đau - (ở một nghĩa nào đó) là đang trải qua kinh nghiệm về cái chết. Đi vào cõi chết như một âm điệu ngân vang rồi cũng sẽ chìm trôi vào với cái tịch lặng: cõi đi về thiết yếu của âm nhạc, của chính đời người.
Từ đó - tình yêu là hoa nở hồng ban sớm, nở hết trong hoàng hôn, vẫn còn mãi khát mong, lại phải nhờ tới ngọn gió vô thường thổi qua để tiếp tục hóa thân thành sương tinh khiết rụng mát trong bình minh.
Vườn khuya đóa hoa nào mới nở.
Đời tôi có ai vừa qua... (Đêm thấy ta là thác đổ)
Từ đó ta là đêm, nở đóa hoa vô thường,
Từ đó - người đi hành hương nhập thể vào với bóng đêm vô tận (là cõi chân không) để nở ra đóa hoa vô thường: người chiêm ngắm (đóa hoa) đã trở thành cái (đóa hoa) mà mình chiêm ngắm. Vẻ đẹp của đóa hoa vô thường là nở ra nụ cười khúc khích trên lưng đài gương của cái dục mang hương sắc hoa tình cua cái chết.
Từ đó - đóa hoa là biểu hiện rõ nhất về sự vô thường: hiện, hiển và biến:
Mùa mưa tới cành hoa trắng ngần
Đã ra đời đùa vui phút giây
Sau một lần đến bên người
Khép lại tấm lòng nghìn năm nhớ ai...
(Chuyện đóa quỳnh hương)
Từ đó - đóa hoa ấy đã khép lại những cánh mong manh trước cả lúc trăng tàn nguyệt tận.
Từ đó -
Chìm dưới thiên thu là một đóa thơm tho.
(Chìm dưới cơn mưa)
Nhưng từ đó, để kết tinh nên một đóa mong manh, thơm tho ấy dâng cho đời, đã là sự cưu mang và hi hữu kể từ trăm năm trong cõi người ta ...
(Nhạc để chấm dứt...)
Khúc Kết
Những phương trời gió loạn nào đã đi qua,
Còn lại đóa hoa vô thường
Phất phơ giữa tuế nguyệt không thời(1)
(l) Dịch nghĩa thơ của Vương Duy. Trích trong Đường thi - Vương Duy chân diện mục của Vũ Thế Ngọc, Eastwest Institute Press, CA 1987.