Thời tiết sau khi vào hạ dần dần nóng bức, vừa nghĩ tới mùa hạ chân chính còn chưa tới, đã lần lượt thấy tin tức có người bị nóng chết liền cảm thấy buồn bực.
Tất cả mọi người trong phòng làm việc đang chống đỡ hết mức, mặt căng thẳng như dây cót vặn đến cùng tùy thời có thể bung ra. Không có gì khó chịu hơn so với trời nóng bức mà không có máy lạnh. Nhất là tám người cùng tám cái máy tính chen chúc trong không gian hơn mười mấy mét vuông. Không ai nói chuyện, nói ra chỉ càng thêm nóng, không ai than phiền, than phiền chỉ càng lãng phí thể lực của mình. Vùi đầu làm cho xong rồi về là nhận thức chung mà mọi người hiếm khi cùng đạt đến. Tôi vừa cố gắng làm cho mình bình tĩnh, vừa hiệu đính bài viết, thế nhưng sau đó nhận được điện thoại lại khiến tôi không cách nào bình tĩnh nổi, mà lập tức xin nghỉ chạy tới nhà Kỷ Nhan.
Điện thoại là Lý Đa gọi tới, trong loa cô bé vừa khóc nức nở nói Kỷ Nhan đột nhiên té xỉu, hơn nữa đưa đến bệnh viện cũng không khám ra được gì, chỉ có thể nằm truyền nước biển. Hiện tại Lý Đa cũng luống cuống, đành phải gọi điện thoại cho tôi.
Tôi trước giờ luôn cho rằng Tây y của Trung Quốc vô tình hay cố ý lừa bịp, họ thích đi con đường đặc biệt của mình, vì vậy họ thông minh phát minh ra Trung Tây y, có lẽ là xem nhiều Transformer rồi, ngây thơ cho rằng phàm là hợp thể đều sẽ cường đại ưu tú, tiếc rằng chữa bệnh lại không phải thứ đơn giản cầm đến xem như vậy, cho nên khi họ gặp phải bệnh không chẩn trị được sẽ lấy ra một đống thuật ngữ nhân dân chúng tôi không hiểu nổi để lừa dối chúng tôi, nhỏ như cảm cúm cảm mạo, lớn như khai đao giải phẫu, dựa vào trục lợi làm gốc, lấy trị không hết làm tôn chỉ. Chẳng qua kỳ lạ là một vài người lại hô to Tây y là thế giới y học, đáng tiếc hắn quên mất phàm là thế giới, đến Trung Quốc nhiều ít đều mang theo điểm đặc sắc của Trung Quốc, giống như ngân hàng vậy, thu lệ phí dựa sát theo quốc tế, mà phục vụ lại phải có phức cảm bản thổ.
Khi chạy tới bệnh viện, tôi thế mà gặp được một người đã lâu không thấy.
Kỷ Học, chú họ của Kỷ Nhan, ông vốn không thích đi lại hơn nữa sau lần nọ ở Oán Nhai đã mất đi một chân, ông vốn càng không thể nào tới nơi này, nhưng ông rốt cuộc vẫn phải tới, hơn nữa tới đúng lúc như vậy.
Mặt Kỷ Học như trước gầy gò, đôi mắt trũng sâu nhưng rất hữu thần, ông không dùng gậy chống, người bên cạnh nào có thể nhìn ra một chân của ông là chi giả? Tuy rằng tôi biết một người Mỹ da đen có thể nhảy vũ điệu đường phố chỉ với một chân, hơn nữa rất tốt, song dù sao cũng là số ít.
"Ta tới cứu nó." Kỷ Học nhìn Kỷ Nhan nhắm chặt hai mắt nằm trên giường, từ trong túi lấy ra một bọc giấy màu trắng, bên trong dường như bọc thứ gì đó. Vừa mở ra nhìn, là một ít thuốc viên nhỏ, khoảng bằng nửa móng tay, từng viên một tròn xoe, chỉ có điều phần giấy bọc tiếp xúc với viên thuốc đều đã biến thành màu lam nhạt.
"Đem những viên này ấn theo mỗi ngày uống vào, sau bốn ngày lại đem túi thuốc bột này hòa với nước uống thì sẽ không sao nữa." Kỷ Học lấy ra một bọc đồ đưa cho tôi, tôi lại đưa cho Lý Đa, Lý Đa lau nước mắt, vội vàng gật đầu, cất hai túi thuốc vào.
Tôi nhìn Kỷ Nhan, đã có Lý Đa chăm sóc, tôi đương nhiên không còn việc gì nữa, Kỷ Học đang muốn rời đi, lại bị tôi ngăn cản.
"Có thể nói cho con biết đó là gì không?" Tôi hỏi, Kỷ Học nhìn tôi.
"Không thể. Bởi vì cậu không cần biết rõ." Ông mỉm cười trả lời, tôi như uống nước bị sặc vậy.
"Song theo con được biết, độc tính của những viên thuốc kia rất lớn, bằng không cũng sẽ không biến giấy trắng thành màu lam nhạt như vậy, thứ chú đưa cho Lý Đa sau cùng kia là thuốc giải độc đúng không?" Lần trước cùng Lạc Lôi thăm ông ngoại của cô, cụ từng đề cập tới một chút, tôi cũng âm thầm ghi nhớ.
"Xem ra cậu hiểu biết không ít, như vậy đi, chúng ta tìm một chỗ trò chuyện, có lẽ cậu coi như bạn của tiểu Tứ, ta không nên giấu giếm cậu, những gì đã nói trước đó ta xin lỗi, mong cậu bỏ qua cho." Thái độ Kỷ Học vô cùng thẳng thắn, ngược lại khiến tôi có chút ngượng ngùng. Thế là hai chúng tôi đi tới một hàng nước dành cho người nghỉ ngơi bên ngoài bệnh viện.
"Ta ghét ở bệnh viện, bởi vì không chỉ có mùi thuốc gay mũi nồng nặc, còn có oán niệm dây dưa của người chết và kẻ sống, có lẽ cậu không cảm nhận được, nhưng ta ở lâu một giây, cũng khiến ta ngạt thở." Kỷ Học ra khỏi bệnh viện mang trên mặt vẻ nhẹ nhõm, ông đi nhanh như vậy, đến cả tôi cũng theo không kịp ông, tôi liếc xuống chân ông, nếu không phải lần trước tôi tận mắt nhìn thấy, thật không thể tin nổi.
"Trước khi kể cho cậu biết chuyện những viên thuốc kia, ta muốn kể về một câu chuyện liên quan tới luyện đan trước." Kỷ Học gọi hai tách trà lài, ông vừa thưởng thức trà, vừa kể chuyện, những lời này phảng phất như mang theo mùi hoa lài thơm ngát, tỏa ra quanh quẩn bên tai tôi.
Khi ta còn là đứa bé, đã được cha ta kể rằng, vô luận sau này xuất hiện tình huống gì, anh họ ta —— Cũng chính là cha của Kỷ Nhan, sinh mệnh của anh ấy vĩnh viễn quan trọng nhất, nếu anh ấy đã chết, ta đây sẽ tiếp tục bảo vệ con anh ấy, đây cũng là sứ mệnh của riêng ta.
Khi đó trong thôn có một vị lang trung giang hồ đến, một thầy lang, nói tiếng mang thuần khẩu âm Giang Chiết nồng đậm, ông ta không ở lại trong thôn, cũng không biết sống ở đâu, chỉ là thường xuyên đến thôn lang thang, song ông ta không giống thầy thuốc, người này mặc một thân áo đạo sĩ, tuy áo đạo sĩ màu xanh nhạt đã bị dầu mỡ và bùn làm cho dơ bẩn thậm tệ, nhưng ông ta không để ý chút nào, như trước mặc lên người. Người này nhìn qua chừng bốn mươi tuổi, tinh thần tốt lắm, tuy hơi gầy, nhưng vô luận thế nào cũng đều ưỡn lưng thẳng tắp, hai hàng lông mày rất dài cũng rất đều đặn, thẳng tắp kéo dài đến huyệt thái dương hai bên, một đôi mắt ưng bình thường luôn khép hờ, lười biếng, song khi mở ra lại rất có cảm giác uy nghiêm, cằm vuông mà hẹp dài một khi ăn liền lay động lên xuống, bên trái mũi ông ta đến phía dưới môi có một đường sẹo rất sâu, làm cho khi nói miệng có chút méo, nếu tâm tình kích động lại càng méo dữ dội, song vết sẹo kia nhìn qua như là vết kiếm, ông ta tự xưng là dùng kiếm rất lợi hại, người bình thường không thể gần ông ta quá ba thước, giết người chỉ cần một kiếm mà thôi, cho nên chúng ta gọi ông ta là Nhất Kiếm đạo trưởng. Người trong thôn mới đầu luôn thích chọc ông ta. Nói ông ta nếu đã dùng kiếm lợi hại, vì sao trên mặt còn có một vết ghê gớm như vậy. Đạo trưởng luôn phất tay áo rộng thùng thình, bĩu môi.
"Lợi hại, nhưng không phải lợi hại nhất." Ông ta lúc nào cũng giải thích thế, người trong thôn trước khi chuyện sau này phát sinh, bao gồm cả ta, đều luôn coi ông ta là một kẻ khoác lác rảnh rang, mỗi nơi đều cần người như thế, giống như Hán Vũ Đế cần Đông Phương Sóc, mọi người cũng cần một người có thể trêu chọc làm niềm vui lúc rảnh rỗi, hơn nữa mặc dù mọi người luôn trêu chọc ông ta, Nhất Kiếm lại không phản đối bao giờ, cho nên thôn dân vẫn cứ lùa một miếng cơm từ trong chén mỗi nhà xuống nuôi ông ta.
"Tôi sẽ báo đáp các vị!" Nhất Kiếm ăn cơm bố thí, bỗng nhiên ngẩng cao đầu nói với mọi người câu này, đám thôn dân cười tỏa nắng, xem câu này cũng giống như câu ông ta nói mình dùng kiếm lợi hại khi trước. Nhưng đạo trưởng nói rất nghiêm túc, cũng vì trẻ con trong thôn chữa trị chút bệnh nhẹ đau đầu, cảm mạo nóng sốt các loại.
Cuối cùng, có một lần trong thôn xảy ra một chuyện, một đứa bé ở trên núi đào nấm ăn nhầm nấm độc, cái này cũng không giống nấm độc hơn nữa trẻ con trên núi phần lớn đều biết, màu sắc sặc sỡ sẽ có độc, nhưng duy chỉ có loại này, cao mà dày, màu xám trắng, hiện giờ loại nấm này gọi là "Tử Vong Tửu Bôi" cũng bởi vì nhìn qua giống hình dáng một ly rượu.
Toàn thân đứa bé nhanh chóng co giật, ý thức lẫn lộn, sắc mặt cũng bắt đầu phát xanh, người Kỷ gia cũng khá thông y đạo, đáng tiếc khi đó ông nội ta cũng chính là tộc trưởng Kỷ gia khi đó, sau khi áp dụng châm cứu cũng bất lực, độc tính sớm đã thấm sâu vào máu, cho dù Hoa Đà tái thế, Biển Thước (Tiêu: Biển Thước họ Tần, tên Việt Nhân, danh y thời Chiến quốc) sống lại, e rằng cũng bất lực.
Cha mẹ đứa bé khóc rất đau lòng, vì con trai họ là con một bốn đời, hai người tuổi tác cũng đã rất lớn, bây giờ nếu phải chôn đứa con này, e rằng mai sau ngay cả một người cầm lễ lo ma chay cũng không có. Nhưng mọi người lại hết cách, chỉ có thể trơ mắt nhìn đứa bé thở càng ngày càng yếu.
Lúc này Nhất Kiếm bỗng nhiên đẩy đám người ra, tay trái nắm chặt, chạy vào.
Mọi người cảm thấy khó hiểu.
"Ta có biện pháp cứu sống đứa bé!" Đạo trưởng mở to hai mắt, lớn tiếng nói. Nhưng mọi người đều không tin người ngày thường trước giờ thích bốc phét chỉ biết trị chút bệnh nhẹ tầm thường này có thể làm nên chuyện gì, nhưng cha bỗng nhiên nâng tay lên, đồng ý để ông ta thử xem. Kỷ gia ở trong thôn uy vọng rất cao, cho nên cha đã lên tiếng, mọi người cũng không ngăn cản nữa, phần lớn là tò mò nhìn xem Nhất Kiếm rốt cuộc sẽ dùng cách gì.
Khi đó ta chen trong đám người, nhìn không rõ ràng lắm, chỉ biết là ông ta mở tay trái ra, lấy ba viên thuốc, dùng nước lạnh nhét vào miệng đứa bé, bảo người nắm mũi đứa bé, miệng đối miệng thổi viên thuốc xuống bụng.
Chỉ chưa đầy ít phút, đứa bé bắt đầu tỉnh lại, tiếp theo bắt đầu nôn mửa, cha mẹ đứa bé vô cùng mừng rỡ, ngay tại chỗ quỳ xuống dập đầu với Nhất Kiếm, thôn dân xung quanh cũng hô to kinh ngạc. Về sau đứa bé phối hợp với châm cứu của cha ta trích máu trừ độc, chậm rãi hóa giải độc trên người, nhưng bởi vì trúng độc quá sâu, vẫn là bệnh căn không dứt, cơ thể quanh năm suy yếu. Nhưng có thể nhặt về một cái mạng, đã là rất may mắn rồi.
Sau chuyện lần này, Nhất Kiếm đạo trưởng nổi danh khắp mười làng tám xã phụ cận, nhưng ông ta từ chối gặp bất cứ ai, cũng không kể tí gì về chuyện những viên thuốc kia, chỉ cần hỏi là nóng nảy, bí bách quá, ông ta liền nhảy dựng lên, tay vung cao, giống như đứa trẻ vậy, vừa kêu ta không biết, vừa chân trần bỏ chạy, mọi người thấy ông ta nửa điên nửa khùng, cũng đành phải thôi.
Song thiếu niên trong thôn lại rất mê ông ta, mỗi ngày đều quấn lấy ông ta, Nhất Kiếm rất thích trẻ con, đặc biệt càng thích ta và anh họ, ông thường xoa cái đầu nhỏ của hai chúng ta, cười hì hì, ông cười rộ lên rất thú vị, ngay cả đường sẹo sâu dọa người kia, cũng trở nên nhu hòa.
"Cái đó là đan dược." Rốt cuộc, có một ngày ba người chúng ta ở chung với nhau, Nhất Kiếm nói ra. Ta và anh họ không hiểu lắm, vì vậy quấn lấy ông ta hỏi thêm.
"Đan dược là luyện mà có, thời cổ xưa gọi là Hoàng Bạch thuật, người luyện đan gọi là phương sĩ, họ cho rằng con người chỉ cần ăn một ít đan dược liền có thể đắc đạo phi tiên, kém nhất cũng có thể kéo dài tuổi thọ.
Luyện đan chú trọng lý, khí, số. Cũng là mục tiêu phần lớn Đạo gia cầu nhất. Nói thêm nữa đám con nít mấy đứa cũng không hiểu, ta chỉ có thể nói đơn giản luyện đan mười ngày làm một chu kỳ, là cái mà họ gọi là Dương nhất nhị tam tứ ngũ, Âm lục thất bát cửu thập. Năm ngày lại dựa theo trình tự sắp xếp của kim mộc thủy hỏa thổ tiến hành.
Thời Hậu Tấn đến Vãn Đường, luyện đan rất thịnh hành, phương sĩ nổi danh nhất Sở Trạch biên soạn và hiệu đính tác phẩm của Tô Nguyên Minh 《 Thái Thanh Thạch Bích Ký 》, ghi lại đủ loại thành phần và phương pháp luyện chế đan dược, như Cửu Đỉnh đan pháp, hơn nữa ông ta còn chưa từng luyện đan cho Hoàng Đế. Nhưng luyện đan chú trọng đan duyên, người luyện cần, người ăn cũng phải cần, ta thấy đứa bé ăn nhầm nấm kia coi như có chút đan duyên mới dám đưa cho nó ăn, bằng không, người không có đan duyên, ăn nhẹ thì trúng độc, nặng thì mất mạng. Mà người không có đan duyên đi luyện đan, luyện được chính là thuốc độc đấy. Có vài đan dược có kịch độc, bên trong bao gồm chu sa, đá vân mẫu, ngọc, đại giả thạch, đá, hạt thông, quế, thủy ngân vân vân. Cho nên ta không dám tùy tiện nói cho người khác biết đây là đan dược, nhưng ta tuy rằng luyện không phải kim đan chân chính, nhưng đan dược có thể chữa bệnh trừ độc, ta vẫn có thể chế luyện." Nói xong, ông ta cười thật sâu.
"Hơn nữa, ta bây giờ đang cố gắng luyện đan, cũng gần sắp thành công rồi, tổ thượng của ta là Cát Hồng, con cháu của ông rất đông đúc, căn bản ở khu vực Ninh Hải, ta thuộc về tiền sơn Cát thị. Tuy là một nhánh con cháu đời sau của trưởng tử Bột, song gia cảnh nhà ta sa sút, mới lưu lạc đến nơi này, nhưng chỉ cần ta có thể luyện đan thành công, nhất định có thể thịnh vượng, nhất định có thể lần nữa làm vinh quang môn đình, nói không chừng có thể tái hiện sự huy hoàng của tổ tiên." Khi đó ta mới biết Nhất Kiếm đạo trưởng họ Cát, khi đó ánh mắt ông tản ra quang mang sáng ngời.
Song ta như cũ hỏi ông ta thân không của cải, làm sao luyện đan, ông ta thần bí cười cười, nói ngày thứ hai sẽ mang bọn ta đi đến nơi ông ta cất giấu lò luyện đan.
"Hai đứa rất có đan duyên, đáng tiếc không thích chuyện này, nhưng mà nếu đã gặp nhau, ta nhất định sẽ kể tất cả mọi chuyện cho hai đứa biết." Ông cười cười, xắn cái áo khoác đầy dầu mỡ lên phẩy phất trần rời đi. Ta và anh họ thì về nhà.
Bọn ta mang theo tâm tình cực kỳ chờ mong về nhà, trẻ con mà, luôn ôm hiếu kỳ rất lớn đối với những thứ mới lạ chưa từng thấy qua, thời điểm quay về thôn bọn ta gặp một thôn dân, gã khó hiểu hỏi bọn ta sắc trời đã trễ như thế còn đi đâu, ta thành thật nói cho gã biết từ chỗ đạo trưởng về, trong lúc nói chuyện, vậy mà lại sơ suất nói ra chuyện ngày mai sẽ đến chỗ ông ta luyện đan.
Ta tuyệt đối không ngờ, một câu tùy tiện, lại hại chết mấy người tốt.
Người này khi ấy cũng rất hưng phấn, nói ngày mai muốn đi cùng bọn ta, bởi vì đạo trưởng đã thông báo không được kể cho bất cứ ai, ta từ chối, gã cũng không nói gì, chỉ hậm hực bỏ đi, miệng còn lẩm bẩm mấy từ thô tục.
Ta biết người này, hôm ấy khi đạo trưởng dùng đan dược cứu người gã cũng ở đó, nghe đâu gã nằm mơ cũng muốn phát tài, tuy rằng đi tìm đạo trưởng muốn đan dược làm thành dược phẩm bán, nhưng bị từ chối.
"Người không có duyên, ăn sẽ chết!" Đạo trưởng mặt mày nghiêm túc nhưng lại hàm chứa khôi hài nói. Tên kia thì không cho là đúng.
Ngày thứ hai, ta và anh họ đi cùng đạo trưởng đến chỗ đã hẹn, nhưng căn bản không phát giác có người đi theo sau lưng.
Sau khi gặp Nhất Kiếm, ông ta thật phấn khởi, nói đêm qua luyện đan đã có chút thành tựu, đồng thời chuẩn bị cho ta và anh họ một phần lễ vật, ta hỏi ông ta là cái gì, hắn lại cười không đáp.
Ông mang theo hai đứa trẻ, dọc theo đường núi gồ ghề đi về phía trước, ta tuy cùng anh họ chạy chơi lung tung bên ngoài từ bé, nhưng không biết nơi này còn có con đường núi như vậy. Đi được chừng vài dặm, vậy mà lại ở sườn núi thấy được một sơn động, cửa động vô cùng rộng lớn, nhưng theo lý loại sơn động này hẳn phải cực kỳ mát mẻ, thế nhưng khi đi vào lại dị thường nóng bức, thậm chí ta có chút ngạt thở.
"Đạo trưởng, mặc áo choàng dày như vậy, sống ở chỗ này ông không khó chịu sao?" Anh họ hỏi ông ta, đạo trưởng lau mồ hôi đầy đầu.
"Nóng thì nóng, nhưng quần áo này là gia truyền, cởi không được, cởi không được!" Ông chỉ hơi vén tay áo lên, mang chúng tôi vào trong.
Bên trong động khá tối, nhưng vẫn còn có chút tia sáng, vừa đi vào nhìn, chính giữa vậy mà để một cái lò luyện đan bằng đồng cao gần bằng người trưởng thành, hình dáng nó vô cùng kỳ dị.
Bệ phía dưới đáy là một mâm hình tròn dẹt, mặt trên điêu khắc chút hoa văn vân nổi, phía dưới do ba nhánh sừng chống lên, có chút giống lò than sưởi ấm vào mùa đông, phía trên thì giống một cái chuông đồng, chỉ có điều mũi chuông lại là một nửa vòng tròn rỗng ruột, khoa trương nhất là hai bên chuông là hai cánh tay xách hình tròn độ cong lớn vô cùng, như hai lỗ tai khổng lồ vậy. Toàn bộ lò xem hình dáng đã có chút lâu đời, vô cùng cũ kỹ. Vách lò lại tỏa ánh đỏ, dường như muốn thiêu đốt vậy. Tiếp theo lò lửa không sáng, ta nhìn thấy trên vách tường còn treo bức hình, cùng một thanh kiếm, phía dưới trưng bày rất nhiều thứ gì đó rải rác cùng vũ khí, dường như là các vị thuốc, bởi vì sau khi ta đi vào liền ngửi được mùi hùng hoàng thật nồng.
(Tiêu: Hùng Hoàng là khoáng vật có sắc vàng dùng làm thuốc, có thể giải độc)
"Trong này đang luyện đan, luyện đan độ lửa cũng rất quan trọng, cái gọi là lửa nhỏ một nén nhang, lửa to một nén nhang, xen kẽ tiến hành, phải nghiêm ngặt dựa theo đạo trời mà đếm, hơi chút sai sót sẽ công lao đổ biển. Hơn nữa mấu chốt nhất là mặc dù sau này luyện xong cũng phải... " Đạo trưởng dùng ánh mắt như nhìn đứa con mình vừa mới chào đời nhìn lò luyện đan, hoàn toàn không phát hiện phía sau chậm rãi bò đến gần một người, lặng yên không một tiếng động từ phía sau ông đâm một dao, là con dao găm, mũi dao tiến vào một nửa, vừa vặn đâm trên lưng phải, tuy không nguy hiểm đến tính mạng, song nói chuyện rất khó khăn.
Ta và anh họ cả hai đều sợ ngây người, vừa lấy lại tinh thần nhìn, mới phát hiện chính là người đã hỏi han ta ngày hôm qua.
"Khà khà." Gã đắc ý cười, tiếng cười quanh quẩn trong động.
"Bọn mày vậy mà lại dẫn kẻ xấu tới chỗ ta, muốn cướp đan dược của ta!" Đạo trưởng che ngực cau mày quát, ta thì khóc nói không phải ta làm.
"Là tao đi theo chúng tới, nhưng mày thức thời một chút đem ngay đan dược giao cho tao, bằng không tao liền thịt cả mày và hai đứa nhóc này, nơi này vùng núi hoang vu, ba người bọn mày dù hóa thành xương trắng, cũng không ai biết." Nói rồi gã lại lấy ra một cái lưỡi hái, gác trên cổ ta, lưỡi dao lạnh như băng cơ hồ muốn cắt đứt da ta, lần này ta ngay cả khóc cũng không khóc được.
Đạo trưởng không nói gì, chỉ chỉ vào lò luyện đan.
"Ngươi đoạt cũng không có, người không có đan duyên mà cứng rắn muốn ăn đan, chỉ hại chính mình, tuy rằng thứ này có thể kéo dài tuổi thọ." Ông còn chưa nói hết, người nọ liền xông lên một cước đá văng đạo trưởng ra, dùng lưỡi hái nhấc lò lên.
Bên trong lại chỉ có một cái chén vàng úp ngược, lấp lánh tỏa sáng, mắt gã kia nhìn trừng trừng, cẩn thận móc cái chén ra.
"Mẹ kiếp, hóa ra là mạ vàng!" Gã cầm cái chén phát sáng đã lấy được ra nhìn một chút, mắng một câu.
"Đó là đương nhiên, vốn là chén thép, bình thường tiếp xúc vật vàng trắng, đương nhiên cũng bị mạ lên rồi." Đạo trưởng nói một câu, liền ho dữ dội, ta và anh họ chạy tới đỡ ông dậy, ông thì thiện ý xoa đầu bọn ta.
"Không dọa sợ mấy đứa chứ?" Đạo trưởng hòa nhã hỏi.
Gã vào động kia lấy ba viên thuốc duy nhất trong lò ra, kích cỡ khoảng bằng viên bi thủy tinh, chẳng qua toàn thân lóe ánh đỏ, vô cùng đẹp mắt, rất diễm lệ, người nọ dùng tay kéo, lấy ra một cái khăn tay bọc chúng lại, sau đó tròng mắt xoay chuyển, cuối cùng nuốt vào một viên. Ta nhìn thấy đầu ngón tay gã từng tiếp xúc với đan dược, bên ngoài thế mà nổi lên một khối màu xanh da trời.
"Lão già, đan dược tao mang đi, về phần hai thằng nhóc này cứ ở đây cùng mày nhé, miễn cho mày cô đơn lạnh lẽo." Gã lại nhếch miệng cười, đi khỏi sơn động.
Quả thực, bọn ta căn bản không biết đường trở về, đường trở về nhiều lối trúc trắc, ở thôn quê một khi lạc đường, đến tối sói núi sẽ xuất hiện.
Đạo trưởng thấy người nọ đi rồi, ngọ nguậy bò dậy, từ một góc khuất lấy ra một bọc đồ, sau khi mở ra là ba túi giấy dầu xếp vô cùng ngay ngắn cỡ chừng bàn tay. Ông ta giao một cái trong đó cho ta, hai cái khác giao cho anh họ.
"Ta lần đầu gặp con liền biết sau này nhất định sẽ có đại kiếp nạn, loại bệnh này không cách nào trị tận gốc, hơn nữa sẽ theo máu con từng đời một truyền cho con cháu, song đan dược này có khả năng tạm thời hóa giải chút đau yếu, nhớ kỹ, một bao là đan hoàn, một bao là độc giải đan hoàn." Ông nói với anh họ, anh họ cái hiểu cái không gật đầu.
"Con sau này sẽ có đao thương, nhất định sẽ gãy mất một chi, túi thuốc này không phải kim đan, nhưng có thể trừ hoại tử cơ, hơn nữa đối với khôi phục thương tích giúp ích rất lớn, mang theo đi." Ông lại quay đầu dặn dò ta một phen. Nói xong, ông gỡ bội kiếm trên vách tường xuống giao cho bọn ta.
"Mỗi khi đến một ngã rẽ, dựng thẳng kiếm, kiếm ngã hướng nào, các con sẽ theo hướng đó mà xuống núi, tổ sư gia sẽ phù hộ các con." Nói rồi, ông từ từ buông người xuống, ngồi xếp bằng trên mặt đất, làm tư thế tĩnh tọa.
"Lời muốn nói ta đã nói xong, các con mau xuống núi đi, ta cũng phải đi rồi." Nói xong, ông liền nhắm mắt lại, không nói thêm gì nữa, khuôn mặt cũng đột nhiên trở nên xám xịt.
Khi đó tuổi nhỏ, căn bản không biết chết là gì, chỉ cầm kiếm cùng ba bọc giấy kia vội vàng chạy xuống núi, quả nhiên, mỗi lần đến ngã rẽ đều đưa kiếm làm công cụ dẫn đường, vậy mà thật sự thuận lợi trở về thôn.
Vừa quay về, liền phát hiện người trong thôn đang tụ tập một chỗ, vừa chen vào nhìn, hóa ra ở cửa thôn phát hiện xác của gã kia, cổ họng đến dạ dày toàn bộ biến thành màu đen, giống như trái hồng chín, mềm oặt ẹo, còn hư nát mấy lỗ, thối không ngửi nổi, giống như trứng gà ung vậy. Sau khi khiêng gã lên, vừa không đỡ lấy đầu, cổ họng liền ngắt ra, đầu thoáng cái lăn xuống.
Mọi người chỉ nói là gã ăn phải thứ kịch độc gì đó, nhưng là thế nào thì không ai nghĩ ra đó là gì. Cũng đành phải qua loa chôn cất. Bởi vì đạo trưởng đã thông báo, bất cứ chuyện gì cũng không được kể với người ngoài, bọn ta cũng đành giấu kín chuyện này dưới đáy lòng.
Về sau bọn ta cũng không tìm được sơn động kia nữa, đành phải chôn thanh kiếm kia, coi như kiếm mộ.
Người trong thôn đối với việc đạo trưởng đột ngột mất tích vô cùng khó hiểu, mỗi khi mọi người quây quần ăn cơm đều sẽ nói với nhau, đã lâu không thấy đạo trưởng nữa, cũng thiếu đi một chuyện tiêu khiển sau giờ cơm, nhưng theo thời gian trôi đi, cũng dần dần lãng quên ông, duy nhất khiến người ta nhớ tới, chỉ là những câu ông nói tới nói lui vô cùng nghiêm túc giống như ông cụ già hủ lậu thời trước kia.
Về phần đan dược nọ, cha của Kỷ Nhan không cho là đúng, sau này anh ấy rời khỏi thôn ra ngoài du lịch, thuốc đương nhiên giao cho ta bảo quản, ta thận trọng giấu đi, nhưng khi ta nhận được tin anh ấy bệnh nặng thì đã muộn, chờ đến khi ta chạy đến, anh ấy đã đi rồi. Sau đó như lời đạo trưởng nói, ta cụt một chân, lúc này mới nhớ lại lời đạo trưởng, thuốc kia sau khi dùng, vết thương lành rất nhanh, tuy rằng đứt chi không cách nào tái tạo, nhưng so với người thường vẫn tốt hơn nhiều. Cho nên ta mới mang theo thuốc tới đây, ta không thể lại nhìn Kỷ Nhan giống cha nó được, bằng không đây sẽ là trách nhiệm của phân gia như ta." Kỷ Học lặng lẽ kể xong, uống ngụm trà.
"Lẽ nào chú không biết tại sao phải như vậy sao? Cậu ấy và cha cậu ấy tại sao lại mắc phải loại bệnh này?" Tôi vội vàng hỏi, cho rằng có thể từ đó nhận được đáp án, không ngờ Kỷ Học lại lắc đầu.
"Không biết, ta chỉ biết có liên quan đến máu của con trưởng bộ tộc Kỷ thị dòng chính, cậu cũng biết đó, máu Kỷ Nhan có năng lực xua ma trừ tà, nhưng năng lực này chỉ giới hạn ở dòng chính, máu của phân gia như ta không hề có năng lực này, nhưng dường như thứ này sử dụng quá nhiều, sẽ thương tổn lớn đến cơ thể." Ông bất đắc dĩ trả lời.
"Đan dược có thể tạm thời trì hoãn một chút, túi phía sau kia chính là dùng giải đan độc, hai thứ thiếu một cũng không được." Kỷ Học đứng lên, "Được rồi, nhiệm vụ của ta cũng đã hoàn thành, chờ nó tỉnh dậy nhớ nói nó trở về xem một chút, người ở đó đều rất nhớ nó." Nói xong, Kỷ Học liền xoay người rời đi.
Tôi chợt nhớ tới lời Lê Chính trước khi đi dặn dò Kỷ Nhan ít dùng huyết kiếm, có lẽ cũng là ý này chăng. Thời gian không còn sớm, tôi quyết định đến bệnh viện thăm Kỷ Nhan trước, sau đó mới về tòa soạn tiếp tục công việc.