Gordon Spears đã quen với thời tiết thất thường này. Ông ta thích không khí nặng hơi sương từ ngoài biển thổi vào, thích thứ ánh sáng mặt trời sáng sớm len lỏi qua những thung lũng do các con đường phố miền núi tạo ra. Đây là nơi duy nhất trên thế giới này ông ta muốn ở.
- Anh có chắc chắn là không ai thấy nó ra khỏi khu vực ấy không? – Mặc dù chiều chủ nhật, nhưng Gordon vẫn đến văn phòng để làm việc hai giờ. Và ông ta mong đợi cuộc gọi đặc biệt này. Ngồi tựa lưng ra chiếc ghế Eames đắt tiền sau bàn làm việc, ông ta ấn mạnh chiếc máy điện thoại di độntg có vỏ bọc bằng da vào tai – Nó không gặp trở ngại gì khi đột nhập chứ?
- Ông đùa à? - Giọng nói bên kia đầu dây đáp lại. Đấy là Athony King người hợp tác với ông ta - Ở đấy người ta không ai thèm khoá cửa. Grossman đi vào khu bến tàu, mặc áo quần lao động của thợ cơ khí, móc cái máy vào ống dẫn nhiên liệu rồi đi ra. Làm công việc này ở Skagway là hay hơn hết, vì ở đây khó mà tìm ra manh mối.
Họ đã cho người đến Dawson hơn một tuần nay, thăm dò khắp nơi, cố tìm cách tốt nhất để ám hại Call mà không ai có thể tìm ra tung tích. Chuyến đi chơi bằng máy bay là cơ hội may mắn cho họ. Một người thợ cơ khí có tánh ba hoa, anh ta là bạn của Hawkins ở Dawson, biết anh đi chơi ở đâu và khi nào thì về. Thế là gã nhân viên của Tony chỉ có việc đáp máy bay thương mại đi theo, thực hiện công việc phá hoại, rồi biến khỏi khu vực ấy.
- Ông xem đồng hồ cho nhớ - King nói - Bây giờ chắc Call Hawkins lên máy bay rồi đấy.
Gordon cảm thấy hồ hởi phấn khởi.
- Khi nào có tin tức chính xác, anh hãy cho tôi biết ngay.
Ông ta tắt máy điện thoại, số điện thoại riêng chỉ có một ít người biết thôi. Tony King, người hợp tác với lão, là một trong số ít ỏi đó biết số điện thoại này. Gordon là bộ não của công ty mà lão đã thành lập cách nay mười tám năm, và luôn luôn lão có Tony sát cánh bên mình.
Công việc của King chủ yếu là sau hậu trường, gã dùng nhiều thủ đoạn mờ ám để làm lợi cho công ty, gã rất tàn bạo khi ra tay.
Cách đây một tuần, họ quyết định loại bỏ vấn đề gây khó khăn cho họ vừa mới hiện ra, hay nói cho đúng hơn, là vấn đề khó khăn hiện hình ra lại. Cách đây 4 năm, McCall Hawkins là nhân vật rất có thế lực trong kỹ nghệ máy tính, là chủ tịch Hội đồng quản trị công ty American Dynamics, không kể đến nhiều cơ sở kinh doanh phát đạt khác. Anh thông minh, cạnh tranh ác liệt, không khoan nhượng. Anh có uy quyền, có địa vị, và một trong những công ty của anh sắp nhảy vào lĩnh vực sẽ huỷ hoại công việc làm ăn của Gordon Spears, và làm hỏng hết những công việc làm ăn khác của ông ta. Những công việc mà anh sẽ chiếm đoạt trong một tương lai gần đây.
Gordon không chịu thua một cách dễ dàng. Sau nhiều lần đề nghị mua công ty mới thành lập này không thành công, ông ta vẫn kiên trì tiếp tục thực hiện giải pháp này. Rồi sau đó xảy ra vụ tai nạn xe hơi cướp đi tính mạng vợ con anh, khiến cho Hawkins rút lui khỏi lãnh vực kỹ nghệ máy tính, và thế là công việc khó khăn của Gordon được giải quyết ổn thoả.
Hay ít ra vấn đề khó khăn đã được giải quyyết.
Rồi bỗng vào năm nay, có tin không hay đưa đến cho Gordon. Call khởi sự lại công việc, anh trở lại với kỹ nghệ máy tính, thực hiện nhiều dự án gây nguy hiểm cho ông ta.
Gordon không thể chịu được hành động này của anh. Ông ta thở dài, xô ghế đứng dậy, bước đến cánh cửa sổ lắp kính trong văn phòng. Sương mù từ ngoài vịnh trôi vào, phủ khắp thành phố, trên đường ở phía dưới, xe cộ đã bật đèn.
Thật quá tội nghiệp cho Hawkins, ông ta nghĩ. Anh chàng quá bậy khi từ chối lời đề nghị của ông, ông ta đề nghị thu dụng anh làm việc cho ông ta cách đây mười năm, nếu lúc ấy anh nhận lời, anh sẽ là vốn quý của công ty ông ta rồi.
Bây giờ anh chỉ còn nước làm mồi cho sâu bọ mà thôi.
Đối với Gordon, mất Call là một sự phí phạm tài năng rất uổng.
Anh biết máy bay của anh ở trong tình trạng rất tốt, anh giữ cho máy bay an toàn như chiếc đồng hồ Thụy Sĩ, người thợ cơ khí của anh là Bob Wyceck, thợ giỏi nhất ở Miền Bắc. Cuối cùng thế nào cũng phải tìm cho ra nguyên nhân, dù anh phải tháo tung đầu máy ra thành một đống hổ lốn để xem xét, vả lại, muốn đem máy bay ra khỏi hồ, người ta phải tháo dỡ nó ra mới mang đi được. Điều chính yếu là anh và Charity đã tai qua nạn khỏi. Anh rùng mình khi nhớ lại chuyện vừa xảy ra. Có thể Charity đã chết, cô chết là do lỗi anh, anh nuốt nước bọt, cố giữ bình tĩnh, nhìn xuống mặt cô, cô đang gục đầu lên vai anh để ngủ.
Lo sợ, hoảng hốt đã làm cho cô mệt nhoài, kiệt sức, bồ hóng lấm đầy mặt và quần áo cô, nhớt dính trên đầu từng vệt dài, chiếc áo sơ mi len bị rách và gần bên thái dương cô có vệt máu khô.
Cứ nghĩ đến cái chết cận kề bên cô là ruột anh quặn đau. Nếu họ không thấy cái hồ thì… Nếu họ không chúc mũi máy bay xuống hàng cây thì..
Mồ hôi vã ra trên trán anh, ruột thót lại. Bỗng anh sợ anh sắp bệnh.
- Call ơi? – Charity ngẩng đầu lên, lo lắng nhìn vào mặt anh, anh thấy cô nhìn anh một lát rồi mới nói tiếp.
- Anh khoẻ chứ?
Call từ từ đứng lên, lấy ống tay áo lau trên trán và đáp.
- Anh khoẻ. Anh cần vận động tay chân một chút.
Anh muốn đi loanh quanh một chút, anh thấy có con đường mòn lên đồi bèn đi theo hướng ấy, con đường nằm khuất dưới bóng cây trong rừng. Anh cần phải đi xa khỏi Charity một lát.
Anh đã quá lo lắng cho cô, anh cảm thấy tình cảnh anh đã gắn bó với cô quá mật thiết. Anh không muốn thế, có lẽ không nên thế.
Anh phải lấy lại bình tĩnh, phải xa lánh cô, ít ra phải làm thế trong một lát, phải đi một đoạn khá xa để cho đầu óc tỉnh táo. Đi lên một đoạn, bỗng anh dừng lại, vì anh vẫn lo lắng cho cô, anh không muốn đi quá xa khiến anh không trông thấy cô được.
- Call à!
Anh nghe tiếng cô gọi ngay trước khi anh nghe tiếng trực thăng kêu lạch bạch. Anh chạy xuống đồi, lấy khẩu súng bắn pháo sáng trong xách ra, mở nòng, nạp quả pháo vào và bắn, quả pháo bay vòng cung trên không. Chắc họ đã thấy quả pháo sáng trên trời, Call nhìn chiếc trực thăng quay lại bay về phía hai người.
- Họ thấy chúng ta rồi – Charity hồ hởi reo lên - Họ bay về phía này.
chiếc trực thăng, mẫu của hãng Bell đời mới, có trang bị cầu phao. Máy bay dừng lại lơ lửng một lát rồi hạ xuống hồ, mặt nước hồ xao động khi máy bay hạ xuống. Cuối cùng khi máy bay đáp xuống nước, hồ nổi sóng, bắn nước lên tận bờ, rồi tiếng máy tắt. Mấy phút sau, chong chóng ở trên máy bay từ từ dừng lại.
Phi hành đoàn hạ xuống nước cái bè cao su vàng. Call nhìn cái bè tiến vào phía hai người.
- Chiếc máy bay xinh đẹp của anh tính sao đây? – Charity hỏi, cô nhìn đống sắt đỏ méo mó đang còn bốc khói nằm ở phía cuối hồ.
Call nhìn chiếc máy bay, nghĩ đến cảnh tai nạn nguy hiểm vừa rồi, lòng đau như cắt. Anh đáp.
- Anh sẽ phái người đến tháo dỡ nó ra, nó sẽ được trực thăng bốc đi như chúng ta vậy.
Chiếc bè nhỏ cập bờ, một người đàn ông lực lưỡng nhảy lên, kéo bè vào bờ rồi tự giới thiệu.
- Tôi là Will Jonas. MỌi người trên máy bay bình an cả chứ?
- Tôi là Call Hawkins – Hai người đàn ông bắt tay nhau - Bị rách da bắp thịt. Cô này bị va đầu, có thể bị chấn thương nhẹ.
- Tôi nghĩ tôi không bị chấn thương đâu – Charity nói – Tôi không bị choáng váng hay đau đớn gì hết.
Có thể không, Call nghĩ, nhưng anh đoan chắc cô bị đau đầu ghê lắm.
- Chúng tôi sẽ đưa cô đến bệnh viện để kiểm tra xem sao – Will Jonas nói.
Charity phản đối ngay:
- Không sao đâu, tôi khoẻ mà. Tôi đã thoát nạn trong vụ rớt máy bay này, áo quần tôi hư hỏng, người đầy bồ hóng nhớp nhúa, tôi không muốn bị các ông bác sĩ quá nhiệt tình quấy rầy. Tôi muốn về nhà thôi.
Call nghĩ nếu anh không cương quyết buộc cô đi bệnh viện, chắc cô sẽ không đi, và anh không muốn ép buộc cô. Anh bèn nhìn Charity với anh mắt gay gắt và nói:
- Ở Dawson có bệnh viện, anh sẽ trả thêm tiền bay thêm giờ cho họ để họ mang ta đến đấy. Và ngay khi đến thành phố, anh sẽ đưa em đến bệnh viện.
Cô mở miệng định cãi, nhưng thấy anh nghiêm nghị quá, cô biết anh sẽ không nhượng bộ.
- Đàn ông kỳ cục! – Cô nói, cằm hơi hếch lên, rồi bước lên bè.
Call cười.
Nhưng sau đó anh không cười được khi một ông bác sĩ ở bệnh viện cho anh biết cô phải ở lại bệnh viện ít ra 24 giờ mới được về nhà.
Bác sĩ Jackson còn trẻ, tóc đen, cùng làm việc với bà vợ cũng bác sĩ, nói:
- Tình hình không có gì tỏ ra nghiêm trọng lắm, nhưng khi người ta bị thương ở đầu, chúng ta có nhiệm vụ phải xem xét thật kỹ trong một thời gian.
Call gật đầu, nhưng anh nghĩ đến kế hoạch xa lánh cô của anh, anh thấy kế hoạch khó mà thực hiện được. Anh không thể để cô cho bà Maude chăm sóc. Không thể được, vì chuyện này xảy ra do lỗi của anh, do anh mà cô bị thương.
Nghĩ đến chuyện này, lòng dạ anh rối như tơ vò.
- Em có thể ở trong phòng khách – Anh nói với cô, hy vọng anh không để lộ ra vẻ thiếu thiện cảm trong giọng nói – Đêm nay em không đủ sức để làm vận động viên trên giường ngủ, và nếu em ngủ với anh, chuyện ấy chắc thế nào cũng xảy ra.
Họ đi trên xe jeep, cách nhà anh quãng chưa đầy một dặm. Trước đây chưa có phụ nữ ngồi với anh như thế này, nhưng anh nghĩ không có cách chọn lựa nào khác.
Charity nhìn anh, anh ngồi sau tay lái:
- Cám ơn sự quan tâm của anh, nhưng em phải về nhà.
Call nhìn cô, ánh mắt như dao.
- Không được, em nghe ông bác sĩ nói rồi chứ, em cần phải có người chăm sóc. Em phải ở lại nhà anh, cho nên em ráng chịu đựng thôi.
Cô thở dài buồn bã, nhưng không cãi lại. Và khi họ về đến nhà anh, cô theo anh vào phòng khách. Anh chỉ phòng tắm cho cô, phòng tắm có vòi sen lát gạch men sáng sủa, thấy phòng tắm, cô an tâm vui vẻ. Cuối cùng, anh cảm thấy bớt lo khi thấy cô vui vẻ thoải mái hơn. Toby bận rộn chăm lo cho cô món xúp rau thịt gà đặc biệt. Sau đó cô xơi hết cả tô kem socola lạnh, trong khi Toby ngồi trên ghế bên giường để bầu bạn với cô. Call nghe hai người cười, tiếng cười của họ làm cho anh tức bực.
Anh nhủ thầm hãy lơ đi, nhưng chàng trai cứ ở miết bên cạnh cô, khiến Call không chịu nổi nữa. Đứng nơi ngưỡng cửa nhìn vào, anh thấy hai người chơi cờ, và mỗi khi Charity cười vì Toby nói cái gì vui, anh lại tức giận thêm.
- Cậu không còn xoong quánh để chùi hay có việc gì phải làm hay sao? – Anh càu nhàu hỏi trước khi họ bắt đầu chơi ván khác.
Toby nhìn anh cười toe toét, nụ cười hể hả, nháy mắt với Charity, rồi bước ra khỏi phòng khách
- Em đã trải qua một ngày vất vả – Call nói, anh ước chi cô trông không được mắt khi mặc chiếc áo thun rộng thùng thình của anh cho mượn - Tại sao em không nằm ngủ một giấc?
Charity ngồi chống khuỷu tay trên gối trong chiếc giường rộng rãi êm ái, mắt nhìn anh đăm đăm.
- Em muốn xin anh một ân huệ.
Bỗng anh cảm thấy lo lắng, nếu ân huệ mà cô yêu cầu là ngủ với cô thì chắc anh không muốn tí nào hết.
- Ân huệ à? Ân huệ gì thế?
- Chắc anh nhớ chuyện gì xảy ra trên đường mòn sáng nay chứ?
Sáng nay có vẻ như cách đây đã lâu năm.
- Anh biết chuyện xảy ra mà em nói đến là chuyện gì rồi, chắc em nhở chuyện xảy ra cách đây 100 năm.
- Phải, có thể chuyện này là điên khùng, nhưng cũng có thể không. Em không hiểu tại sao em rất say mê vùng đất này, mỗi khi em đọc cái gì đấy về nơi này hay nghĩ đến việc đi đến đây, là em muốn khóc. Khi em đứng trên con đường mòn ấy, em cảm thấy như em nhớ em đã ở đấy rồi, em hầu như nhớ cái gì đấy đã xảy ra.
- Cái gì đấy từ cuộc sống bên kia thế giới. – Anh nói, giọng rầu rầu.
- Không. Em đã nói với anh, em không tin vào chuyện thần linh ma quỷ. Em nghĩ là… có lẽ những ký ức ấy thuộc về người nào đấy trong gia đình em, người có liên quan trực tiếp đến em, người bà con của em đã đến đây.
- Em nói ký ức, nếu em có ký ức, có thể được truyền lại từ một trong những tổ tiên của em. Em không nghĩ nói thế nghe quá viển vông à?
- Tại sao? Thú vật đều tiếp thu bản năng của tổ tiên chúng. Con người tiếp thu tài nănng, như tài về toán, về âm nhạc, hay là những gia đình có tài ấy nằm trong máu hay sao? Những gia đình có tài trên sân khấu cũng thế, ngay cả những gia đình có tài chăn bò, nếu quả trong máu họ có cái gì đấy thì sao? Nếu quả ký ức đã được di truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác, là một sự kết nối với quá khứ, và đã truyền lại cho hậu thế thì sao?
Anh nhìn cô với ánh mắt nghi hoặc.
- Vậy em muốn tìm thử xem có người nào trong số tổ tiên của em đã đến Yukon để tìm vàng không, nếu có thì có lẽ em đã ra đời với ít nhiều ký ức của họ. Có lẽ vì lý do ấy mà em đã rất tha thiết đến đây.
Anh phải chấp nhận ý kiến của cô khá hấp dẫn, mặc dù anh không tin.
- Nhưng em đâu có cách để chứng minh cho được?
Charity ngước mắt nhìn anh, cặp mắt to xanh. Anh nhìn cái băng trắng nhỏ băng một bên đầu cô và bỗng anh cảm thấy mình có tội.
- Có lẽ sẽ có cách - Cô đáp - chỉ mới có 100 năm thôi. Nếu em đi ngược dòng quá khứ trong gia đình em, có lẽ em sẽ tìm ra người trong số đổ xô đi tìm vàng đã leo lên con đường mòn có liên hệ máu huyết với em.
Anh nhíu mày:
- Em nói đến việc nghiên cứu phả hệ chứ gì?
- Đúng thế.
- Còn ân huệ?
- Em muốn sử dụng một trong các máy vi tính của anh.
- Không được.
- Tại sao không? Anh có 3 máy, anh không thể dùng cả 3 trong một lúc.
“Vì như thế tức là em sẽ có mặt ở đây luôn mà anh thì không thích thế”. Môi anh mím lại. Mẹ kiếp, anh không thể làm thế được. Anh cố moi óc để tìm ra lý do từ chối, và cuối cùng anh tìm được lý do.
- Có em ở trong phòng làm việc với anh, anh không thể nào tập trung tư tưởng được!
Quả lý do này rất xác đáng. Charity nhìn anh, cười rất tươi rồi trả lời bằng giọng miền Nam ngọt sớt.
- Kìa Call, anh yêu, anh nói nghe bùi tai quá.
- Mẹ kiếp, Charity, phòng làm việc là nơi anh làm ăn mà.
- Này này, chúng ta là lân gia, vả lại, anh còn nợ em, việc em nằm trong giường này bộ không phải vì máy bay chở em bị rơi à?
Anh cảm thấy mặt mày choáng váng. Cô liền ngồi dậy trên giường và nói nhanh.
- Em xin lỗi, em nói đùa đấy, việc xảy ra không phải lỗi của anh… cả hai ta đều biết thế. Lạy Chúa, vì máy bay tắt máy. Anh không nợ nần gì em hết. Thật vậy, anh đã cứu em, có lẽ anh đã cứu sống em.
Call để cô nằm lại xuống giường.
- Có thể không phải lỗi của anh, nhưng anh nợ em. – Anh thở dài, cào mấy ngón tay lên tóc - Em cứ dùng máy tính của anh đi.
Charity cười toe toét, cô chồm người tới, hôn mạnh lên má anh.
- Hawkins, anh là người bạn rất tốt.
Anh quắc mắt nhìn cô rồi đáp:
- Được rồi, cứ đợi đến ngày em sẽ nghe anh xin em ân huệ đấy.
- Tôi biết nói sao bây giờ? Thằng cha gặp may – Gã chỉ ở trong thành phố hai ngày thôi, để họp với người hợp tác, làm vài công việc lặt vặt của mình rồi quay về L.A.
- Hình như mạng của Hawkins toàn gặp may mắn.
- Phòng thí nghiệm bị cháy chắc đã làm cho công việc của hắn chậm lại, nếu vậy, chúng ta sẽ có nhiều thì giờ để chuẩn bị hơn. Chúng ta không thể hành động hấp tấp trong việc này được, hấp tấp quá sẽ bị lộ diện thôi.
- Đúng, tôi nghĩ không nên hấp tấp – Gordon dựa người ra lưng ghế ở phía bên kia bàn, chiếc ghế dựa bọc da đỏ dành cho cấp trên, lão nhấp uých ky Scot hảo hạng, loại Glenmorangie mà lão rất thích. Lão cao, vẻ quan trọng, mái tóc màu bạch kim, nhưng khi mới gặp Tony, tóc lão màu vàng. Còn Tony tóc đen và có nước da màu ô liu. Đàn bà thường bị vẻ duyên dáng quá đáng của Gordon mê hoặc, nhưng họ thích kiểu thô lỗ sỗ sàng của Tony nhiều hơn.
- Tôi cứ nghĩ sau vụ hoả hoạn thế nào Hawkins cũng nhảy vào - Gordon nói - Để tìm cách duy trì mọi hoạt động của công ty. Nhưng kế hoạch hành động của hắn quá nhỏ, nên chắc hắn đã để cho Held giải quyết.
- Trước đây thì chắc hắn nhảy vào rồi, bây giờ có lẽ hắn không có đủ thì giờ để tự mình giải quyết công việc.
- Nhưng dù sao thì phòng thí nghiệm cũng đã được thiết lập lại và hoạt động, như thế tức là ta phải giải quyết vấn đề khó khăn sắp xảy đến Lão để ly Scot xuống trên cái bàn nhỏ - Tôi khỏi nhắc nhưng chắc anh cũng biết hai ta đã đầu tư nhiều vào công việc này. Tin tức cho chúng ta biết là Held sắp phát minh xong đề tài. Khi đề tài được công bố, những chương trình lâu nay của chúng ta phải chấm dứt, chúng ta sẽ mất tất cả những gì chúng ta làm trong mười tám năm qua.
Tony mím chặt môi rồi nói:
- Chúng ta không thua đâu. Tôi sẽ lo việc này, như tôi thường làm.
- Tôi biết anh giải quyết được – Gordon đáp.
Tony biết người hợp tác của gã nói thật lòng. Gordon tin tưởng gã thành công trong việc này, và Tony quyết làm việc này cho thành công.
- Bây giờ tôi phải đi thôi. Tôi phải làm nhiều việc nữa trước khi lên máy bay.
Gordon uống hớp rượu rồi nói.
- Cho tôi gởi lời thăm Alice và các cháu.
Tony không trả lời. Khi gã làm việc như việc này, gã không nghĩ đến gia đình. Để cho Gordon trả tiền rượu, gã đi ra khỏi quán, vào phố ở San Francisco, gã cần nói chuyện với nhân viên của gã, Stan Grossma, cần công việc chạy điều hoà trở lại.