Anh chàng Da Rái Cá lết lại gần cái lò làm như từ lâu không được gần lửa và sợ rằng thần hoả có thể biến mất bất cứ lúc nào. Malemute Kid cầm đĩa đèn dầu lên và lựa chỗ đặt để cho ánh sáng chiếu vào mặt người thuật chuyện. Prince tuột xuống khỏi giường và tới ngồi với hai người.
“Tôi là Naass, vừa là chúa tể vừa là con một vị chúa tể, ra đời giữa lúc mặt trời đã lặn và mặt trời khác chưa mọc, trên mặt biển tối âm u, trong chiếc thuyền bọc da của cha tôi. Suốt đêm, đám đàn ông vất vả chèo thuyền và đàn bà lo tát nước khỏi thuyền, chúng tôi vật lộn chống lại trận bão. Bụi nước mặn đông thành tuyết trên ngực mẹ tôi cho đến khi hơi thở của người ra đi mãi mãi cùng với làn thuỷ triều. Riêng tôi lên tiếng hoà với gió bão, và tiếp tục sống”.
“Chúng tôi ở tại Akatan…”
“Vào khoảng miền nào?” Malemute Kid hỏi.
“Akatan nằm trong quần đảo Aleutian; bên trên Chignik, trên Kardalak, trên Unimak. Như lời tôi nói, chúng tôi ở Akatan, nằm giữa biển bên lề thế giới. Chúng tôi sinh sống bằng nghề bắt cá biển, hải cẩu, và rái cá; nhà cửa của chúng tôi ở sát bên nhau trên một giải núi đá nằm giữa bờ rừng và bờ biển cát vàng, nơi chúng tôi đậu thuyền độc mộc. Chúng tôi ít người và thế giới rất nhỏ bé. Về phía đông có những đất lạ - những đảo giống như Akatan; nên chúng tôi cho rằng toàn thế giới đều là đảo và không buồn để ý.”
“Tôi khác hẳn dân tộc tôi. Trên bãi cát có những thanh gỗ cong và những tấm ván của một chiếc thuyền mà dân tộc tôi chưa hề đóng; tôi nhớ cái mỏm đảo nhìn được ra ba phía, có một cây gỗ thông chưa bao giờ mọc ở đó – một cây nhẵn nhụi, thẳng tắp và dài ngoằng. Người ta kể lại rằng có hai người tới nơi đó, quanh quẩn tại đó trong nhiều ngày và suốt ngày trông ngóng. Hai người này từ ngoài biển tới trên chiếc thuyền mà những mảnh vỡ còn nằm trên bờ biển. Họ là những người da trắng như các ông, và yếu đuối như trẻ con khi hải báo đi hết và thợ săn trở về tay không. Tôi biết những điều này là nhờ ông già bà cả kể lại, và những người này đã được nghe các cụ xưa kia thuật lại. Ban đầu hai người da trắng lạ mặt này không quen với cách sinh hoạt của chúng tôi, nhưng họ cũng mạnh dần nhờ cá và dầu. Họ tự dựng mỗi người một căn nhà, họ chọn lấy những người phụ nữ đẹp và giỏi nhất của chúng tôi, rồi dần dần sinh con đẻ cái. Chính người con của một trong hai người ấy là ông cụ tôi.
“Như tôi đã nói, tôi khác với người cùng dân tộc, vì tôi mang trong người dòng máu lạ lùng của người da trắng từ ngoài biển tới. Người ta nói rằng thời xưa trước khi họ tới, chúng tôi có những luật lệ khác. Nhưng họ hung tợn và hiếu chiến, họ đã đánh nhau với đàn ông trong bộ lạc tôi cho đến khi không còn người nào dám đương đầu với họ nữa. Rồi họ tự xưng là chúa tể, xoá bỏ những luật lệ cũ của chúng tôi và ban ra luật lệ mới như: con trai sinh ra là con của cha chớ không phải của mẹ theo như cổ truyền của chúng tôi. Họ cũng ra luật lệ rằng người con đầu lòng phải được hưởng tất cả những đồ đạc trước kia thuộc về người cha, còn những đứa con thứ phải lo mà tự túc lấy. Họ còn đặt cho chúng tôi những luật khác nữa. Họ chỉ bảo chúng tôi những cách thức mới để bắt cá và giết gấu mà trong rừng có nhiều. Họ dạy chúng tôi để dành nhiều thực phẩm hơn, phòng những thời kỳ đói kém. Những điều này thực là hay.
Nhưng khi họ lên làm chúa tể và không còn ai đương đầu với những cơn giận dữ của họ, thì những người da trắng lạ lùng này quay lại đánh lẫn nhau và người mà dòng máu còn chảy trong huyết quản tôi đã cầm cái lao săn hải báo xuyên qua mình người kia cả một cánh tay. Con cái họ tiếp tục cuộc chiến đấu, rồi đến cháu chắt họ; giữa họ có một mối hận thù ghê gớm cho đến thời tôi cũng hãy còn, đến nỗi trong mỗi gia đình chỉ còn một người sống để nối dõi những người quá cố.
Bên dòng tôi còn mỗi mình tôi và dòng máu của người kia còn có mỗi một cô gái. Đó là Unga. Nàng sống chung với bà mẹ. Một đêm kia cha nàng và cha tôi đi câu rồi mất tích; về sau thuỷ triều đưa xác họ lên bãi, họ hãy còn nắm chặt lấy nhau.
“Vì mối thù giữa hai nhà, nên mọi người bàn tán về cái chết của hai người, và những ông già lắc đầu nói rằng cuộc chiến đấu sẽ tiếp tục khi nàng có con và tôi cũng có con. Họ nói với tôi như thế khi tôi còn nhỏ, đễn nỗi tôi phải tin như thế và coi Unga như một kẻ thù, và con cái nàng sau này sẽ kình địch với con cái của tôi. Hằng ngày, tôi liên tưởng tới những điều này, và khi tôi bước vào tuổi thanh xuân, tôi hỏi tại sao lại phải như thế. Và người ta trả lời rằng: “Không biết, nhưng ông cha anh vẫn làm như vậy.” Tôi tò mò tự hỏi tại sao những người sắp sinh ra lại phải đánh nhau, chém giết nhau vì những người quá cố, và tôi không thấy điều gì hợp lý cả. Nhưng người ta nói rằng đó là sự bắt buộc, và tôi mới chỉ là một thanh niên.
“Rồi họ bảo rằng tôi phải gấp rút lên để dòng máu của tôi mạnh mẽ hơn lên trước của nàng. Điều này dễ, vì tôi là ngưòi đứng đầu, và dân chúng tôi kính tôi vì những thành tích và luật lệ của cha tôi, và vì tài sản của tôi. Thiếu nữ nào cũng muốn đến với tôi, nhưng tôi không kiếm được người nào ưng ý. Và những cha mẹ của các thiếu nữ giục giã tôi, vì ngay hồi đó đã có những thợ săn đề nghị những giá cao với mẹ của Unga, và nếu các con của nàng lớn mạnh trước con của tôi, chắc chắn là các con tôi sẽ chết.”
“Cho tới một buổi chiều đi đánh cá về, tôi vẫn chưa lựa chọn được thiếu nữ nào cả. Mặt trời xuống thấp và chiếu thẳng vào mắt mọi người, gió thổi ào ào, những chiếc độc mộc chạy thi với những làn sóng biển trắng xoá. Bỗng nhiên chiếc thuyền của Unga, vượt qua tôi, nàng liếc nhìn tôi, làn tóc đen của nàng phấp phới bay như một đám mây đen và bụi nước lấp lánh trên hai gò má. Như tôi đã nói, ánh mặt trời chiếu thẳng vào mắt và tôi mới chỉ là một thanh niên, nhưng dầu sao tôi cũng thấy rõ ràng, có điều gì tương hợp giữa chúng tôi. Khi vút thẳng tới phía trước nàng quay lại nhìn tôi trong khoảng thời gian giữa hai nhịp chèo – cái nhìn mà chỉ riêng Unga mới có được – và tôi biết rằng đó là tiếng gọi của sự đồng ý đồng tình. Mọi người hò reo khi chúng tôi rẽ nước vượt qua những chiếc thuyền lớn lười biếng và bỏ rơi họ lại sau. Nhưng nàng chèo thực mau, và trái tim tôi căng lên như lòng cánh buồm, tôi không thắng được. Gió mát dần, biển càng lúc càng trắng và nhảy vọt lên như những con hải báo, chúng tôi xuôi theo dòng nước lấp lánh màu vàng của mặt trời”.
Naass khom mình trên chiếc ghế đẩu, dáng điệu như một người đang chèo thuyền, như đang sống lại thời xa xưa và đang ganh đua chèo về đích một lần nữa. Hình như bên kia chiếc lò hắn còn nhìn thấy chiếc thuyền độc mộc nhấp nhô và làn tóc phấp phới của Unga. Tiếng gió rít văng vẳng bên tai hắn và hơi muối mặn đập vào mũi hắn.
“Nhưng nàng đã cặp thuyền vào bờ, miệng cười vang và chạy ngược lên bãi cát về phía nhà mẹ nàng. Một ý nghĩ quan trọng đã đến với tôi đêm đó – một ý nghĩ xứng đáng với con người cầm đầu tất cả dân cư ở Akatan. Vì thế, khi trăng lên, tôi đi xuống nhà mẹ nàng và đưa mắt nhìn số hàng hoá của Yash-Noosh chất đống bên cửa – những đồ vật của Yash-Noosh – một tay săn mạnh khoẻ muốn làm cha đám con cái của Unga. Nhiều thanh niên khác đã xếp đống hàng hoá của họ tại đó, rồi lại phải đem đi; và thanh niên tới sau lại chất một đống lớn hơn đống hàng hoá của thanh niên trước”.
“Tôi ngửng mặt cười vang với trăng sao rồi đi về nhà, nơi tồn trữ tài sản. Tôi đã đi lại nhiều lần cho đến khi cái đống hàng hoá của tôi cao hơn đống của Yash-Noosh gấp nhiều lần, bằng số ngón tay trên một bàn tay. Nào là cá khô phơi có, sấy có, bốn mươi tấm da hải báo lông ngắn và một số da hải báo có lông dài bằng nửa số kia, mỗi tấm đều thắt chặt ở miệng và trong bụng đựng đầy dầu, và một chục tấm da gấu mà tôi đã hạ được trong rừng khi chúng tôi kiếm ăn mùa Xuân. Ngoài ra, lại còn có những chuỗi hạt, chăn mền, quần áo đỏ tía, những món đồ tôi đổi được của những người ở phía Đông, và những người này lại đổi của những người khác ở về Phía Đông nữa. Tôi nhìn cái đống của Yash-Noosh và phá lên cười, vì tôi là chúa tể Akatan, và tài sản của tôi lớn hơn tài sản của tất cả các thanh niên dưới quyền tôi và ông cha tôi đã tạo được những thành tích, đã ra những luật lệ và làm cho dân chúng phải muôn đời nhắc đến tên họ.
“Thế rồi sáng ra, tôi đi xuống bờ biển, liếc nhìn nhà mẹ Unga. Đống đồ của tôi vẫn y nguyên không suy suyển. Đám phụ nữ mỉm cười kháo chuyện với nhau những câu tinh quái. Tôi ngạc nhiên vì xưa nay chưa ai từng đưa ra một cái giá cao như thế; và đêm đó tôi lại bỏ thêm vào đống đồ những hoá vật khác, và đặt ở bên cạnh một chiếc thuyền độc mộc bọc da thuộc chưa từng đi biển lần nào. Nhưng ngày lại ngày nó vẫn còn ở đó để làm trò cười cho mọi người. Mẹ Unga là người quỷ quyệt, và tôi uất ức vì nỗi hổ thẹn tôi phải chịu trước dân chúng. Vì thế đêm đó tôi lại phải đem thêm nữa để làm thành một đống kếch sù và tôi còn hì hục kéo thêm chiếc thuyền lớn đáng giá hai mươi chiếc độc mộc. Sáng ngày ra, đống đồ không còn đó nữa.
“Sau đó tôi sửa soạn lễ cưới, và dân cư ở tận phía Đông cũng tới dự tiệc và nhận quà tặng. Unga hơn tôi bốn mùa theo lối tính năm của chúng tôi. Tôi chỉ là một thanh niên nhưng tôi là chúa tể, và là con của một chúa tể, tuổi tác không đáng kể”.
“Nhưng một chiếc tàu hiện lên với những cánh buồm in hình trên nền đại dương, mỗi lúc càng lớn theo sức gió thổi. Nước từ những lỗ ở mạn tàu chảy ra, những thuỷ thủ đi lại tíu tít và hì hục bơm nước. Trên mũi thuyền có một người lực lưỡng đứng trông chừng nước và ra lệnh bằng một giọng oang oang như sấm sét. Cặp mắt gã màu xanh lơ nhạt của nước biển sâu, và đầu gã bồng lên giống như đầu một con hải sư. Tóc gã màu vàng như rơm gặt ở miền Nam hoặc như những sợi chão của thuỷ thủ kết bằng sợi gai”.
“Những năm sau này chúng tôi có nhìn thấy những tàu ở đằng xa nhưng đây là chiếc đầu tiên tới bờ đảo Akatan. Bữa tiệc đã bị gián đoạn, đàn bà con trẻ chạy trốn về nhà trong khi đàn ông chúng tôi dương sẵn cung và chờ đợi họ với những chiếc lao lăm lăm trên tay. Nhưng khi mũi tàu chạm bãi biển bọn người lạ không chú ý đến chúng tôi mà chỉ lo công chuyện của họ. Khi nước triều xuống, họ kéo nghiêng chiếc tàu và vá một lỗ lớn ở dưới đáy. Thấy thế đám phụ nữ len lén quay trở lại, và bữa tiệc tiếp tục.”
“Khi nước triều lên những thuỷ thủ neo tàu ra chỗ nước sâu rồi tới thăm chúng tôi. Họ mang tặng vật và tỏ vẻ thân thiện; tôi ra lệnh dọn chỗ cho họ và bản tính rộng lượng, tôi ban cho họ quà cưới như tôi đã cho tất cả các khách khác; vì hôm đó là ngày cưới của tôi và tôi là chúa tể ở Akatan. Người có cái bờm hải sư cũng ở đó, hắn cao lớn và mạnh mẽ đến nỗi người ta phải nhìn xem đất có rung chuyển khi hắn đặt chân xuống không. Hai tay khoanh trước ngực, hắn nhìn Unga chằm chặp và ở lại mãi tới khi mặt trời khuất và sao trên trời xuất hiện hắn mới xuống thuyền. Sau đó tôi nắm tay Unga, dẫn nàng về nhà tôi. Mọi người hát xướng, cười giỡn, và phụ nữ trao đổi những câu tinh quái theo lối đàn bà vào những dịp đó. Nhưng chúng tôi không để ý. Sau cùng mọi người ra về cả chỉ còn lại có hai chúng tôi”.
“Khi tiếng chân người chưa xa hẳn thì viên thuyền trưởng đã đẩy cửa bước vào. Gã mang theo những chai màu đen và chúng tôi mở ra uống vui vẻ. Các ông biết, lúc đó tôi chỉ là một thanh niên mới lớn và suốt đời chỉ sống ở ngoài lề thế giới. Một lát sau máu tôi như biến thành lửa và tim tôi nhẹ nhàng như bọt nước bay từ mặt sông lên đầu ghềnh. Unga ngồi nín lặng giữa đống da trong góc nhà, cặp mắt mở rộng như sợ hãi và gã đàn ông có cái bờm hải sư cứ nhìn thẳng vào mặt nàng hồi lâu không chớp. Sau đó bộ hạ của gã mang vào những bọc đồ và gã chất đống trước mặt tôi một tài sản mà tất cả dân ở Akatan góp lại cũng không có nhiều như thế. Có những khẩu súng, lớn có, nhỏ có, thuốc súng, đạn chì, vỏ đạn, những cái rìu sáng loáng và dao bằng thép, những dụng cụ tinh xảo cùng những đồ vật lạ tôi chưa hề trông thấy bao giờ. Khi hắn ra hiệu cho tôi biết rằng tất cả những thứ đó là của tôi, tôi cho rằng gã là một vĩ nhân nên mới rộng rãi như thế; nhưng hắn lại ra hiệu thêm rằng Unga phải theo hắn lên tàu. Các ông có biết không? Unga phải theo hắn lên tàu. Máu của ông cha tôi bừng cháy lên, và tôi định cầm lao đâm suốt người hắn. Nhưng ma quỷ trong những chai hắn mang tới đã đoạt hết sinh lực của cánh tay tôi, thành ra hắn nắm được cổ tôi và đập đầu tôi vào tường nhà. Tôi trở nên yếu ớt như một đứa trẻ sơ sinh, và tôi không còn đứng vững nữa. Unga gào thét, nàng nắm chặt lấy những đồ vật trong nhà, làm những món đồ đổ ngổn ngang xung quanh chúng tôi trong khi gã kia kéo nàng ra cửa. Sau đó hắn nhấc bổng nàng lên trong hai cánh tay hộ pháp. Khi nàng dứt làn tóc vàng của hắn, hắn phá lên cười như tiếng con hải báo rú lên trong khi giao hợp.”
“Tôi bò ra bờ biển và kêu gọi dân của tôi, nhưng họ sợ. Chỉ có Yash-Noosh là còn xứng đáng một con người, nhưng họ lấy bơi chèo đập vào đầu anh ta cho đến khi anh nằm sấp mặt xuống cát không nhúc nhích. Rồi họ vừa giương buồm vừa ca hát và chiếc tàu ra đi theo làn gió.”
“Dân chúng trên đảo nói rằng như thế lại hay, vì sẽ không còn chiến tranh giữa hai dòng máu ở trên đảo Akatan nữa, nhưng tôi không nói nửa lời. Lặng lẽ chờ đến lúc trăng non, tôi bỏ cá và dầu xuống thuyền độc mộc của tôi và ra đi về phía Đông. Tôi đã nhìn thấy nhiều hòn đảo và nhiều dân tộc và tôi, vốn chỉ sống bên lề, nhận thấy rằng thế giới rất rộng. Tôi nói chuyện bằng cách ra dấu hiệu; nhưng người ta không hề trông thấy chiếc tàu hai buồm nào, và cũng không thấy người nào có cái bờm hải sư, và họ cứ chỉ mãi về phía Đông. Tôi ngủ ở những nơi kỳ lạ, ăn những món kỳ quặc và gặp những bộ mặt lạ lùng. Nhiều người cười vì họ cho rằng tôi lãng trí, nhưng đôi khi những ông già quay mặt tôi về phía ánh sáng mà cầu phúc cho tôi, và mắt những thiếu phụ trẻ tuổi trở nên dịu dàng khi họ hỏi tôi về chiếc tàu lạ, về Unga và về những người của biển cả.
“Cứ như thế, vượt qua những biển rộng sóng to cùng những trận bão ghê gớm, tôi đặt chân lên Unalaska. Tại đó có hai chiếc tàu hai buồm, nhưng không có chiếc tàu tôi đang lùng kiếm. Tôi đi mãi về hướng Đông và thấy thế giới càng ngày càng rộng lớn. Tôi tới đảo Unamok rồi Kadiak, rồi Atognak, nhưng đều không được tin gì về chiếc tàu đó cả. Tôi đi mãi như thế cho tới một ngày tôi đặt chân tới một nơi núi non, có những người đào những hố lớn trong núi. Ở đó có một chiếc tàu nhưng không phải chiếc tôi tìm và mọi người chuyển những tảng đá họ đào được lên tàu đó. Tôi nghĩ rằng họ làm một việc trẻ con vì khắp thế giới đâu chẳng bằng đá; nhưng họ cho tôi thức ăn và bắt tôi làm việc. Khi chiếc tàu đã nặng trĩu, viên thuyền trưởng trả tiền cho tôi và bảo tôi đi; nhưng tôi lại hỏi ông ta đi về hướng nào và ông ta chỉ về hướng Nam. Tôi ra hiệu xin đi theo. Ban đầu ông ta cười, nhưng về sau vì thiếu người nên ông mướn tôi theo giúp việc trên tàu. Nhờ thế mà tôi tập nói năng như họ, tập kéo dây, tập cuốn buồm khi gặp bão bất ngờ, và tới lượt cũng ra cầm lái tàu. Nhưng tôi không bỡ ngỡ với lối sống đó, vì máu của ông cha tôi là máu những người đi biển.
“Tôi vẫn tưởng rằng một khi tôi đến chỗ dân tộc của người tôi đang tìm kiếm ở thì tôi sẽ tìm thấy hắn một cách dễ dàng; và một hôm, khi chúng tôi cho tàu cập bến, tôi tưởng sẽ thấy một số tàu nhiều bằng những ngón tay trên hai bàn tay của tôi. Nhưng tàu nằm dọc theo bến dài cả hàng dặm, chen chúc nhau như đàn cá con. Tôi đi giữa đám tàu bè đó để hỏi thăm tìm một người có cái bờm hải sư, người ta cười và trả lời tôi bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Tôi nhận thấy rằng họ là những người từ những nơi xa xôi nhất trên thế giới tới đây”.
“Tôi đi vào trong tỉnh để nhìn mặt từng người nhưng họ đông như đàn cá thu xô nhau lội vào bờ làm tôi không sao đếm xuể. Những tiếng ồn ào đập vào tai tôi đến nỗi tôi chẳng còn nghe gì được, và cảnh nhộn nhịp làm cho tôi choáng váng. Cứ thế, tôi đi, đi mãi, qua những vùng tưng bừng ca hát trong ánh nắng ấm áp, những nơi mùa màng phong phú trải ra khắp cánh đồng, qua những thành thị lớn chen chúc những đàn ông sinh hoạt giống như đàn bà, miệng lưỡi dối trá và tâm địa đen tối vì quá ham muốn vàng bạc. Trong khi đó, dân tộc của tôi ở Akatan vẫn chỉ săn bắn và chài lưới, và họ sung sướng với ý nghĩ rằng thế giới này nhỏ bé”.
“Nhưng cái nhìn hiện ra trong khoé mắt Unga khi nàng trở về sau buổi đánh cá không lúc nào rời bỏ tôi, và tôi biết rằng tôi sẽ tìm thấy nàng khi thời cơ đến. Nàng bước trên những con đường êm ả trong buổi chiều tà, hoặc dẫn tôi đi săn qua những cánh đồng còn ướt sương mai, và trong mắt nàng hiện lên một lời hứa hẹn mà chỉ có Unga mới có được”.
“Cứ như thế, tôi lang thang qua hàng ngàn thành phố. Có người tử tế với tôi và cho tôi thức ăn, có người chế diễu, và có người lại còn nguyền rủa tôi nữa; nhưng tôi cắn răng không nói, tiếp tục đi trên những con đường lạ và nhìn những quang cảnh lạ. Đôi khi tôi, vốn là một chúa tể và con của một chúa tể, phải làm việc cực khổ cho những người khác – những người ăn nói phũ phàng, tâm địa sắt đá, bóc lột mồ hôi nước mắt của những người đồng chủng để lấy vàng. Tuy nhiên không ai trả lời câu tôi hỏi cho mãi tới khi tôi trở lại biển giống như con hải báo trở về hang. Nhưng đây là một hải cảng khác, tại một xứ khác, nằm ở miền Bắc. Tại đó tôi được nghe những chuyện lờ mờ về người đi biển tóc vàng. Tôi được biết là hắn đi săn hải báo và hồi đó hắn đang đi tàu trên Đại dương.”
“Vì vậy tôi cũng lên một chiếc tàu buồm săn hải báo với những người Siwash lười biếng, và theo họ lên phía Bắc nơi mà cuộc săn bắn đang rộn rịp. Chúng tôi trải qua nhiều tháng mệt nhọc, nói chuyện với nhiều nhân viên tàu khác, và nghe nhiều chuyện về những hành động hoang đãng của con người mà tôi tìm kiếm; nhưng không lần nào chúng tôi gặp hắn trên mặt biển. Chúng tôi tiến về hướng Bắc, đến tận Pribilofs, giết cả đàn hải báo trên bờ và đem những xác nóng hổi của chúng lên tàu, nhiều đến nỗi những lỗ ở mạn tàu bết mỡ và máu và không ai đứng vững được ở trên boong. Thế rồi chúng tôi bị một chiếc tàu chạy bằng hơi nước đuổi theo và dùng súng lớn bắn chúng tôi. Nhưng chúng tôi căng buồm lên, tàu chạy mau khiến nước bắn tung toé lên sàn rửa sàn sạch bong, rồi chúng tôi lạc trong đám sương mù”.
“Người ta nói rằng trong khi chúng tôi sợ hãi chạy trốn thì gã đi biển tóc vàng lái tàu tới Pribilofs, đậu ngay tại nhà máy, và trong khi một số người của hắn bắt giữ những người làm của công ty, những đứa còn lại cướp mười ngàn tấm da tươi trong những nhà muối đem lên tàu. Tôi nói rằng người ta kể lại vậy, nhưng tôi tin họ nói đúng, vì trong chuyến tôi đi dọc theo bờ biển, tuy không được gặp hắn nhưng được biết rằng hắn làm những việc dã man tàn bạo khắp các biển Bắc đến nỗi ba nước có đất đai ở đó phải cho tàu đi lùng bắt hắn. Và tôi được nghe cả về Unga nữa, vì các thuyền trưởng không tiếc lời khen nàng đã học những lối sinh hoạt của dân tộc hắn và sống một cách sung sướng. Nhưng tôi biết rõ hơn – tôi biết rằng tâm hồn nàng vẫn hướng về dân tộc nàng ở bên bãi cát vàng xứ Akatan”.
“Vì thế, sau một thời gian, tôi trở về hải cảng gần cổng ngõ của biển cả, và tại đó tôi biết được rằng hắn đã vượt qua hải phận bên này để săn hải báo ở phía Đông miền đất ấm áp từ những biển Nga La Tư chạy xuống phía Nam. Và tôi, tôi đã trở thành thuỷ thủ, nên tôi đã lên tàu cùng với những người đồng chủng của hắn, và rượt theo hắn trong cuộc săn hải báo. Ít tàu bè đi lại ở ngoài khơi giải đất mới đó; nhưng chúng tôi theo sát bên đàn hải báo và săn đuổi chúng mãi về phía Bắc suốt cả mùa xuân. Nhưng khi hải báo cái có mang và vượt sang hải phận Nga, những người đồng bọn của tôi càu nhàu và lấy làm lo sợ vì ở đó nhiều sương mù, và ngày nào cũng có người mất tích cùng với thuyền bè. Họ không chịu làm việc, vì thế viên thuyền trưởng cho thuyền quay về đường cũ. Nhưng tôi biết rằng gã tóc vàng không biết sợ hãi, hắn sẽ bám sát đàn hải báo, dù phải đi đến tận những đảo thuộc Nga, nơi ít người tới. Vì thế giữa đêm tối, tôi lấy một chiếc thuyền và nhân lúc tên gác ngủ gật tôi ra đi một mình để tới giải đất dài ấm áp. Tôi đi về phía Nam để gặp những người ở vịnh Yeddo là những người man rợ không biết sợ hãi là gì. Những cô gái Yoshiwara nhỏ bé thông minh, nhanh nhẹn và dễ coi, nhưng tôi không thể dừng chân lại đó vì tôi biết rằng Unga đang đứng trên sàn tàu bập bềnh gần những nơi ẩn trú của hải báo ở miền Bắc.”
“Những người ở vịnh Yeddo đã từ những chân trời góc biển tới gặp nhau, họ là những người vô tín ngưỡng vô gia cư, và họ đi tàu cắm cờ Nhật Bản. Cùng với họ tôi tới những bờ biển phong phú của Đảo Đông, nơi mà những đống muối của chúng tôi trở nên cao vòi vọi với những tấm da. Mãi tới khi chúng tôi sẵn sàng ra về, chúng tôi không thấy một bóng người nào trên mặt biển im lìm đó. Một hôm sương mù vừa bị gió thổi mạnh làm tan đi, chúng tôi thấy một chiếc tàu hiện ra sát bên chúng tôi, theo sau nó là những làn khói của một chiếc tàu chiến Nga. Chúng tôi chạy trốn theo chiều gió, và chiếc tàu mỗi lúc càng gần hơn vì nó chạy nhanh hơn. Ở đuôi tàu là con người có cái bờm hải sư đang tì bên lan can tàu, miệng cười như nắc nẻ. Unga cũng ở đó – trông thấy nàng tôi nhận ra ngay – nhưng hắn bảo nàng xuống hầm tàu khi tiếng đại bác bắt đầu vang rền trên mặt biển. Như tôi nói, chiếc tàu đó chạy nhanh gấp rưỡi tàu chúng tôi nên một lát sau chúng tôi nhìn thấy cái bánh lái của nó nhấp nhô – tôi vừa quay bánh lái vừa nguyền rủa, lưng tôi quay về phía họng súng của chiếc tàu Nga. Chúng tôi biết rằng hắn định chạy trước chúng tôi để có thể trốn thoát trong khi chúng tôi bị bắt. Những cột buồm của chúng tôi bị bắn gãy, nên tàu đi chậm hẳn lại như một con hải âu bị thương, trong khi hắn tiếp tục vượt qua chân trời - hắn và cả Unga nữa.”
“Chúng toi còn cãi sao được? Những tấm da mới kia đã đủ để tố cáo chúng tôi. Thế là họ điệu chúng tôi tới một hải cảng Nga, và sau đó tới một xứ hẻo lánh. Nơi đây họ bắt chúng tôi đi đào muối trong những hầm mỏ. Một số người chết và một số sống sót.”
Naass tuột chiếc khăn trên vai xuống cho chúng tôi thấy những mảnh thịt sần sùi, răn rúm, rõ ràng là những vết sẹo do những làn roi da để lại. Prince vội vã khoác chăn lại cho hắn vì đó không phải là một cảnh đẹp mắt gì.
“Chúng tôi sống một thời gian cực khổ tại đó. Đôi khi có người trốn được về phía Nam, nhưng rồi đều phải quay lại, vì vậy, khi bọn người bị bắt ở vịnh Yeddo chúng tôi nổi loạn vào ban đêm và tước được súng ống của bọn gác, chúng tôi bèn đi về phía Bắc. Đất đai ở đó rộng mênh mông, với những cánh đồng sũng nước cùng những rừng rậm bao la. Rồi mùa lạnh tới, đất phủ dày tuyết, và không ai biết đường cả. Bao tháng trời khổ sở, chúng tôi đi qua khu rừng hầu như bất tận – bây giờ tôi không nhớ được, vì thức ăn thiếu thốn và đôi khi một vài người lăn ra chết. Nhưng sau cùng chúng tôi tới được bờ biển lạnh lẽo, nhưng chỉ còn có ba người được trông thấy cảnh đó thôi. Một người trong bọn giữ chức thuyền trưởng từ lúc rời Yeddo, và gã thông thạo tất cả những vùng đất rộng và gã biết một nơi người ta có thể đi qua tuyết để sang một vùng đất khác. Gã dẫn đường chúng tôi – lâu lắm, tôi không biết là bao lâu nữa – cho đến khi chỉ còn hai người. Khi chúng tôi tới nơi đó, chúng tôi gặp năm người lạ vẫn sống tại đó. Họ có chó và da, nhưng chúng tôi chẳng còn có gì để đổi. Chúng tôi đánh nhau với họ trên tuyết cho đến khi họ chết và ông thuyền trưởng cũng chết. Thành ra chó và da đều thuộc về tôi. Sau đó tôi vượt qua vùng tuyết, nhưng tuyết bị vỡ. Tôi trôi nổi trên biển mãi, sau nhờ một cơn gió từ phía tây thổi tới đưa tôi lên bờ. Sau đó là vịnh Golovin, Pastilik, rồi gặp vị linh mục. Tôi tiếp tục đi về hướng Nam, tới những vùng ấm áp mà tôi đã đi qua lúc ban đầu.”
“Nhưng biển cả không còn đem lại nhiều lợi nữa. Những người đi biển để săn hải báo kiếm được ít lợi lại gặp nhiều nguy hiểm. Tàu bè thưa dần, những thuyền trưởng cùng những thuỷ thủ đều không biết về hai người mà tôi tìm kiếm. Vì thế, tôi rời bỏ Đại Dương luôn luôn sống động, và đi vào đất liền, nơi mà cây cối, nhà cửa, núi non luôn luôn im lìm một chỗ không bao giờ di chuyển. Tôi đi nhiều nơi và dần dần biết được nhiều điều, kể cả viết và đọc chữ trong sách. Tôi học được điều này thật là hay, vì tôi nghĩ rằng Unga thế nào cũng biết đọc và biết viết, và một ngày kia, khi thời cơ đến – chúng tôi – các ông hiểu đó, khi thời cơ đến”.
Cứ thé, đời tôi trôi dạt đi giống như những con cá nhỏ kia chỉ biết lao mình trước sóng gió nhưng không điều khiển được nó. Nhưng mắt tôi và tai tôi luôn luôn mở rộng. Tôi len lỏi trong đám người đã từng trôi nổi nhiều, vì tôi biết rằng thế nào họ cũng gặp những người tôi tìm kiếm. Sau cùng, có một người mới ở vùng núi tới mang theo những hòn đá trong đó lẫn những cục vàng ròng lớn bằng hạt đậu phụng. Anh chàng này nghe tiếng họ, đã gặp gỡ họ, và đã quen biết họ. Hắn nói rằng họ giàu có và sống tại nơi mà người ta lấy vàng từ dưới đất lên.
Nơi đó ở vào một vùng rừng rú xa xôi; nhưng rồi tôi cũng tới trại đó, khuất giữa những hòn núi, nơi người ta làm việc đêm ngày, xa cách ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, thời cơ vẫn chưa đến. Tôi nghe mọi người nói chuyện. Người ta cho biết là hắn đã ra đi – họ đã ra đi – sang Anh Cát Lợi để quy tụ những người có tiền và thành lập công ty. Tôi nhìn thấy tòa nhà họ ở; toà nhà đó giống như một toà lâu đài mà người ta thấy ở những nước cổ xưa. Ban đêm, tôi len qua một cái cửa sổ để xem cách hắn đối xử với nàng như thế nào. Tôi đi từ phòng này sang phòng khác, và tôi cho rằng vua chúa cũng chỉ sống như vậy thôi, vì tất cả đều rất đẹp. Và ai cũng nói rằng hắn đối xử với nàng như một bà hoàng, và nhiều người ngạc nhiên không biết nàng thuộc về dòng giống nào vì trong mạch máu của nàng có dòng máu khác, và nàng khác với những phụ nữ ở Akatan, nhưng không ai biết nàng là ai cả. Ừ, thì nàng là một bà hoàng, nhưng tôi là một chúa tể, và là con một chúa tể, và tôi đã trả một giá không ước lượng được bằng da thú, thuyền bè và chuỗi hạt để cưới nàng.
“Nhưng nói nhiều như thế làm chi? Tôi là một thuỷ thủ, tôi biết những chuyến đi của tàu bè trên mặt biển. Tôi theo sang tới Anh Cát Lợi, rồi tới các xứ khác. Đôi khi tôi nghe người ta nói về họ, đôi khi tôi đọc tin tức nói về họ trong báo chí, tuy nhiên tôi không bắt kịp họ, vì tôi nghèo trong khi họ có nhiều tiền bạc, đi lại mau chóng. Nhưng rồi họ gặp chuyện khó khăn, tài sản của họ một hôm tan đi như một làn khói. Hồi đó tất cả các báo đều đăng tin ấy; nhưng sau đó bặt hẳn tin tức. Tôi biết rằng họ đã quay lại nơi người ta đào được vàng ở dưới đất lên”.
“Bây giờ họ nghèo nên họ lạc lõng ra ngoài thế giới. Tôi đi lang thang tìm họ hết trại này đến trại khác. Lên tới phía Bắc xứ Kootenay, tôi mới tìm được tông tích của họ. Họ đã tới nhưng lại đi rồi, người nói đường này, kẻ nói đường khác, có người lại bảo rằng họ đi về xứ Yukon. Lúc đi đường này, khi theo đường khác, tôi xê dịch hết chỗ này tới chỗ nọ, mãi tới khi tôi cảm thấy mệt nhọc vì thế giới rộng lớn quá. Ở Kootenay tôi đã chọn phải một con đường xấu, con đường mòn dài dặc, để cùng đi với một gã ở vùng Tây Bắc, và gã này lăn ra chết khi bị cơn đói dằn vặt. Gã đã từng tới Yukon bằng một con đường xuyên sơn chưa ai biết, và khi biết mình sắp chết gã đã cho tôi bản đồ và chỉ cho biết một chỗ bí mật và hắn đem tất cả thần thánh ra thề rằng ở đó có rất nhiều vàng.”
“Sau thời đó, tất cả mọi người đều đổ xô về miền Bắc. Vì nghèo tôi phải bán mình làm phu đánh xe. Chuyện về sau các ông đã biết. Tôi gặp hắn và nàng ở Dawson. Nàng không nhận ra tôi vì hồi trước tôi chỉ là một chàng trai mới lớn, và đời nàng bao la quá, nên nàng không có thì giờ để nhớ tới con người đã trả một giá không ước lượng được để cưới nàng.”
“Thế rồi ông bỏ tiền chuộc tôi. Tôi thoát ra để thực hiện mọi điều theo đường lối của tôi vì tôi đã chờ đợi lâu rồi. Bây giờ tôi không vội vã vì tôi đã nắm được hắn. Như tôi nói, tôi quyết làm theo đường lối của tôi. Tôi nhớ lại quãng đời xưa kia, qua tất cả những điều tôi đã chứng kiến và chịu đựng, tôi nhớ nhất cảnh lạnh lẽo và đói khát trong khu rừng vô tận bên những biển Nga La Tư. Như các ông biết, tôi dẫn hắn – hắn và Unga – về phía Đông là nơi người ta ra đi thì nhiều và trở về rất ít. Tôi dẫn họ tới nơi mà xương cốt của những kẻ tìm vàng còn nằm phơi bên đống vàng mà họ không lấy nổi và lời nguyền rủa của họ như còn phảng phất đây đó”.
“Đường xá xa xôi, nẻo đi mờ mịt. Đàn chó của tôi đã nhiều lại ăn khoẻ, và những xe lướt tuyết của chúng tôi chỉ dùng được cho tới giữa mùa Xuân. Chúng tôi phải trở về trước khi dòng sông chảy xiết. Vì thế chúng tôi giấu thức ăn chỗ này chỗ nọ, để xe của chúng tôi nhẹ bớt và lúc về khỏi bị chết đói. Ở McQuestion có ba người, và chúng tôi giấu thực phẩm ở gần đó. Chúng tôi giấu cả ở Mayo, nơi có trại săn của hơn một chục người Pelly đã từ miền Nam vượt qua đường biên giới. Sau đó chúng tôi không gặp một bóng người trong khi tiếp tục tiến về phía Đông; chỉ thấy dòng sông im lìm, rừng sâu vắng lặng và cảnh vật trắng xoá của miền Bắc. Như tôi nói, đường xá xa xôi và nẻo đi mờ mịt. Đôi khi, cả ngày chúng tôi vất vả lắm mới đi được hơn chục cây số, và đêm tối chúng tôi lăn ra ngủ như chết. Nhưng họ không bao giờ ngờ rằng tôi là Naass, chúa tể Akatan, thần công lý của họ.”
“Lúc này chúng tôi làm những chỗ giấu thực phẩm nhỏ hơn, và ban đêm, tôi đỡ phải khổ nhọc hơn khi đi ngược lại những quãng đường cũ, đem giấu các thực phẩm sang chỗ khác, và nguỵ trang chỗ giấu để người ta tưởng lầm bầy chó sói đã ăn trộm hết thực phẩm. Nhiều nơi có thác đổ xuống sông, nước chảy xiết, phía trên nước biến thành băng, còn bên dưới chẳng có gì. Tại một chỗ thác đó, chiếc xe tôi ngồi bị lọt xuống một khe đá vỡ và đàn chó cũng chết cả; nhưng hắn và Unga chỉ coi đó là một chuyện không may. Ấy là xe đó có nhiều thức ăn và những con chó khoẻ mạnh nhất. Nhưng hắn cười, vì hắn đầy sinh lực. Hắn cho những con chó còn lại ăn rất ít, rồi chúng tôi bắt đầu giết dần từng con chó một trong đoàn để lấy thịt nuôi đồng bọn. Hắn nói rằng chúng tôi nên mang nhẹ khi trở về, chúng tôi sẽ lấy thực phẩm ở một chỗ giấu ăn cho tới chỗ giấu kế đó, chúng tôi chẳng cần chó mà cũng chẳng cần xe; điều này rất đúng, vì thức ăn của chúng tôi rất khan và con chó cuối cùng đã chết ngay đêm chúng tôi tới nơi người ta để lại vàng, xương cốt và những lời nguyền rủa.”
“Muốn tới chỗ đó, ở trong lòng những hòn núi vĩ đại – và tấm bản đồ đã nói đúng – chúng tôi đào những bục ở trong tuyết trên bức tường ngăn. Chúng tôi đưa mắt tìm một thung lũng ở bên kia, nhưng không có thung lũng nào cả, tuyết trải dài tới phía xa, bằng phẳng như những cánh đồng lúa, và đó đây xung quanh chúng tôi, có những mỏm núi hùng vĩ đưa những mũi nhọn trắng xoá chỉ thẳng vào trăng sao. Và ở giữa cánh đồng kỳ lạ mà trước kia là một thung lũng, đất và tuyết tan đi đâu mất thành một lỗ hổng đâm thẳng vào lòng đất. Nếu chúng tôi không từng làm thuỷ thủ thì cảnh này đã làm đầu óc chúng tôi choáng váng, nhưng chúng tôi vẫn đứng ở trên bờ và suy tính xem có cách nào để đi xuống không. Ở một mé, chỉ có mé đó thôi, bức tường sụp đi trông như con đường dốc của boong tàu bị trận gió thổi nghiêng. Tôi không biết tại sao chỗ đó lại như vậy, nhưng nó đúng như thế. Hắn nói: “Đây là miệng hoả ngục, chúng ta xuống đi.” Thế rồi chúng tôi đi xuống.
“Ở dưới đấy có một căn lều không biết của ai dựng lên bằng những cây gỗ từ bên trên vứt xuống. Đó là một căn lều dựng lâu ngày lắm rồi, vì đã có nhiều người chết trơ trọi tại đó vào nhiều thời kỳ khác nhau và trên những mảnh vỏ cây chúng tôi đọc được những lời trối trăn và những lời nguyền rủa của họ. Một người đã chết vì bệnh thũng; một người khác đã bị bạn đồng hành ăn cắp hết tất cả thực phẩm và thuốc súng rồi bỏ trốn; một người thứ ba đã bị một con gấu vồ làm cho bị thương nặng mà chết; người thứ tư đi săn thú rồi chết bên đống vàng bằng cách này hay cách khác. Và đống vàng vô giá trị mà họ đã thu thập phủ kín sàn lều, một màu vàng ối giống như trong giấc chiêm bao”.
“Nhưng con người mà tôi đã dẫn tới chốn đó vẫn bình tĩnh sáng suốt. Hắn nói: “Chúng ta không có gì để ăn. Chúng ta chỉ nhìn đống vàng này và coi xem nó ở đâu tới và được tất cả bao nhiêu. Xong rồi chúng ta phải bỏ đi mau, trước khi vàng làm mờ mắt chúng ta và làm chúng ta mất trí suy xét. Như thế, sau này chúng ta có thể quay lại với nhiều thực phẩm hơn và lấy tất cả số vàng.” Thế rồi chúng tôi tới xem mạch vàng ăn dọc theo bức vách thung lũng, chúng tôi đo mạch vàng đó, vạch phía trên và phía dưới, lấy cọc đóng để giữ chủ quyền và đốt những cây để làm dấu là vàng đã có chủ. Thế rồi đầu gối run run vì thiếu thức ăn, bụng nôn nao, tim như muốn trào lên miệng, chúng tôi leo lên bức tường hùng vĩ một lần cuối cùng và quay lại đường về.
“Trong đoạn cuối chúng tôi dìu Unga đi, chúng tôi ngã luôn, nhưng sau cùng cũng tới được chỗ giấu thức ăn. Nhưng kìa, chẳng còn gì cả. Tôi xếp đặt thật khéo và hắn cho là bọn sói ăn mất, và hắn nguyền rủa chúng và thần thánh của hắn luôn một hồi. Nhưng Unga rất can đảm, nàng cười và đặt tay lên tay hắn, đến nỗi tôi phải quay đi để giữ cho lòng bình tĩnh. Nàng nói: “Chúng ta sẽ nghỉ bên đống lửa cho tới sáng và chúng ta sẽ ăn da giày để lấy lại sức.” Thế là chúng tôi cắt cổ những đôi giày thành những dải dài và nấu đến tận nửa đêm để chúng tôi có thể nhai nuốt được. Tới sáng chúng tôi bàn cách thoát. Chỗ giấu thức ăn tiếp ở đó cách xa năm ngày đường; chúng tôi không thể tới được. Chúng tôi phải tìm thú săn.
”Hắn nói: “Chúng ta sẽ đi săn!”
Tôi nói: “Phải, chúng ta đi săn!”
“Hắn ra lệnh Unga phải ở lại bên đống lửa để dưỡng sức. Chúng tôi ra đi, hắn đi tìm tuần lộc để săn còn tôi thì đi lại chỗ giấu thực phẩm mà tôi đã chuyển đi nơi khác. Nhưng tôi ăn cầm chừng để họ thấy là tôi cũng không khoẻ lắm. Đến tối trên đường trở về trại, hắn ngã lên ngã xuống. Tôi cũng làm bộ yếu đuối lắm, luôn luôn vấp ngã làm như mỗi bước chân là bước cuối cùng của tôi. Chúng tôi lại xẻo bớt da giày để ăn lấy sức.”
“Hắn là một tên cừ khôi. Tâm hồn hắn nâng đỡ thể xác hắn cho tới phút cuối cùng; hắn không than khóc mà chỉ xót xa cho Unga. Ngày thứ hai tôi cố tình đi theo hắn để được chứng kiến phút cuối cùng. Hắn phải ngồi xuống nghỉ luôn. Đêm đó hắn mệt gần chết; nhưng đến sáng hắn chửi thề bằng một giọng yếu ớt rồi lại ra đi nữa. Hắn như người say rượu, nhiều lần tôi trông đợi hắn bỏ cuộc, nhưng sức hắn là sức của một người lực lưỡng và tâm hồn hắn là tâm hồn của một người khổng lồ, vì hắn vác nổi xác hắn vượt qua được cái ngày cực nhọc đó. Hắn bắn được hai con gà rừng, nhưng không chịu ăn. Hắn ăn sống cũng được, và hắn sẽ thoát chết nhờ chúng nhưng tâm trí hắn đều hướng về Unga nên hắn quay trở về nơi cắm trại.
“Hắn không đi được nữa mà phải bò như một đứa con nít trên tuyết. Tôi tới gần hắn và nhìn thấy thần chết hiện trong mắt hắn. Đến lúc đó nếu hắn chịu ăn thịt gà rừng thì hãy còn chưa quá chậm. Hắn ném khẩu súng đi và đưa hai con gà lên mồm ngậm như một con chó. Tôi đi bên hắn, người đứng thẳng. Trong những lúc nghỉ, hắn nhìn tôi và tự hỏi tại sao tôi lại khoẻ như thế. Tôi có thể nhìn thấy câu hỏi đó, tuy hắn không còn nói được nữa, dù miệng hắn có mấp máy hắn cũng chẳng thốt ra được lời nào. Như tôi nói, hắn là một tay cừ khôi và lòng tôi như khẽ giục tôi nhẹ tay với hắn, nhưng tôi nhớ lại quãng đời đã trải qua, nhớ lại cảnh đói rét trong khu rừng bất tận gần những biển Nga La Tư. Hơn nữa, Unga là của tôi và tôi đã mua nàng bằng một giá chưa từng thấy với những tấm da, những chiếc thuyền, và những chuỗi hạt.
“Cứ như thế, chúng tôi đi qua khu rừng trắng toát, với bầu không khí im lặng đè nặng lên chúng tôi như một đám sương mù ướt át của biển cả. Những hồn ma của dĩ vãng phảng phất trong không khí, lẩn quất chung quanh chúng tôi; tôi nhìn thấy bờ biển cát vàng của Akatan, những chiếc thuyền bọc da chạy đua trở về sau buổi đánh cá và những túp lều bên ven rừng. Những người đã tự tôn lên làm chúa tể cũng có mặt ở đó, những người ra luật lệ mà dòng máu còn để lại trong huyết quản tôi và trong Unga mà tôi đã cưới làm vợ. Lại còn Yash-Noosh cùng đi với tôi, cát ẩm dính vào tóc gã, và chiếc lao, đã gãy khi hắn ngã đè lên, hãy còn trong tay gã. Tôi biết rằng thời cơ đã đến, và tôi nhìn thấy trong mắt Unga lời hứa hẹn.”
“Chúng tôi đi xuyên qua rừng cho đến khi làn khói của trại phả vào mũi chúng tôi. Tôi cúi xuống phía hắn và giật lấy con gà hắn cắn giữa hai hàm răng. Hắn nằm nghiêng, vẻ ngạc nhiên hiện lên trong mắt hắn và bàn tay phía dưới chậm chạp lần tới phía con dao hắn đeo ở bên hông. Nhưng tôi dằng lấy dao của hắn và nhe răng cười sát vào mặt hắn. Nhưng tới lúc đó hắn vẫn không hiểu. Vì thế tôi phải làm bộ uống ở những cái chai màu đen, làm bộ chất trên tuyết một đống hoá vật và diễn lại tất cả những chuyện đã xảy ra trong đêm cưới. Tôi không nói một lời, nhưng hắn hiểu. Tuy vậy hắn không sợ hãi. Môi hắn trề ra một cách khinh bỉ, hắn giận dữ và hắn như được tiếp thêm sức lực mới sau khi biết rõ chuyện. Đường không xa nhưng tuyết dày và hắn lê mình rất chậm. Có lần hắn nằm lâu quá đến nỗi tôi phải lật hắn lại và nhìn vào hai mắt. Có lúc chính hắn nhìn tôi qua đôi mắt hắn, có lúc lại là thần chết nhìn tôi. Khi tôi buông hắn ra hắn lại tiếp tục lết tới. Cứ như thế chúng tôi lần về đống lửa. Unga tới ngay bên hắn. Môi hắn mấp máy không ra tiếng; rồi hắn chỉ tôi để may ra Unga hiểu chăng. Sau đó hắn nằm im trên tuyết không cử động một hồi lâu. Cho tới lúc này hắn vẫn còn nằm trên tuyết.”
“Tôi chẳng nói chẳng rằng, lặng lẽ nướng chín con gà. Sau đó tôi nói với nàng bằng tiếng của nàng, thứ tiếng mà bao nhiêu năm nàng không hề nghe. Nàng thẳng người lên, mắt mở to kinh ngạc. Nàng hỏi tôi là ai và tôi học thứ tiếng đó ở đâu.
”Tôi nói: “Tôi là Naass.”
Nàng nói: “Anh? Anh?” Và nàng lết lại gần để nhìn tôi cho rõ.
Tôi trả lời: “Phải, tôi là Naass, chúa tể ở Akatan, người cuối cùng của dòng máu, cũng như nàng là người người cuối cùng của dòng máu kia.”
“Nàng phá lên cười. Nhân danh tất cả những điều mắt tôi đã thấy, và tất cả những hành động đã qua của tôi, tôi van vái cho đừng bao giờ phải nghe lại một tràng cười như vậy nữa. Tôi ngồi đó, giữa vùng trắng xoá im lìm, trơ trọi, với cái chết và người đàn bà đang cười như rú lên, làm lòng tôi lạnh buốt.”
“Tưởng rằng nàng đã mất trí, tôi nói: “Nào ăn đi rồi chúng ta đi. Từ đây tới Akatan đường còn xa lắm.”
“Nhưng nàng rúc mặt vào làn tóc vàng của hắn và phá lên cười khiến tôi tưởng chừng như tất cả trời đất đều sụp xuống xung quanh tai chúng tôi. Tôi nghĩ rằng nàng sẽ hết sức vui mừng được nhìn thấy tôi, được nhắc lại những kỷ niệm thuở xa xưa, nhưng câu chuyện hình như xoay ra một chiều hướng kỳ lạ.”
“Tôi cầm chặt bàn tay nàng và nói lớn: “Đi đường xa và tối lắm. Chúng ta gấp lên!”
“Nàng ngồi dậy. Cơn vui lạ lùng của nàng chấm dứt. Nàng hỏi: “Đi đâu?”
“Tôi trả lời: “Đi Akatan”, và chờ đợi ý nghĩ này sẽ làm cho mặt nàng vui lên. Nhưng nàng cũng giống hắn, nàng bĩu môi một cách khinh bỉ và mặt nàng có vẻ giận.
”Nàng nói: “Phải, anh và tôi sẽ cầm tay nhau đi về Akatan. Chúng ta sẽ sống trong những túp lều bẩn thỉu, sẽ ăn cá và dầu và sẽ sinh con đẻ cái - những đứa con mà chúng ta sẽ tự hào suốt đời. Chúng ta sẽ quên thế giới và sẽ sống sung sướng, rất sung sướng. Tốt đẹp, tốt đẹp vô cùng. Đi! Chúng ta trở về Akatan đi. Mau lên kẻo muộn.”
“Nàng luồn tay vào đám tóc vàng của hắn và mỉm cười một cách kỳ cục. Trong mắt nàng không có lời hứa hẹn nào cả.”
“Tôi ngồi im, ngạc nhiên suy nghĩ về tâm tính kỳ lạ của phụ nữ. Tôi nhớ lại cái đêm hắn kéo nàng ra khỏi tay tôi, nàng kêu thét lên và dứt tóc hắn – làn tóc mà ngày nay nàng mân mê chẳng chịu rời. Tôi nhớ lại cái giá tôi đã trả và những năm chờ đợi dài lê thê; tôi túm lấy nàng và kéo nàng đi như hắn đã làm. Nàng giằng trở lại, giống như đêm hôm đó, và kháng cự như một con mèo cái bảo vệ đàn con. Khi tôi kéo được nàng sang bên kia đống lửa, tôi mới buông nàng ra, và nàng ngồi nghe tôi nói. Tôi thuật cho nàng tất cả những chuyện xảy ra trong thời gian xa cách, tất cả những điều đã xảy ra cho tôi trên những vùng biển lạ lùng, tất cả những việc tôi đã làm tại những nơi xa lạ; chuyện tôi đi hỏi thăm, những năm đói khát, và lời hứa hẹn từ ban đầu là nàng sẽ thuộc về tôi. Phải, tôi thuật lại tất cả, cả câu chuyện đã xảy ra ngày hôm đó giữa hắn và tôi. Trong khi tôi nói, tôi nhìn thấy lời hứa hẹn càng lúc càng hiện rõ trên mắt nàng, cặp mắt tròn to như cảnh bình minh. Tôi đọc trong đó nỗi thương hại, tính dịu dàng, tình yêu, lòng dạ và tâm hồn của Unga. Và tôi lại biến thành chàng trai mới lớn, vì cái nhìn là cái nhìn của Unga khi nàng chạy trên bãi biển, miệng cười vang, về hướng nhà của mẹ nàng. Những nỗi lo âu, đói khát và chờ đợi cực nhọc đều tan hết. Thời cơ đã đến, tôi cảm thấy tiếng gọi trong ngực nàng, tôi thấy như tôi phải ngả đầu vào đó để quên hết chuyện đời. Nàng mở hai cánh tay đón tôi, và tôi đến dựa vào nàng. Bỗng nhiên hận thù bùng cháy trong mắt nàng và bàn tay nàng đã ở bên hông tôi. Nàng cầm dao dâm một lần, hai lần.
“Nàng bĩu môi nói: “Đồ chó!” và xô tôi xuống tuyết. “Đồ heo!” Rồi nàng phá lên cười cho đến khi bầu không khí im lìm bị nứt rạn, rồi nàng trở lại bên người chết.
“Như tôi nói, nàng cầm dao đâm tôi một lần, rồi hai lần; nhưng nàng yếu đuối và thiếu ăn, và trời chưa muốn tôi chết. Tuy vậy tôi đã định ở lại nơi đó và nhắm mắt ngủ giấc triền miên với những người mà cuộc đời đã va chạm với đời tôi và đưa chân tôi lên những nẻo đường vô định. Nhưng tôi còn một món nợ khiến tôi không thể nằm nghỉ được.
“Con đường thật dài, trời lạnh như cắt, và thực phẩm thiếu thốn. Bọn Pelly không săn được tuần lộc nên ăn cắp mất chỗ thực phẩm của tôi giấu. Cả chỗ ba người da trắng cũng vậy, nhưng khi tôi đi qua căn lều của họ, tôi thấy cả ba đều nằm chết, thân hình gầy quắt lại. Sau đó tôi không nhớ gì nữa, cho mãi tới khi tôi tới đây, và thấy thực phẩm và lửa - nhiều lửa.”
Nói xong hắn ngồi thu mình sát vào cái lò như sợ nó mất đi. Một lúc lâu chỉ có ngọn đèn dầu chập chờn chiếu những thảm cảnh lên tường.
”Nhưng Unga!” Prince kêu lớn, hình ảnh này hãy còn in rõ trong trí chàng.
”Unga à? Nàng không chịu ăn con gà. Nàng nằm, hai tay ôm cổ hắn, mặt nàng rúc vào đám tóc vàng của hắn. Tôi xê đống lửa lại gần để nàng đỡ bị lạnh, nhưng nàng lại trèo qua phía bên kia. Tôi đốt thêm đám lửa bên đó nữa, tuy nhiên nó cũng chẳng ích lợi gì mấy vì nàng không chịu ăn. Tới bây giờ họ vẫn còn nằm như thế trên tuyết.”
“Còn anh?” Malemute Kid hỏi.
“Tôi không biết; nhưng Akatan là một nơi nhỏ bé, và tôi cũng chẳng muốn trở lại sống bên lề thế giới. Đời sống thật là vô nghĩa. Tôi có thể đi gặp ông Constantine, ông ta sẽ xiềng xích tôi, một ngày kia người ta sẽ buộc một vòng thong lọng, như thế này, rồi tôi sẽ được ngủ yên. Nhưng không; tôi chưa biết sẽ làm gì.”
“Prince cất giọng phản đối: “Nhưng này, anh Kid, đây là một vụ sát nhân!”
Malemute Kid nói: “Hừ! Trong đời có những điều vượt trên sự khôn ngoan của chúng ta, cao cả hơn nền công lý của chúng ta. Chúng ta không thể phê phán được sự phải hay trái của điều này, và nó không thuộc quyền chúng ta phán xét.”
Naass xích lại gần ngọn lửa hơn nữa. Mọi người đều im lặng và trong mắt mỗi người đều có rất nhiều hình ảnh hiện lên rồi lại mờ dần.
Chú thích:
[1] Độ Fahrenheit
° Chữ malemute nghĩa là giống chó kéo xe, còn kid là 1 từ có ý như thằng nhóc. Đại khái cái tên này có nghĩa như “Cậu Chó”, “Tiểu Cẩu”, v.v. nhưng trong tiếng Anh, nhất là đối với vùng này, nó không có nghĩa xúc phạm mà còn có hàm ý “giang hồ”, chỉ sự can đảm, dày dặn. (Chú thích của người hiệu đính)
[2] Chừng 120 cây số