Tập hợp được hai mươi sáu phù thủy mạnh nhất ở London không hề đơn giản. Việc gặp hội đồng Rede không diễn ra như tôi tưởng tượng – kiểu như trong một phòng xử án, tôi đứng trước mặt dàn phù thủy hàng ngũ chỉnh tề. Thay vào đó, nó diễn ra suốt mấy ngày liền ở các cửa hiệu, quán rượu và phòng khách trên khắp thành phố. không có những lời giới thiệu trang trọng, và không có thời gian để lãng phí vào những tình tiết xã giao khác. Tôi gặp nhiều phù thủy xa lạ đến mức hình ảnh tất cả bọn họ nhanh chóng trở nên nhập nhèm lẫn lộn với nhau.
Tuy thế, trải nghiệm lần này cũng thật ấn tượng. Lần đầu tiên tôi cảm nhận được sức mạnh khôn cùng của lửa phù thủy. Goody Alsop không hề lừa tôi – cái nhìn chăm chú, mãnh liệt, cháy bỏng, hay sự đụng chạm của một phù thủy có bộ tóc đỏ rực đem lại thứ cảm giác không thể nhẫm lần được. Mặc dù lửa trong máu tôi bùng lên nhảy nhót khi cô ta ở gần, nhưng tôi rõ ràng không phải phù thủy lửa. Điều này được khẳng định khi tôi gặp thêm hai phù thủy lửa nữa trong một căn phòng riêng ở Mitre, một quán rượu tại khu Bishopgate.
“cô ấy sẽ là một thách thức đấy,” một người nhận xét sau khi đọc xong tin tức từ làn da tôi.
“một thợ dệt se sợi thời gian cùng với rất nhiều nước và lửa ở trong cô ấy,” người kia đồng ý. “sự kết hợp mà tôi không nghĩ mình sẽ gặp được trong cuộc đời này.”
Các phù thủy của hội đồng Rede tụ họp tại nhà của Goody Alsop, nơi có không gian rộng rãi hơn dáng vẻ khiêm nhường bên ngoài của nó. Hai hồn ma lảng vảng qua các phòng, giống như vong hồn của Goody Alsop đã làm. Bọn họ đón khách ở cửa và lướt đi lặng lẽ để đảm bảo mọi người đều được thoải mái.
Các phù thủy gió bạo dạn hơn nhiều so với các phù thủy lửa. sự tiếp xúc của bọn họ nhẹ nhàng và khô ráo cũng như khi họ lặng lẽ đánh giá sức mạnh và nhược điểm của tôi.
“một cơn bão phù thủy đấy,” vị phù thủy có mái tóc bạch kim tầm năm mươi tuổi lẩm bẩm. Bà ta nhỏ nhắn, yểu điệu và di chuyển bằng một tốc độ chóng mặt, không giống như với đám người còn lại.
“Kiểm soát quá chặt,” người kia nói, mày cau lại. “cô ấy cần để mọi vấn đề xảy ra tự nhiên, nếu không, mỗi luồng khí cô ấy tạo nên có thể trở thành một cơn bão bùng nổ dữ dội.”
Goody Alsop đón nhận mọi lời bình phẩm của họ bằng những lời cảm ơn, nhưng khi tất cả bọn họ rời đi, bà lão dường như thấy nhẹ nhõm hơn.
“Giờ ta sẽ nghỉ ngơi, bé con,” bà lão yếu ớt nói, đứng lên rồi bước vào nhà trong. Vong hồn của bà bám theo sau như một cái bóng.
“không có người đàn ông nào trong hội đồng Rede ư, Goody Alsop?” Tôi hỏi, đỡ lấy khuỷu tay bà.
“Chỉ còn lại có một nhúm người đấy thôi. Tất cả các pháp sư trẻ đều đến trường đại học để nghiên cứu triết học tự nhiên rồi,” bà thở dài nói. “Đây là một thời đại kỳ lạ, Diana ạ. Mọi người trong thời đại này đổ xô vào những thứ mới mẻ, và các phù thủy nghĩ sách vở sẽ dạy bọn họ tốt hơn kinh nghiệm. Ta sẽ phải để cô rời đi bây giờ. Hai tai ta đang ong lên rồi.”
một phù thủy nước đơn độc đến Hươu Đực và Vương Miện vào sáng thứ Năm. Tôi đang nằm nghỉ, kiệt sức vì cuộc dạo bộ khắp thành phố ngày hôm trước. Dáng người cao lớn và lả lướt, vị phù thủy nước này không phải bước đi mà như chảy vào trong nhà vậy. Tuy nhiên, cô ta gặp phải một trở ngại cứng rắn tại bức tường ma cà rồng ngay ngoài tiền sảnh.
“Được rồi mà, Matthew,” tôi lên tiếng từ cửa phòng ngủ, vẫy tay ra hiệu cho cô ta tiến tới.
Khi chỉ còn lại chúng tôi, phù thủy nước kiểm tra tôi một lượt từ đầu đến chân. Ánh mắt cô ta râm ran như nước muối dính trên da, sống động như một giọt nước giữa lòng đại dương vào một ngày hè oi ả.
“Goody Alsop đã đúng,” cô ta nói bằng một chất giọng trầm thấp đầy nhạc tính. “Có quá nhiều nước trong máu của cô. Thế nên cô không thể gặp cả nhóm chúng tôi vì sẽ gây nên một trận đại hồng thủy mất. cô phải gặp chúng tôi vào từng thời điểm riêng. Tôi e là sẽ mất cả ngày đấy.”
Bởi vậy, thay vì tôi tới gặp các phù thủy nước, họ đã chủ động đến gặp tôi. Họ nhỏ giọt ra nhà khiến Matthew và Françoise muốn phát điên. Nhưng không gì phủ nhận được mối quan hệ của tôi với họ, hay làn sóng ngầm mà tôi cảm thấy trước sự có mặt của một phù thủy nước.
“Nước không nói dối,” một phù thủy nước lẩm bẩm nói sau khi lướt đầu ngón tay qua trán và vai tôi. cô ta lật ngửa hai bàn tay tôi để quan sát lòng bàn tay. cô ta không lớn tuổi hơn tôi, có sắc diện rất gây chú ý: da trắng, tóc đen và mắt màu biển Caribbean.
“Nước gì cơ?” Tôi hỏi khi cô ta lần theo các nhánh phụ dẫn ra xa khỏi huyết mạch chính của tôi.
“Mỗi phù thủy nước ở London đã thu thập nước mưa từ giữa mùa hè cho tới lễ hội Mabon, sau đó trút nước vào cái bát lớn dùng để bói cầu của hội đồng Rede. Nó tiết lộ về người thợ dệt được mong đợi từ lâu, sẽ có nước trong huyết mạch của cô ấy.” Phù thủy nước buông một tiếng thở dài nhẹ nhõm và thả hai tay tôi ra. “Chúng tôi đang cần những câu thần chú mới sau khi giúp hạm đội của Tây Ban Nha quay trở về. Goody Alsop có thể cung ứng thêm thần chú cho các phù thủy nước, nhưng thợ dệt người Scotland được ban sức mạnh của đất thì không thể giúp chúng tôi được – cho dù bà ấy có muốn đi nữa. cô là đứa con gái đích thực của mặt trăng, nên sẽ giúp được chúng tôi.”
***
Sáng thứ Sáu, người đưa tin mang đến nhà tôi một địa chỉ trên phố Bread và những chỉ dẫn để tôi tới đó vào lúc mười một giờ, để gặp mặt các thành viên còn lại của hội đồng Rede: hai phù thủy đất. Hầu hết các phù thủy đều có vài phần phép thuật đất trong họ. Đó là tiền đề thiết lập nên hội nhóm, và trong thời hiện đại, các hội đồng phù thủy đất cũng không đặc biệt xuất chúng. Tôi tò mò xem liệu các phù thủy đất thời đại Elizabeth có gì khác biệt không.
Matthew và Annie đi cùng tôi, trong khi Pierre chạy việc vặt cho Matthew còn Françoise thì ra ngoài mua bán. Chúng tôi đang dọn sạch sân nhà thờ Thánh Paul thì Matthew quay sang một thằng nhóc lang thang có khuôn mặt nhem nhuốc và hai cẳng chân gày gò đầy vết thương. Trong chớp nhoáng, lưỡi dao của Matthew kề sát tai đứa bé.
“Bỏ ngón tay ra khỏi đó ngay, thằng nhãi, không ta sẽ xin cái tai của mi đấy,” anh khẽ nói.
Tôi ngạc nhiên nhìn xuống, thấy mấy ngón tay thằng bé đang cọ vào chiếc túi tôi đeo bên eo.
Ở Matthew luôn có dấu hiệu bạo lực, ngay cả trong thời đại của tôi, nhưng ở London thời Elizabeth, điều đó càng dễ bộc lộ ra ngoài hơn. Dù vậy, anh đâu cần phải chĩa nanh độc của mình vào một đứa nhỏ như thế chứ.
“Matthew,” tôi cảnh cáo, để ý thấy vẻ kinh hãi trên gương mặt đứa trẻ, “dừng lại đi.”
“Người khác sẽ lấy tai mi hoặc kéo lê mi đến ngay trước mặt quan tòa đấy.” Mắt Matthew nheo lại, và mặt đứa bé càng trắng bệch thêm.
“Đủ rồi,” tôi gắt lên, rồi chạm vào vai đứa nhỏ, nhưng thằng bé chùn người lại. Trong chớp nhoáng, con mắt phù thủy của tôi nhìn thấy một bàn tay đàn ông nặng nề đánh thằng bé và quăng nó vào tường. Dưới các ngón tay tôi, thân thể thằng bé được che đậy bằng một chiếc áo sơ mi vải thô. Đó là tất cả những gì giữ cho nó khỏi cái rét lạnh giá, máu rỉ ra từ một vết bầm tím ghê người trên da nó. “Tên cháu là gì?”
“Jack, thưa phu nhân,” thằng bé thì thào. Con dao của Matthew vẫn ấn vào tai nó, và chúng tôi đang bắt đầu thu hút sự chú ý.
“Bỏ con dao găm đi, Matthew. Đứa bé này không gây nguy hiểm cho ai trong chúng ta cả.” Matthew rút lại con dao kèm theo một tiếng rít khó chịu.
“Cha mẹ cháu đâu?”
Jack nhún vai. “không có, thưa phu nhân.”
“Đưa thằng bé về nhà, Annie, và bảo Françoise kiếm cho nó ít đồ ăn cùng quần áo. Cho thằng bé ít nước ấm nữa, nếu cháu có thể, và đưa nó vào giường của Pierre ấy. Thằng bé trông mệt mỏi rồi.”
“Em không thể nhận nuôi mọi đứa trẻ lang thang ở London này, Diana.” Matthew tra con dao găm vào vỏ thật mạnh.
“Françoise có thể sẽ cần người chạy việc vặt cho cô ấy.” Tôi vuốt ngược mái tóc thằng bé từ trán ra sau đầu. “Cháu sẽ làm việc cho ta chứ, Jack?”
“Vâng, thưa bà chủ.” Bụng Jack phát ra tiếng ùng ục nghe thấy rõ, và đôi mắt cảnh giác của thằng bé lóe lên một tia hy vọng. Con mắt phù thủy thứ ba của tôi mở to hơn, nhìn vào tận khoang dạ dày và đôi chân khẳng khiu run rẩy của thằng bé. Tôi rút ra vài đồng trong ví tiền.
“Mua cho thằng bé một lát bánh ở chỗ ông Prior trên đường về nhé Annie. Thằng bé sắp quỵ vì đói rồi, nhưng cái bánh sẽ giúp nó trụ được đến lúc Françoise có thể làm một bữa ăn đàng hoàng cho nó.”
“Vâng, thưa bà,” Annie nói. cô bé nắm chặt cánh tay Jack và kéo nó về hướng Blackfriars.
Matthew nhíu mày nhìn bọn họ rời đi rồi quay ra cau có với tôi. “Điều em đang làm cho thằng bé đó không phải là sự giúp đỡ. Thằng nhóc Jack này – nếu đó là tên thật của nó, điều này thì anh thật sự nghi ngờ đấy – sẽ không sống nổi qua năm nay nếu nó tiếp tục ăn cắp.”
“Đứa bé này sẽ không sống nổi qua tuần này trừ phi có một người lớn đứng ra chịu trách nhiệm với nó. anh đã nói gì nhỉ? Tình yêu thương, một người trưởng thành chăm sóc chúng, và một nơi êm ái để ngả lưng đúng không?”
“Đừng có dùng những lời anh nói để chống lại anh, Diana. Đó là nói về con chúng ta, không phải là một đứa trẻ bơ vơ không nhà nào đó.” Matthew, kẻ trong vài ngày qua đã gặp gỡ nhiều phù thủy hơn hầu hết các ma cà rồng từng gặp trong đời, đang sôi sục chiến đấu.
“Em cũng từng là trẻ bơ vơ không nhà đấy.”
Chồng tôi giật lùi lại như thể tôi vừa tát anh một cái.
“Giờ thì không dễ dàng gạt thằng bé đi phải không?” Tôi không đợi anh đáp lời. “Nếu Jack không đến với chúng ta, chúng ta có thể đưa nó thẳng tới chỗ Andrew Hubbard. Ở đó thằng bé sẽ được cho vừa một cái quan tài hoặc bị dùng làm bữa tối. Nó cũng sẽ chẳng được chăm sóc tốt hơn so với việc bị bỏ mặc trên đường phố này.”
“Chúng ta có đủ người hầu rồi,” Matthew lạnh nhạt nói.
“Em có thừa tiền mà. Nếu anh không thể, em sẽ trả tiền công cho thằng bé bằng quỹ riêng của em.”
“Thế thì em nên sáng tạo ra một câu chuyện cổ tích để tống thằng nhóc đó vào giường ngủ.” Matthew nắm chặt khuỷu tay tôi. “Em nghĩ thằng bé sẽ không nhận ra nó đang sống với ba wearh và hai phù thủy à? Trẻ con loài người luôn nhìn thấy thế giới của các sinh vật khác người rõ ràng hơn so với người lớn đấy.”
“anh nghĩ Jack sẽ quan tâm chúng ta là cái gì nếu nó có được một mái nhà che đầu, thức ăn trong bụng và một cái giường để yên lành ngủ mỗi đêm ư?” một phụ nữ nhìn chằm chằm vào chúng tôi vẻ bối rối từ bên kia đường. Ma cà rồng và phù thủy không nên tranh cãi nóng nảy như thế ở nơi công cộng. Tôi kéo mũ trùm sụp xuống quanh mặt.
“Chúng ta càng để nhiều sinh vật khác người bước vào cuộc sống của mình ở nơi này, thì càng đòi hỏi phải khéo léo hơn,” Matthew nói. anh phát hiện thấy người phụ nữ vẫn đang quan sát chúng tôi liền thả cánh tay tôi ra. “Và càng phải khéo léo gấp đôi đối với loài người.”
Sau khi viếng thăm hai vị phù thủy đất trang nghiêm, cứng nhắc, Matthew và tôi rút về hai phía của Hươu Đực và Vương Miện, cho tới khi tâm trạng của chúng tôi dịu lại. Matthew xem đám thư từ của anh, gầm lên với Pierre và buông ra hàng tràng nguyền rủa chống lại chính phủ của Nữ hoàng bệ hạ, những ý thích nhất thời của cha anh, và hành động dại dột của Vua James nước Scotland. Tôi dành thời gian nói chuyện với Jack về các bổn phận của nó. Thằng bé có những tuyệt chiêu khi nẫng đồng hồ, ví tiền, và mấy gã thộn nhà quê có thể bị nó lừa tất cả tài sản trong những ván bài bí mật, nhưng nó lại không biết đọc, viết, nấu ăn, khâu vá hay làm bất cứ việc gì khác khả dĩ có thể trợ giúp Françoise và Annie. Tuy nhiên, Pierre lại có hứng thú nghiêm túc với thằng bé, đặc biệt sau khi anh chàng tìm lại được cái bùa may mắn từ túi trong chiếc áo chẽn cũ của thằng bé.
“đi với ta nào, Jack,” Pierre nói, giữ cửa mở và hất đầu về phía cầu thang. anh ta đang chuẩn bị ra ngoài thu thập thư tín đợt cuối từ chỗ những người cung cấp tin của Matthew. rõ ràng anh ta đã có kế hoạch tận dụng ưu điểm am hiểu về thế giới ngầm London từ cậu nhóc trẻ tuổi của chúng tôi.
“Vâng, thưa ngài,” Jack đáp, giọng háo hức. Thằng bé trông đã khỏe hơn ngay sau một bữa ăn.
“không được có gì nguy hiểm đâu đấy,” tôi cảnh cáo Pierre.
“Dĩ nhiên là không, madame,” chàng ma cà rồng hồn nhiên nói.
“Ý tôi là thế đấy,” tôi vặn lại. “Và đưa thằng bé về trước khi trời tối nhé.”
Tôi đang sắp xếp giấy tờ trên bàn làm việc của mình thì Matthew ra khỏi phòng làm việc. Françoise và Annie đã tới Smithfield để gặp người đồ tể lấy thịt và máu, thế nên cả ngôi nhà chỉ có chúng tôi.
“anh xin lỗi, mon Coeur,” Matthew nói, vòng tay qua eo tôi từ phía sau. anh đặt một nụ hôn lên cổ tôi. “Qua lại giữa hội đồng Rede và nữ hoàng, thật là một tuần dài.”
“Em cũng xin lỗi. Em hiểu tại sao anh không muốn Jack ở đây, Matthew, nhưng em không thể phớt lờ nó. Thằng bé bị thương và bị bỏ đói.”
“anh biết,” Matthew nói, kéo tôi vào và ôm thật chặt đến mức lưng tôi vừa vặn áp sát vào ngực anh.
“anh sẽ có phản ứng khác nếu chúng mình tìm thấy thằng bé ở Oxford thời hiện đại đúng không?” Tôi hỏi, nhìn đăm đăm vào ngọn lửa chứ không nhìn vào mắt anh.
Kể từ sự cố với Jack, tôi bị ám ảnh bởi câu hỏi, liệu thái độ cư xử của Matthew bắt nguồn từ hệ gen của ma cà rồng hay do đạo đức sống của thời đại Elizabeth.
“Có lẽ không. Ma cà rồng sống giữa loài máu nóng không phải chuyện dễ dàng gì, Diana ạ. Nếu không có sợi dây liên kết về cảm xúc, loài máu nóng chẳng là gì hơn một nguồn cung cấp chất dinh dưỡng. không ma cà rồng nào, kể cả văn minh và tử tế đến đâu, có thể duy trì khoảng cách tương đối gần với một sinh vật máu nóng mà không cảm thấy sự thôi thúc muốn ăn thịt họ.” Hơi thở của anh mát lạnh phả vào cổ tôi, chọc ngưa ngứa đúng cái vị trí nhạy cảm mà Miriam đã dùng máu của mình để chữa lành vết thương do Matthew tạo nên.
“anh không có vẻ gì là muốn ăn em cả.” Chẳng có dấu hiệu nào cho thấy Matthew phải vật lộn với một sự thôi thúc như thế, mà anh còn thẳng thừng từ chối những lần cha anh gợi ý rằng anh có thể uống máu tôi.
“anh có thể làm chủ được những khao khát của mình tốt hơn rất nhiều so với hồi đầu chúng mình gặp nhau. Giờ nỗi thèm khát của anh với máu của em không nghiêng nhiều về vấn đề dinh dưỡng nữa để mà phải kiểm soát. Việc ăn em bây giờ căn bản là một sự xác nhận địa vị thống trị rằng chúng mình đã kết đôi.”
“Và chúng ta đã có tình dục dành cho chuyện đó,” tôi nói thản nhiên như không. Matthew là một bạn tình nồng nhiệt và sáng tạo, nhưng anh rõ ràng coi phòng ngủ là lãnh thổ của mình.
“Làm ơn nhắc lại xem nào?” anh nói, đôi lông mày nhíu lại cau có.
“Tình dục và sự thống trị. Đó là cái mà loài người hiện đại nghĩ về mối quan hệ của ma cà rồng,” tôi nói. “Các câu chuyện của họ đầy rẫy cảnh ma cà rồng nam giới thống lĩnh điên cuồng, ném phụ nữ lên vai trước khi kéo bọn họ tới bàn ăn tối và hẹn hò.”
“Bữa tối và hẹn hò ư?” Matthew thở hắt ra. “Ý em là…?”
“Ừm. anh nên xem những cái mà bạn bè của dì Sarah ở hội đồng phù thủy Madison đã đọc. Ma cà rồng gặp một cô gái và cắn, cô gái choáng váng phát hiện ra thật sự có ma cà rồng. Tình dục, máu, và thái độ bao bọc thái quá, tất cả nhanh chóng đến tiếp sau đó. một số trong đó khá dứt khoát.” Tôi ngừng lại. “không có thời gian để tìm hiểu, điều đó là chắc chắn. Em không nhớ nhiều lắm thơ ca cũng như mấy điệu nhảy.”
Matthew thốt lên. “Thảo nào dì của em đã muốn biết liệu anh có đói không.”
“anh thật sự nên đọc thứ này, chỉ để biết loài người nghĩ gì thôi. Đó là một cơn ác mộng được lưu truyền rộng rãi. Còn tồi tệ hơn những gì phù thủy phải vượt qua.” Tôi quay lại đối diện với anh. “anh chắc sẽ ngạc nhiên khi biết nhiều phụ nữ dường như muốn có một bạn trai là ma cà rồng đến mức nào.”
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu đám bạn trai ma cà rồng của bọn họ cư xử như những gã khốn nhẫn tâm trên phố và đe dọa những đứa trẻ mồ côi chết đói hả?”
“Hầu hết ma cà rồng được hư cấu đều có trái tim bằng vàng, trừ việc thỉnh thoảng giận dữ ghen tuông và vì thế có thể chặt người ta ra thành trăm mảnh.” Tôi vuốt tóc và tránh ánh mắt anh.
“anh không thể tin chúng mình lại có cuộc nói chuyện này,” Matthew nói.
“Tại sao? Ma cà rồng đọc sách về phù thủy. Thực tế là cuốn Doctor Faustus của Kit thật hoang đường, ngây thơ cũng không ngăn anh tận hưởng một câu chuyện huyên thuyên, hay ho và dị thường mà.”
“Đúng, nhưng tất cả chuyện đó là vác đi và rồi làm tình…” Matthew lắc đầu.
“anh đã vác em mà, lúc ấy anh thật quyến rũ. Em nhớ dường như mình đã được nhấc bổng lên trong vòng tay anh ở Sept-Tours hơn một lần cơ,” tôi chỉ ra.
“Chỉ khi em bị thương thôi!” Matthew phẫn nộ nói. “Hay mệt mỏi.”
“Hay khi anh muốn em ở một nơi còn em lại đang ở nơi khác. Hay khi con ngựa quá cao, hay chiếc giường quá cao, hay biển quá động. Thành thật nào, Matthew. anh có một trí nhớ rất chọn lọc khi nó phù hợp với anh nhé. Còn về phần làm tình, không phải lúc nào cũng là hành động âu yếm, dịu dàng như anh miêu tả. không như trong những cuốn sách mà em thấy. Đôi khi nó chỉ hay ho, cứng…”
Trước khi tôi kịp nói hết câu, chàng ma cà rồng điển trai, cao lớn đã quẳng tôi lên vai anh ta.
“Chúng ta sẽ tiếp tục cuộc nói chuyện này trong phòng riêng.”
“Cứu với! Tôi nghĩ chồng tôi là ma cà rồng!” Tôi cười sặc sụa và dụi mặt vào sau lưng anh.
“Yên nào,” anh gầm lên. “không thì em sẽ khiến bà Hawley phải tham chiến đấy.”
“Nếu em mà là một phụ nữ loài người chứ không phải phù thủy, thì âm thanh gầm thét mà anh vừa phát ra đó đã làm em bất tỉnh rồi. Em là của anh từ đầu đến chân, và anh có thể làm gì tùy ý.” Tôi cười như nắc nẻ.
“Em đã là tất cả của anh rồi,” Matthew nhắc tôi và đặt tôi lên giường. “Tiện đây, anh đang thay đổi cái kịch bản nực cười này. Vì tình yêu dành cho khả năng sáng tạo – không kể đến những chi tiết có vẻ thật – chúng mình đang bỏ qua bữa tối và chuyển thẳng sang hẹn hò.”
“Độc giả sẽ thích một chàng ma cà rồng nói thế đấy!” Tôi nói.
Matthew dường như chẳng quan tâm đến những đóng góp dưới góc độ biên tập của tôi. anh quá bận rộn với việc nâng mấy lớp váy của tôi lên. Chúng tôi sắp sửa làm tình mà mặc nguyên quần áo. Thời đại Elizabeth mới tuyệt vời làm sao!
“Đợi một phút! Ít nhất cũng để em cởi cái vòng độn mông ra đã.” Annie đã báo cho tôi biết rằng, đây là cái tên chính xác dành cho cái thứ hình bánh rán vòng, giữ cho váy tôi đầy đặn và đường bệ hơn.
Nhưng Matthew chẳng có vẻ gì định đợi cả.
“Độn mông quái quỷ, xuống địa ngục đi.” anh tháo dây buộc phía trước chiếc quần chẽn, tóm lấy hai tay tôi, ghim chặt phía trên đầu tôi. Bằng một cú thúc mạnh, anh đã ở bên trong tôi.
“Em không biết là nói chuyện về tác phẩm hư cấu được yêu thích sẽ có hiệu ứng như thế này với anh,” tôi nói không ra hơi trong khi anh bắt đầu chuyển động. “Nhớ nhắc em thảo luận nó với anh thường xuyên
hơn đấy.”
***
Chúng tôi vừa ngồi xuống ăn tối thì tôi được gọi đến nhà Goody Alsop.
Hội đồng Rede đã nắm quyền chỉ đạo.
Khi Annie và tôi đến cùng với hai ma cà rồng tháp tùng, Jack lẽo đẽo phía sau, chúng tôi thấy bà lão đang đứng trước phòng khách cùng với Susanna và ba phù thủy lạ mặt. Goody Alsop đuổi đám đàn ông tới quán Con Ngỗng Vàng và hướng tôi đến cùng nhóm người bên lò sưởi.
“Đến đây nào, Diana, và gặp các giáo viên của cô đi.” Cái bóng hồn của Goody Alsop chỉ cho tôi một chiếc ghế trống. Họ trông giống một đám mệnh phụ thành thị sung túc, với những chiếc váy dài bằng len dày, trong sắc màu mùa đông đen tối. Chỉ có những cái liếc nhìn nhoi nhói râm ran tiết lộ họ là phù thủy.
“Vậy hội đồng Rede đã tán thành với kế hoạch ban đầu của bà,” tôi chậm rãi nói, cố gắng đón ánh mắt họ. Để cho giáo viên thấy nỗi sợ hãi không bao giờ là chuyện tốt cả.
“Họ đã đồng ý,” Susanna đáp với vẻ mặt xác nhận. “Bà bỏ quá cho tôi, bà Roydon. Tôi có hai đứa con trai cần phải lo, và một ông chồng quá ốm yếu để có thể chu cấp cho chúng tôi. Lòng tốt của một người láng giềng có thể biến mất chỉ qua một đêm.”
“Hãy để ta giới thiệu cô với những người khác,” Goody Alsop nói, nhẹ nhàng quay sang người phụ nữ bên phải bà. Bà ta khoảng tầm sáu mươi, vóc người thấp lùn, khuôn mặt tròn xoe và nếu nụ cười của bà ta có bất cứ biểu hiện nào, thì đó là một tinh thần phóng khoáng. “Đây là Marjorie Cooper.”
“Diana,” Marjorie đáp kèm theo một cái gật làm cho chiếc cổ áo xếp nếp nhỏ của bà phát ra tiếng sột soạt. “Chào mừng đến cuộc tụ hội của chúng tôi.”
Khi gặp hội đồng Rede, tôi biết rằng, các phù thủy thời Elizabeth dùng từ “tụ hội” cũng như các phù thủy hiện đại dùng cụm từ “hội phù thủy” để chỉ một cộng đồng các phù thủy. Giống mọi thứ khác ở London, các cuộc tụ hội của thành phố này đồng thời cũng trùng khớp với ranh giới của xứ đạo. Mặc dù thật lạ lùng khi nghĩ đến việc, các hội phù thủy và nhà thờ Thiên Chúa giáo ở sát bên nhau như thế, nghe rất có tổ chức và an toàn, vì nó giữ cho các sự vụ của phù thủy chỉ xảy ra trong vùng các khu vực xóm giềng gần kề nhau.
Vì thế nên có hơn một trăm các nhóm tụ hội ở London và hơn hai tá nữa ở khu vực ngoại thành. Giống như các xứ đạo, các nhóm phù thủy được tổ chức theo các khu vực lớn, như các phân khu. Mỗi phân khu lại cử ra một tiền bối bề trên để đến hội đồng Rede, là tổ chức trông nom tất cả các sự vụ của phù thủy trong thành phố.
Hội đồng Rede đang lo rằng, với những cơn hoảng loạn và cuộc săn lùng phù thủy vốn âm ỉ đang bùng phát, hệ thống cai quản cũ đang rạn vỡ. London đang bùng nổ những sinh vật khác người. Họ đổ về đây mỗi ngày một nhiều thêm. Tôi đã nghe thấy những lời bàn tán về quy mô của nhóm hội Aldgate – bao gồm hơn sáu mươi phù thủy thay vì mười ba đến hai mươi phù thủy như bình thường. Những nhóm hội lớn ở Cripplegate và Southwalk cũng thế. Để tránh bị loài người phát hiện, một vài nhóm hội đã bắt đầu “chia tổ” và xé lẻ thành nhiều đội khác nhau. Nhưng các nhóm hội mới với những người lãnh đạo ít kinh nghiệm hơn còn đang mơ hồ về cách giải quyết ở thời điểm khó khăn này. Các phù thủy trong hội đồng Rede là những người được ban cho thị giác thứ hai, tiên đoán được những rắc rối phía trước.
“Marjorie được ban cho phép thuật đất, giống như Susanna. Biệt tài của bà ấy là ghi nhớ,” Goody Alsop giải thích.
“Tôi không cần các cuốn bí kíp hay lịch mới mà tất cả các chủ hiệu sách đang rao bán,” Marjorie tự hào nói.
“Marjorie ghi nhớ một cách hoàn hảo mọi câu thần chú mà bà ấy nắm bắt được và có thể nhớ hình thể chính xác của các ngôi sao trong từng năm bà ấy đã sống – và cả khoảng thời gian bà ấy còn chưa được sinh ra.”
“Goody Alsop sợ cô không thể viết ra hết tất cả những gì cô học được ở đây và mang nó đi. không chỉ giúp cô tìm được đúng từ ngữ để các phù thủy khác có thể sử dụng những câu thần chú cô đặt ra, tôi còn dạy cô cách làm thế nào để không ai có thể lấy những từ ngữ đó ra khỏi cô được.” Hai mắt Marjorie long lanh, giọng hạ thấp một cách bí ẩn. “Và chồng tôi là người bán rượu vang. Ông ấy có thể cung cấp cho cô rượu vang ngon hơn nhiều thứ cô đang uống bây giờ. Tôi hiểu rượu vang rất quan trọng đối với wearh.”
Tôi cười thành tiếng trước câu nói này và các phù thủy khác cũng hùa theo. “Cảm ơn bà Cooper. Tôi sẽ chuyển lời chào hàng của bà tới chồng tôi.”
“Marjorie, ở đây chúng ta là chị em.” Lần này tôi không co rúm lại khi được gọi là chị em của một phù thủy khác.
“Tôi là Elizabeth Jackson,” người phụ nữ lớn tuổi ở phía bên kia Goody Alsop lên tiếng. Bà ta ở tầm tuổi giữa Marjorie và Goody Alsop.
“Bà là phù thủy nước.” Tôi cảm thấy mối tương tác ngay khi bà ấy nói.
“Đúng vậy.” Elizabeth có mái tóc và đôi mắt màu xám như ánh thép, cao lớn và thẳng đuỗn, còn Marjorie thì lùn và tròn quay. Trong khi nhiều phù thủy nước ở hội đồng Rede quanh co, lả lướt và như đang chảy đi, thì Elizabeth lại có sự rõ ràng, nhanh nhẹn của một dòng suối trên núi. Tôi cảm thấy bà sẽ luôn nói thật với tôi, thậm chí khi tôi không muốn nghe đi chăng nữa.
“Elizabeth được ban cho tài tiên tri. Bà ấy sẽ dạy cô nghệ thuật bói cầu thủy tinh.”
“Mẹ tôi cũng nổi tiếng về thị giác thứ hai,” tôi ngập ngừng nói. “Tôi sẽ vui sướng được tiếp bước bà.”
“Nhưng bà ấy không có lửa,” Elizabeth quả quyết nói, bắt đầu việc nói lên sự thật ngay lập tức. “cô có thể không tiếp bước được theo mẹ cô trong mọi chuyện đâu, Diana ạ. Lửa và nước là một sự pha trộn đầy uy lực, miễn là chúng không triệt tiêu lẫn nhau.”
“Chúng ta sẽ canh chừng để chuyện đó không xảy ra,” phù thủy cuối cùng hứa hẹn, quay sang nhìn tôi. Cho tới lúc đó, bà ấy vẫn chủ ý tránh cái nhìn chăm chú của tôi. Giờ tôi có thể thấy rõ lý do tại sao: có những ánh sáng vàng lấp lánh trong đôi mắt nâu của bà và con mắt thứ ba của tôi bật mở trong trạng thái khẩn cấp. Với tầm nhìn rộng thêm đó, tôi có thể thấy quầng sáng bao quanh bà ta. Đây chắc hẳn là Catherine Streeter.
“Bà thậm chí… thậm chí còn mạnh hơn các phù thủy lửa trong hội đồng Rede,” tôi lắp bắp.
“Catherine là một phù thủy đặc biệt,” Goody Alsop công nhận, “một phù thủy lửa được sinh ta từ hai phù thủy lửa. Nó hiếm khi xảy ra, mặc dù ngay bản thân bà ấy cũng biết rằng một ánh sáng như thế không thể nào che giấu đi được.”
Khi con mắt thứ ba của tôi nhắm lại, bị lóa đi khi nhìn vào vị phù thủy lửa được ban phước gấp ba lần ấy, Catherine dường như mờ nhạt dần. Mái tóc nâu của bà xỉn đi, đôi mắt mờ tối lại và gương mặt đẹp đẽ nhưng không gây ấn tượng đáng nhớ. Phép thuật của bà ta nhảy trở lại cuộc sống, tuy nhiên, ngay lúc đó bà ta lên tiếng.
“cô có nhiều lửa hơn tôi kỳ vọng đấy,” bà ta trầm ngâm nói.
“thật đáng tiếc là cô ấy không ở đây khi Armada đến,” Elizabeth nói.
“Vậy đó là sự thật ư? ‘Ngọn gió anh’ nổi tiếng đã thổi những con thuyền của Tây Ban Nha ra khỏi bờ biển nước anh là do các phù thủy gọi đến ư?” Tôi hỏi. Đó là một phần tri thức của phù thủy, nhưng tôi luôn bác bỏ và coi nó là chuyện thần thoại.
“Goody Alsop rất đắc lực với Nữ hoàng bệ hạ,” Elizabeth tự hào nói. “Nếu có cô ở đây, tôi nghĩ chúng ta có thể tạo ra nước lửa – hoặc ít nhất là một cơn mưa lửa ấy chứ.”
“Chúng ta hãy chú tâm vào việc trước mắt đi,” Goody Alsop nói, giơ một tay lên. “Diana chưa tạo ra được thần chú đệm của thợ dệt đâu.”
“Thần chú đệm ư?” tôi hỏi. Giống như nhóm tụ hội và hội đồng Rede, đây là một cụm từ tôi không biết đến.
“Thần chú đệm tiết lộ hình dáng, năng lực của một thợ dệt. Chúng ta sẽ cùng tạo hình cho một vòng ban phép. Từ đó, chúng tôi sẽ tạm thời chuyển sức mạnh của cô đã được nới lỏng để tìm đường cho chúng, không bị ngăn trở bởi ngôn từ và những mong muốn,” Goody Alsop đáp. “Nó sẽ cho chúng tôi biết nhiều điều về năng lực của cô và những gì chúng tôi phải làm để huấn luyện chúng, cũng như tiết lộ những người thân cận của cô.”
“Phù thủy không có người thân cận.” Đây là một nét tính cách tự kiêu tự đại khác của loài người, giống việc thờ phụng ác quỷ vậy.
“Các thợ dệt thì có,” Goody Alsop ôn tồn nói, làm một cử động hướng về phía bóng hồn của bà. “Đây là của ta. Giống như tất cả những người thân cận, cô ta là một phần sức mạnh thêm ra của ta.”
“Tôi không chắc việc có người thân cận là một ý tưởng hay ho trong trường hợp của tôi,” tôi nói, nghĩ về những quả mộc qua bị đen quắt lại, đôi giày của Mary và chú gà con. “Tôi đã có đủ lo lắng rồi.”
“Đó chính là lý do cô ném ra thần chú đệm đấy – để đối mặt với những nỗi sợ sâu thẳm trong lòng nên cô có thể làm phép một cách tự do. Nhưng nó có thể là một trải nghiệm đau đớn đấy. Có những phù thủy bước vào vòng tròn này với màu tóc đen nhánh như cánh quạ và rời đi với mái tóc trắng phau như tuyết,” Goody Alsop thừa nhận.
“Nhưng nó cũng sẽ không tan nát trái tim như cái đêm wearh bỏ lại Diana và nước dâng ngập cô ấy,” Elizabeth khẽ nói.
“Hay cô độc như cái đêm cô ấy bị nhốt trong lòng đất,” Susanna nói kèm theo một cái rùng mình. Marjorie gật gật đầu đầy cảm thông.
“Hay hãi hùng như thời điểm mụ phù thủy lửa kia cố gắng mở banh cô ra,” Catherine cam đoan với tôi, những ngón tay bà chuyển thành màu cam với cơn giận dữ.
“Trăng sẽ tròn vào thứ Sáu. Lễ rước nến còn cách vài tuần nữa. Và chúng ta đang bước vào giai đoạn thuận lợi cho các câu thần chú dành cho bọn trẻ hiếu học,” Marjorie nhấn mạnh, gương mặt nhăn lại với vẻ tập trung khi bà hồi tưởng lại các thông tin liên quan từ bộ nhớ đáng kinh ngạc của bà.
“Tôi đã nghĩ đây là tuần lễ dành cho bùa rắn cắn chứ?” Susanna nói, tay lôi ra một cuốn lịch nhỏ từ trong túi.
Trong khi Marjorie và Susanna thảo luận về những thời gian biểu phép thuật rắc rối, phức tạp thì Goody Alsop, Elizabeth và Catherine nhìn chằm chằm vào tôi.
“Ta tự hỏi…” Goody Alsop nhìn tôi với vẻ công khai suy xét, ngón tay vỗ nhẹ lên môi bà.
“Chắc chắn không,” Elizabeth nói, giọng nén lại thật khẽ.
“Chúng ta không chặt đầu của chính mình, nhớ không?” Catherine nói. “Nữ thần đã ban đủ phước cho chúng ta rồi.” Khi nói điều đó, cặp mắt nâu của bà ánh lên liền tù tì một chuỗi những tia sáng xanh lục, vàng kim, đỏ và đen trong chớp nhoáng. “Nhưng có lẽ…”
“Cuốn lịch của Susanna sai toét cả. Nhưng chúng tôi đã quyết định sẽ thuận lợi hơn nếu Diana dệt thần chú đệm của cô ấy vào thứ Năm tới, dưới ánh trăng lưỡi liềm,” Marjorie nói, vỗ tay vẻ vui thích.
“Ôi trời,” Goody Alsop thốt lên, thọc ngón tay vào lỗ tai để cản bớt tiếng nhiễu ồn trong không khí. “Khẽ thôi, Marjorie, khe khẽ thôi.”
***
Cùng với những bổn phận mới tôi phải làm với nhóm hội khu St.James Garlickhythe, rồi lại tiếp tục niềm hứng thú dành cho các thí nghiệm về thuật giả kim của Mary, tôi nhận ra bản thân đang ở bên ngoài nhiều thời hơn, trong khi Hươu Đực và Vương Miện tiếp tục là trung tâm tụ tập của Bè lũ Bóng đêm và trụ sở làm việc của Matthew. Những người đưa tin đến rồi đi với những báo cáo và thư từ. George thường ghé qua ăn chực một bữa, kể cho chúng tôi nghe về những nỗ lực vô ích mới nhất của anh chàng để tìm Ashmole 782. Hancock và Gallowglass thì bỏ đồ cần giặt của họ ở tầng dưới, giết thời gian hàng giờ bên lò sưởi của tôi, ăn mặc hở hang, cho tới khi đồ giặt được trả về cho bọn họ. Kit và Matthew đã đạt được một thỏa thuận ngừng bắn không mấy thoải mái, sau vụ việc với Hubbard và John Chandler. Điều này có nghĩa là tôi thường tìm thấy nhà viết kịch ngồi ngoài phòng khách, nhìn đăm đắm vào khoảng không xa xăm rồi viết một cách điên cuồng. anh ta tự cho phép bản thân dùng nguồn cung cấp giấy của tôi – thực tế này bổ sung thêm phiền phức và khó chịu.
Rồi còn chuyện Annie và Jack nữa. Việc phối hợp cho hai đứa trẻ vào làm gia nhân là một công việc chiếm toàn thời gian. Jack, đứa nhỏ mà tôi cho là khoảng tầm bảy hoặc tám tuổi (thằng bé không biết tuổi thực của nó), thích làm các trò quái quỷ, trêu chọc cô gái mới lớn kia. Cậu nhóc bám theo Annie đi khắp nơi và nhại theo lời cô bé. Những lúc như thế, Annie sẽ òa khóc và chạy ào lên lầu, quăng mình vào giường nức nở. Khi tôi trừng phạt Jack về hành vi của nó, thằng bé liền hờn dỗi. Tuyệt vọng muốn có vài giờ đồng hồ yên tĩnh, tôi tìm một ông thầy sẵn sàng dạy chúng đọc, viết và làm tính, nhưng cả hai đứa nhanh chóng khiến anh chàng cử nhân mới tốt nghiệp Cambridge chạy xa, vì chúng cứ thẫn thờ trống rỗng và học hành lơ đãng. Cả hai đều thích đi mua bán với Françoise, chạy quanh London với Pierre, hơn là ngồi im và làm phép tính cộng trừ nhân chia.
“Nếu con chúng mình cư xử như thế này, em sẽ dìm chết thằng bé mất,” tôi bảo với Matthew, trong một khoảnh khắc nghỉ ngơi tại phòng làm việc của anh.
“Con bé sẽ cư xử giống như thế, em có thể chắc chắc điều đó. Và em sẽ không dìm chết con bé đâu,” Matthew nói, đặt cây bút mực xuống. Chúng tôi vẫn không thống nhất được về giới tính của đứa bé.
“Em đã cố thử mọi cách. Em đã lý luận, thuyết phục, lấy lòng – ôi quỷ tha ma bắt, em thậm chí còn mua chuộc chúng nữa.” Những chiếc bánh sữa của ông Prior chỉ càng làm tăng thêm năng lượng nghịch ngợm của Jack mà thôi.
“Mọi bậc cha mẹ đều mắc những lỗi như thế,” anh cười nói. “Em đang cố gắng làm bạn của chúng. Hãy đối xử với Jack và Annie như những chú cún con. Thỉnh thoảng véo mũi một cái, em sẽ thiết lập uy quyền tốt hơn là một cái bánh thịt bằm mang lại đấy.”
“Có phải anh đang bày cho em các mẹo làm cha mẹ lấy từ vương quốc loài vật không?” Tôi đang nghĩ đến các nghiên cứu của anh trước đây về loài sói.
“Như thực tế của chính anh đây. Nếu chúng tiếp tục lối sống phóng đãng này, anh sẽ buộc phải nhúng tay vào, và anh không véo đâu, mà anh cắn đấy.” Matthew gầm gừ với cánh cửa khi tiếng đổ vỡ loảng xoảng ầm ĩ vang lên xuyên qua các phòng, tiếp theo là tiếng nói khốn khổ “xin lỗi bà chủ.”
“Cảm ơn anh, nhưng em chưa đủ tuyệt vọng để phải viện đến phương thức huấn luyện gọi dạ bảo vâng ấy đâu. Chưa đâu.” Tôi nói và quay ra khỏi phòng.
Trong hai ngày, tôi dùng lời nói để dạy dỗ và quản lý thời gian của bọn trẻ, cho chúng thấm nhuần tính trật tự, nhưng bọn trẻ cần vận động nhiều để kiềm chế sự hiếu động của chúng. Tôi đành bỏ lại sách vở, giấy tờ để dẫn chúng đi dạo trên những con đường dài, xuôi xuống Cheapside và vào vùng ngoại ô phía tây. Chúng tôi đi đến chợ cùng với Françoise và ngắm những con thuyền dỡ hàng hóa tại Vintry. Ở đó, chúng tôi tưởng tượng về những miền đất – nơi xuất xứ các chuyến hàng này và suy đoán về nguồn gốc của thủy thủ đoàn.
Đôi chỗ dọc đường đi, tôi cảm thấy mình không giống một du khách nữa mà bắt đầu thấy London thời đại Elizabeth chính là quê hương của mình.
Sáng thứ Bảy, chúng tôi đang đi mua sắm ở chợ Leadenhall, khu buôn bán hàng tạp phẩm tốt hàng đầu của London, thì trông thấy một người ăn xin què một chân. Tôi moi một đồng xu ra khỏi túi cho ông ta trong lúc bọn trẻ biến mất vào một cửa hàng bán mũ – nơi chúng có thể tiến hành công cuộc tàn phá – một sự tàn phá đắt đỏ.
“Annie! Jack!” Tôi gọi, thả đồng xu vào lòng bàn tay người đàn ông. “Ông hãy giữ lấy cho mình!”
“Bà đang ở xa nhà quá đấy, bà Roydon,” một giọng nói trầm trầm cất lên. Tôi dựng tóc gáy, quay lại và thấy Andrew Hubbard.
“Cha Hubbard,” tôi thốt lên. Người ăn xin cách tôi có mấy phân.
Hubbard nhìn quanh. “Người phụ nữ của bà đâu rồi?”
“Nếu cha đang nhắc đến Françoise thì cô ấy ở trong chợ,” tôi chua chát nói. “Annie cũng đi cùng với tôi. Tôi không có cơ hội để cảm ơn Cha đã gửi cô bé đến cho chúng tôi. cô bé giúp ích rất nhiều.”
“Ta hiểu là bà đã gặp Goody Alsop.”
Tôi không đáp lại sự thăm dò mang tính câu kéo rõ rành rành thế này.
“Kể từ khi người Tây Ban Nha đến, bà ta không nhúc nhích ra khỏi nhà trừ phi có lý do hay ho.”
Tôi vẫn im lặng trong khi Hubbard cười.
“Tôi không phải kẻ địch của bà, thưa bà.”
“Tôi không nói Cha như thế, Cha Hubbard. Nhưng tôi gặp ai và lý do tại sao thì không phải chuyện Cha cần quan tâm.”
“Đúng thế. Cha chồng bà – hay bà nghĩ về ông ta như là cha mình nhỉ? – đã thể hiện điều đó khá rõ ràng trong lá thư của ông ấy. Dĩ nhiên Philippe cảm ơn ta đã hỗ trợ bà. Nhưng với người đứng đầu gia đình de Clermont, những lời cảm ơn thường đi trước những lời đe dọa. Đấy là một sự thay đổi mới mẻ trong phong cách cư xử thường lệ của cha bà.”
Mắt tôi nheo lại cảnh giác. “Đó là điều Cha muốn ư, Cha Hubbard?”
“Ta chịu đựng sự hiện diện của những tên de Clermont bởi vì ta phải làm vậy. Nhưng ta không buộc phải tiếp tục làm thế nếu có những rắc rối.” Hubbard nghiêng tới sát tôi, hơi thở lạnh giá. “Và bà đang gây ra rắc rối. Ta có thể ngửi thấy nó, nếm thấy nó. Kể từ khi bà đến, lũ phù thủy rất… khó khăn.”
“Đó là một sự trùng hợp ngẫu nhiên không may thôi,” tôi nói, “nhưng tôi không định đổ lỗi đâu. Tôi được rèn luyện về nghệ thuật phù phép dở đến mức thậm chí không thể đập một quả trứng vào bát.” Françoise đi ra khỏi chợ. Tôi nhún gối chào Hubbard và bước qua hắn. Bàn tay hắn vọt ra tóm lấy cổ tay tôi. Tôi nhìn xuống những ngón tay lạnh lẽo của hắn.
“không chỉ các sinh vật khác người mới phát ra mùi hương, bà Roydon ạ. Bà có biết bí mật cũng có hương thơm riêng của chúng không?”
“không,” tôi đáp, kéo cổ tay ra khỏi cái nắm siết của hắn.
“Phù thủy có thể biết được khi ai đó nói dối. Wearh có thể ngửi được mùi bí mật giống như con chó săn đánh hơi được mùi một con nai. Ta sẽ theo đuổi bí mật của bà tới tận cùng, bà Roydon ạ, cho dù bà có cố che giấu nó thế nào đi nữa.”
“Bà đã sẵn sàng chưa, madame?” Françoise hỏi, cau mày khi khoảng cách gần hơn. Annie và Jack đã ở bên cô ấy, và khi cô bé phát hiện ra Hubbard, mặt nó trắng bệch ra.
“Rồi, Françoise,” tôi đáp, cuối cùng cũng rời mắt khỏi cặp mắt vằn sọc dị thường của Hubbard. “Cảm ơn Cha về lời khuyên bảo và cả thông tin kia nữa.”
“Nếu thằng bé là quá sức đối với các vị, ta sẽ vui mừng được chăm sóc cho nó,” Hubbard lầm bầm khi tôi đi qua. Tôi quay người và sải bước trở lại chỗ hắn.
“Đừng động đến những gì là của tôi.” Mắt chúng tôi khóa chặt vào nhau, lần này chính Hubbard phải quay đi trước. Tôi trở lại với nhóm đồng hành lộn xộn của mình: ma cà rồng, phù thủy và loài người. Jack trông có vẻ lo lắng và lúc này đang nhấp nhỏm đổi hết chân này tới chân kia, như thể nó đang cân nhắc đến việc chạy trốn. “Chúng ta về nhà và thưởng thức món bánh mỳ gừng nào,” tôi nói, nắm lấy tay thằng bé.
“Ông ta là ai thế ạ?” Thằng bé thì thào hỏi.
“Đó là Cha Hubbard.” Annie thì thầm thật khẽ đáp lại.
“Là người trong các bài hát ấy ạ?” Jack hỏi, ngoái nhìn qua vai. Annie gật đầu.
“Đúng thế, và khi ông ấy…”
“Đủ rồi, Annie. Các cháu đã xem được gì trong cửa hàng mũ đó vậy?” Tôi hỏi, siết lấy Jack chặt hơn. Tôi chìa tay về phía chiếc giỏ đầy hàng tạp phẩm. “Để tôi cầm cái đó cho, Françoise.”
“Chẳng ích gì đâu, madame,” Françoise nói, mặc dù vậy cô ấy vẫn đưa tôi cái giỏ. “Milord sẽ biết bà đã ở cùng gã ma quỷ đó. Thậm chí cả mùi bắp cải cũng không che giấu được nó.” Jack xoay đầu sang có vẻ hứng thú với mẩu thông tin này. Tôi bèn tặng cho Françoise một cái lừ mắt cảnh cáo.
“Chúng ta đừng có rước thêm rắc rối,” tôi nói trong khi về nhà.
Trở lại Hươu Đực và Vương Miện, tôi tự giải thoát khỏi cái giỏ xách, áo choàng, găng tay và bọn trẻ, rồi mang một cốc rượu vang vào phòng Matthew. anh đang ngồi ở bàn làm việc, cúi người trên tập giấy. Tim tôi nhẹ nhõm trước hình ảnh giờ đã trở nên thật thân quen ấy.
“anh vẫn đang ở đó à?” Tôi hỏi, với qua vai Matthew để đặt cốc vang trước mặt anh. Tôi nhíu mày. Tờ giấy của anh phủ đầy những biểu đồ X’s và O’s, trông giống như các công thức khoa học hiện đại. Tôi nghi ngờ nó có liên quan đến hoạt động tình báo hoặc Đại Hội đồng, trừ phi anh đang phát minh ra một loại mật mã mới. “anh đang làm gì thế?”
“Chỉ đang thử khám phá một vài thứ thôi mà,” Matthew nói, trượt tờ giấy ra xa.
“Thứ gì đó về di truyền học ư?” X’s và O’s gợi cho tôi nhớ đến môn sinh vật và những quả đậu Hà Lan của Gregor Mendel. Tôi kéo tờ giấy lại. Ở đó không chỉ có X’s và O’s trên trang giấy. Tôi nhận ra những chữ cái đầu tên các thành viên trong gia đình Matthew: YC, PC, MC, MW. Những chữ khác thuộc về gia đình tôi: DB, RB, SB, SP. Matthew đã vẽ những mũi tên nối giữa các cá nhân và những đường thẳng chằng chéo nối từ thế hệ này sang thế hệ khác.
“Chẳng có gì nghiêm trọng cả đâu,” Matthew nói, ngắt ngang suy xét của tôi. Đó là một câu “không lời đáp” kinh điển của Matthew.
“Em cho rằng anh cần thiết bị cho cái đó.” Ở dưới cùng trang giấy, một vòng tròn khoanh hai chữ cái: B và C – Bishop và Clairmont – con của chúng tôi. Điều này có liên quan tới đứa bé.
“Để rút ra bất kỳ kết luận nào thì tất nhiên là cần các thiết bị rồi.” Matthew nhấc cốc rượu và đưa nó lên môi.
“Vậy giả thuyết của anh là gì?” Tôi hỏi. “Nếu nó liên quan đến con, em muốn biết đó là gì.”
Matthew bỗng cứng người lại, hai cánh mũi phập phồng. anh cẩn thận đặt cốc rượu lên bàn và cầm lấy tay tôi, đặt môi anh lên cổ tay tôi trong một cử chỉ có vẻ như của tình yêu thương đắm đuối. Mắt anh đen thẫm lại.
“Em đã gặp Hubbard,” anh nói vẻ kết tội.
“không, bởi vì em đã tìm thấy hắn.” Tôi kéo người ra. Đó là một sai lầm.
“Đừng thế chứ,” Matthew rít giọng, các ngón tay siết chặt lại. anh hít vào một hơi run run. “Hubbard đã chạm vào em ở chỗ cổ tay. Chỉ cổ tay này thôi. Em có biết tại sao không?”
“Bởi vì hắn đang cố lôi kéo sự chú ý của em,” tôi nói.
“không. hắn ta đang cố giành lấy thứ là của anh. Mạch của em ở đây,” Matthew nói, ngón tay cái lướt lên mạch máu. Tôi run rẩy. “Dòng máu này ở gần bề mặt da đến mức anh có thể nhìn thấy cũng như ngửi thấy mùi của nó. Nhiệt lượng của nó khuếch đại bất cứ mùi hương xa lạ nào đặt ở đó.” Các ngón tay anh khoanh tròn quanh cổ tay tôi giống một chiếc vòng tay. “Françoise đã ở đâu?”
“Trong chợ Leadenhall. Em có Jack và Annie đi cùng. Có một người ăn xin ở đó, và…” Tôi cảm thấy một thoáng đau nhói rất nhanh. Khi tôi nhìn xuống, cổ tay tôi đã bị xé rách và máu phun ra từ một loạt những vết khía nông cong cong. Dấu răng.
“Đó là cách mà Hubbard có thể nhanh chóng lấy máu của em và biết được mọi điều về em.” Ngón tay cái của Matthew ấn mạnh vào vết thương.
“Nhưng em không thấy anh chuyển động,” tôi điếng người thốt ra.
Đôi mắt đen thẫm của anh lóe lên. “Em cũng sẽ không nhìn thấy Hubbard, nếu hắn ta muốn tấn công.”
Có lẽ Matthew không cần phải quá mức bảo vệ tôi như thế.
“Đừng để cho hắn đến gần đủ để chạm vào em lần nữa. Chúng ta đã rõ ràng chưa?”
Tôi gật đầu, và Matthew bắt đầu từ từ kiểm soát cơn giận dữ của anh. Chỉ khi đã kiểm soát được nó rồi anh mới trả lời câu hỏi ban đầu của tôi.
“anh đang cố gắng xác định khả năng di truyền chứng cuồng máu của anh sang cho con chúng mình,” anh nói, một thoáng cay đắng lộ ra trong giọng nói. “Benjamin có tai họa khốn khổ đó. Marcus thì không. anh ghét cái thực tế là anh có thể nguyền rủa một đứa trẻ vô tội bằng chứng bệnh ấy.”
“anh có biết tại sao Marcus và em trai Louis của anh có sức đề kháng đó, trong khi anh, Louisa và Benjamin thì không không?” Tôi thận trọng tránh ám chỉ rằng chuyện này xảy đến với tất cả các con của anh. Matthew sẽ kể với tôi thêm khi – nếu – anh có thể.
Hai vai anh mất đi đường nét sắc cạnh của chúng. “Louisa đã chết từ lâu trước khi có thể tiến hành các xét nghiệm thích đáng. anh không có đủ dữ liệu để rút ra bất cứ kết luận đáng tin cậy nào.”
“Dù vậy, anh đã có một giả thuyết,” tôi nói, nghĩ đến các biểu đồ của anh.
“anh luôn nghĩ chứng cuồng máu như một bệnh truyền nhiễm và tin rằng Marcus và Louis có khả năng đề kháng tự nhiên với nó. Nhưng khi Goody Alsop nói cho chúng mình biết chỉ thợ dệt mới có thể mang thai đứa con của wearh, điều đó khiến anh băn khoăn, liệu có phải anh đang nhìn vấn đề này một cách sai lầm không. Có lẽ không phải thứ gì đó trong Marcus kháng cự lại, mà chính là thứ gì đó trong anh đã tiếp thụ nó, giống như một thợ dệt tiếp thụ hạt giống của wearh, không giống bất kỳ phụ nữ loài máu nóng nào khác.”
“Di truyền bẩm sinh ư?” Tôi hỏi, cố gắng bám lấy lý lẽ của anh.
“Có lẽ thế. Thứ gì đó mang gen lặn hiếm bộc lộ ra khi cả bố và mẹ đều mang gen ấy. anh vẫn nghĩ mãi về người bạn Catherine Streeter của em và miêu tả của em về bà ta như là kẻ được ‘ban phước gấp ba lần’, như thể hệ gen của bà ta bằng cách nào đó lớn hơn tổng cộng các phần của nó hợp lại.” Matthew mau chóng chìm đắm vào câu đố trí tuệ phức tạp của chính mình. “Rồi sau đó anh bắt đầu tự hỏi, liệu việc em là một thợ dệt có tình cờ lý giải cho năng lực thụ thai của em không. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu nó là sự kết hợp của những đặc điểm gen lặn – không chỉ của em mà còn cả của anh nữa?” Tôi nhận thấy anh lùa hai bàn tay vào mái tóc trong dáng vẻ bối rối, mất phương hướng, dấu hiệu cho thấy cơn cuồng máu cuối cùng đã qua đi, tôi lặng lẽ thở dài nhẹ nhõm.
“Khi chúng mình quay trở về phòng thí nghiệm của anh, anh sẽ có thể kiểm tra giả thuyết này.” Tôi hạ giọng. “Và khi dì Sarah cùng cô Em nghe tin họ sắp trở thành bà dì, anh sẽ không gặp khó khăn gì khi nhờ họ cho anh mẫu máu – hoặc nhờ trông em bé hộ đâu. Cả hai bọn họ đều ở trong tình trạng ham muốn làm bà đến khốn khổ và vẫn luôn mượn bọn trẻ hàng xóm từ nhiều năm nay để thỏa mãn cơn thèm.”
Cuối cùng chuyện đó cũng gợi lên được một nụ cười.
“Ham muốn làm bà ư? thật là một sự biểu lộ thô lỗ.” Matthew lại gần tôi. “Ysabeau có khả năng cũng phát triển ham muốn kinh khủng đó từ hàng thế kỷ rồi ấy chứ.”
“Chả dám nghĩ đến nữa cơ,” tôi nhún vai châm chọc đáp.
Vào những lúc như thế này – khi chúng tôi nói chuyện về phản ứng của người khác trước tin tức mang thai của mình hơn là phân tích chính những phản ứng của chúng tôi với chuyện đó – tôi thật sự cảm thấy mình đang có thai. Cơ thể này vừa mới ghi nhận việc mang một mầm sống mới. Ngày nối ngày liên tiếp bận rộn ở Hươu Đực và Vương Miện đã khiến chúng tôi dễ dàng quên mất rằng chẳng mấy chốc chúng tôi sẽ được làm cha mẹ. Tôi có thể đi lại khắp nơi nhiều ngày mà không nghĩ gì về tình trạng cơ thể mình cả và chỉ nhớ đến khi trong đêm tối, Matthew đặt hai bàn tay lên bụng tôi lặng lẽ lắng nghe những dấu hiệu của sự sống mới này.
“anh không thể chịu nổi khi nghĩ đến em trong hoàn cảnh nguy hiểm.” Matthew kéo tôi vào vòng tay anh. “Hãy cẩn thận, ma lionne,” anh thì thầm trên tóc tôi.
“Em sẽ cẩn thận. Em hứa đấy.”
“Em sẽ không nhận ra nguy hiểm nếu nó đến với em cùng một lời mời thân thiện.” anh kéo người ra xa để có thể nhìn sâu vào mắt tôi. “Chỉ cần nhớ: Ma cà rồng không giống loài máu nóng. Đừng đánh giá thấp cách bọn anh có thể gây chết người như thế nào.”
***
Lời cảnh cáo của Matthew vang vọng và kéo dài thật lâu sau khi anh thốt ra. Tôi nhận ra mình quan sát các ma cà rồng khác trong nhà để tìm những dấu hiệu nhỏ cho thấy họ đang nghĩ đến chuyện di chuyển, hay họ đang đói hoặc mệt mỏi, bồn chồn hoặc chán nản. Các dấu hiệu thật khó thấy và rất dễ bỏ lỡ. Khi Annie đi ngang qua Gallowglass, hai mí mắt anh chàng hạ xuống, che lấp biểu lộ thèm thuồng, nhưng nó kết thúc nhanh đến nỗi, tôi đã nghĩ mình tưởng tượng ra nó, cũng như có thể tôi đã tưởng tượng ra cánh mũi phập phồng của Hancock khi một nhóm sinh vật máu nóng đi qua dưới phố.
Tuy nhiên, tôi không tưởng tượng ra những khoản chi phí giặt là cho việc làm sạch máu trên quần áo của họ. Gallowglass và Hancock đang săn bắt và kiếm ăn trong thành phố, mặc dù Matthew không tham gia cùng họ. anh tự giới hạn bản thân trong những thứ Françoise có thể kiếm về được từ chỗ những người bán thịt.
Chiều thứ hai, khi Annie và tôi tới chỗ Mary theo thông lệ, tôi cảnh giác với mọi chuyện xung quanh hơn hẳn hồi mới đến đây. Lần này, tôi không còn thưởng thức miệt mài những chi tiết của cuộc sống ở thời Elizabeth nữa, mà phán đoán chắc chắn xem chúng tôi có đang bị theo dõi hay đeo bám không. Tôi giữ Annie an toàn trong tầm tay, còn Pierre giữ chặt Jack. Chúng tôi rút ra được bài học khó khăn đó, rằng đây là hy vọng duy nhất để có thể giữ thằng bé khỏi “tắt mắt”, như cách Hancock gọi. Bất chấp những nỗ lực của chúng tôi, Jack vẫn xoay sở để phạm vào một cơ số những hành động trộm cắp vặt. Matthew đã lập ra một gia quy mới nhằm cố gắng áp chế nó. Jack phải dốc sạch túi quần áo mỗi tối và thú nhận làm cách nào nó tình cờ có được những món đồ sáng bóng khác thường đó. Thế nhưng việc ấy chẳng làm chùn bước các hoạt động của thằng nhỏ.
Cứ nhìn vào những ngón tay nhẹ bẫng của thằng bé thì Jack quả là không đáng tin khi ở trong ngôi nhà đầy đủ tiện nghi của Nữ Bá tước Pembroke. Annie và tôi đành tách khỏi Pierre và Jack, vẻ mặt cô bé sáng rỡ lên trước viễn cảnh được tán chuyện dài dài với cô hầu gái của Mary - Joan cùng vài giờ tự do thoát khỏi sự đeo bám không mong muốn của Jack.
“Diana!” Mary hét lên khi tôi bước qua ngưỡng cửa phòng thí nghiệm của cô. Bất kể tôi bước vào đó bao nhiêu lần, nơi này chưa bao giờ thôi khiến tôi kinh ngạc tới nghẹt thở cả, với những bức tranh rực rỡ trên tường, minh họa cách làm đá tạo vàng. “Đến đây nào, tôi có thứ này cho cô xem.”
“Cái này là sự ngạc nhiên của cô ư?” Mary cho rằng, cô ấy sẽ làm tôi vui sướng với một màn trình diễn thành thạo về thuật giả kim.
“Đúng thế,” Mary đáp và kéo cuốn sổ ghi chép trên bàn. “Nhìn này, giờ là ngày 18 tháng một, và tôi bắt đầu công việc vào ngày 9 tháng Mười Hai. Nó mất đúng bốn mươi ngày – y như các nhà hiền triết đã hứa hẹn.”
Bốn mươi là một con số quan trọng trong thuật giả kim và Mary hẳn đã thực hiện rất nhiều lần thí nghiệm này. Tôi nhìn lướt qua các ghi chép thí nghiệm của cô và cố gắng tìm hiểu xem cô ấy đang làm gì. Hai tuần qua, tôi đã học lỏm được cách viết tốc ký cùng các biểu tượng mà cô ấy dùng cho vô số các kim loại và vật chất. Nếu tôi hiểu đúng thì cô ấy bắt đầu quá trình này với một ounce bạc hòa tan trong cường thủy – thứ “nước mạnh” của các nhà giả kim thuật, được biết đến trong thời đại của tôi dưới cái tên axit nitric. Mary cho thêm nước cất vào thứ này.
“Có phải đây là cách cô đánh dấu thủy ngân không?” Tôi hỏi, chỉ vào một nét khắc lạ.
“Đúng thế – nhưng chỉ thủy ngân tôi lấy được từ nguồn tốt nhất ở Đức thôi.” Mary chi tiền không tiếc tay khi nó liên quan đến phòng thí nghiệm của cô ấy, các chất hóa học hoặc dụng cụ thí nghiệm. cô ấy kéo tôi tới trước một ví dụ khác mà cô ấy đã yêu cầu chất lượng với bất cứ giá nào: một chiếc bình cổ hẹp lớn bằng thủy tinh. Nó trong như pha lê và không có một điểm nào không hoàn hảo. Điều đó có nghĩa là nó đến từ Venice. Thủy tinh làm ở vùng Sussex của nước anh thường bị hỏng bởi những bọt tăm nhỏ và các vết đen mờ. Nữ bá tước Pembroke thích đồ của Venice hơn – và bà có thể trang trải cho nó.
Khi nhìn thấy thứ ở bên trong, tôi có cảm giác rùng mình kinh ngạc.
một cái cây bạc phát triển từ một hạt giống nhỏ dưới đáy chiếc bình. Các nhánh mọc ra từ thân cây, đâm chĩa ra tứ phía lấp đầy phần trên bình bằng những sợi bạc lấp lánh. Các hạt nhỏ li ti ở đầu các nhánh cây khiến ta liên tưởng tới quả của nó, như thể cái cây này đã kết trái chín và sẵn sàng cho vụ thu hoạch.
“Cây Dianæ,” Mary tự hào nói. “Dường như Chúa đã tạo cảm hứng cho tôi làm ra nó để chào mừng cô. Tôi đã cố thử trồng cái cây này trước đây, nhưng nó chưa bao giờ bén rễ cả. không ai nhìn thấy một thứ như thế này mà lại có thể nghi ngờ về tính chân thật và sức mạnh của thuật giả kim.”
Cây của Diana là sự vật có thể nhìn thấy được. Nó tỏa ánh lấp lánh và lớn lên ngay trước mắt tôi, trổ ra những chồi non mới lấp đầy khoảng không gian còn lại trong chiếc bình. Nó chẳng là gì hơn một hỗn hợp bạc kết tinh hình cây, một mớ kim loại chuyển thành thứ trông giống một quá trình phát triển thực vật. Điều đó đã làm giảm đi đôi chút băn khoăn của tôi.
Ở bức tường đối diện có hình con rồng ngồi trên một cái bình – tương tự với cái bình mà Mary đã dùng để làm nhà cho cây Dianæ. Con rồng ngậm cái đuôi và những giọt máu của nó rơi vào thứ chất lỏng màu bạc bên dưới. Tôi nhìn hình ảnh kế tiếp trong loạt tranh này: chú chim của thần Hermes - nó bay về phía hôn lễ hóa học. Chú chim gợi tôi nhớ tới hình ảnh minh họa của đám cưới trong cuốn Ashmole 782.
“Tôi nghĩ có thể phát minh ra một phương pháp mới, nhanh chóng hơn, để đạt được cùng một kết quả như thế,” Mary nói, kéo lại sự chú ý của tôi. cô ấy rút cây bút lông từ trên búi tóc, để lại một vết bẩn ở vành tai. “cô nghĩ hình ảnh gì sẽ hiện ra, nếu chúng ta làm đầy bạc trước khi hòa tan nó vào cường thủy?”
Chúng tôi dành một buổi chiều để bàn luận thoải mái về các phương pháp mới tạo ra cây Dianæ, nhưng nó trôi qua quá nhanh.
“Tôi sẽ gặp cô vào thứ Năm nhé?” Mary hỏi.
“Tôi e là đã có một cái hẹn khác rồi,” tôi nói. Goody Alsop mong tôi sẽ có mặt ở chỗ bà ấy trước khi mặt trời lặn.
Gương mặt Mary xịu xuống. “Vậy thứ Sáu?”
“Thứ Sáu nhé,” Tôi đồng ý.
“Diana à,” Mary ngập ngừng gọi, “cô khỏe chứ?”
“Khỏe mà,” tôi ngạc nhiên đáp. “Tôi có vẻ ốm à?”
“Trông cô xanh xao và mệt mỏi đấy,” Mary thừa nhận. “Giống như hầu hết các bà mẹ, tôi thiên về… Ôi.” Mary đột ngột ngừng lại và khuôn mặt chuyển sang ửng hồng rạng rỡ. Ánh mắt cô hạ xuống bụng tôi, rồi lại bay trở lại khuôn mặt tôi. “cô đang có em bé.”
“Tôi sẽ có rất nhiều câu hỏi dành cho cô vào vài tuần tới đấy,” tôi nói, cầm lấy tay Mary và siết chặt lấy.
“cô có bao lâu rồi?” Mary hỏi.
“Chưa lâu lắm,” tôi đáp, thận trọng giữ cho câu trả lời của mình mập mờ một chút.
“Nhưng đứa bé không thể là của Matthew. Wearh không thể làm cha một đứa trẻ.” Mary nói và đưa tay lên chống bên má vẻ băn khoăn. “Matthew chào đón đứa bé này, cho dù nó không phải của anh ấy chứ?”
Mặc dù Matthew đã cảnh báo trước cho tôi rằng, mọi người sẽ mặc định đứa bé thuộc về một người đàn ông khác, nhưng chúng tôi vẫn chưa bàn cách trả lời như thế nào. Tôi đành phải vụng chèo khéo chống thôi.
“anh ấy coi nó như máu mủ của chính mình,” tôi nói một cách chắc chắn. Câu trả lời của tôi dường như chỉ làm tăng thêm mối bận tâm của cô ấy.
“cô thật may mắn vì Matthew quá vị tha mỗi khi chuyện liên quan đến việc bảo vệ những người cần được che chở. Và cô – cô có thể yêu thương đứa bé dù nó đến trái ngược với mong muốn của cô không?”
Mary nghĩ tôi bị cưỡng bức – và có lẽ Matthew đã cưới tôi chỉ để che chở cho tôi khỏi nỗi sỉ nhục, khi mang thai mà còn độc thân.
“Đứa bé vô tội. Tôi không thể từ chối yêu thương nó.” Tôi cẩn thận vừa không phủ nhận cũng không khẳng định những nghi ngờ của Mary. May mắn thay, cô ấy thỏa mãn với câu trả lời của tôi và theo đúng tính cách, không thăm dò xa hơn nữa. “Như cô có thể hình dung đấy,” tôi nói thêm, “chúng tôi thiết tha muốn giữ kín tin này càng lâu càng tốt.”
“Dĩ nhiên rồi,” Mary đồng ý. “Tôi sẽ bảo Joan làm cho cô một chiếc bánh trứng mềm, nó tốt cho máu nhưng cũng rất êm ái đối với dạ dày, nếu ăn vào ban đêm trước khi đi ngủ. Nó đã giúp tôi rất nhiều trong lần mang thai cuối và dường như làm giảm những cơn ốm nghén của tôi vào buổi sáng.”
“Tôi thật may phước vì chưa bị thế,” tôi nói trong lúc đeo găng tay. “Matthew đã báo trước với tôi là tình trạng ấy sẽ xuất hiện bất cứ khi nào.”
“Hừm,” Mary trầm ngâm. Mặt cô thoáng tối lại. Tôi cau mày tự hỏi, giờ điều gì đang làm cô ấy lo lắng. Nhưng cô ấy đã thấy vẻ mặt tôi và mỉm cười rạng rỡ. “cô nên tránh mệt mỏi. Khi cô đến đây vào thứ Sáu, cô không được phép đứng quá lâu mà hãy ngồi thoải mái trên một chiếc ghế đẩu, trong khi chúng ta làm việc.” Mary săm soi chiếc áo choàng không tay của tôi. “Hãy tránh không khí ẩm lạnh. Và bảo Françoise đắp thuốc cho hai bàn chân cô nếu chúng bắt đầu phù lên. Tôi sẽ gửi công thức làm món bánh trứng và cho một người lái thuyền đưa cô về Hẻm Water nhé?”
“Chỉ mất có năm phút đi bộ thôi mà!” Tôi bật cười phản đối. Cuối cùng Mary cũng để tôi đi bộ về, nhưng chỉ sau khi tôi cam đoan với cô ấy là sẽ tránh không chỉ không khí ẩm ướt lạnh lẽo, mà còn cả nước lạnh và những tiếng ồn lớn nữa.
Tối đó, tôi mơ thấy mình ngủ dưới thân một cái cây mọc lên từ tử cung của tôi. Những cành cây che chắn cho tôi khỏi ánh trăng, trong khi tít trên cao một con rồng bay xuyên qua màn đêm. Khi tới mặt trăng, đuôi con rồng cuộn tròn, cuốn quanh vầng trăng và thiên thể bàng bạc ấy biến thành màu đỏ.
Tôi tỉnh giấc trên chiếc giường trống trải và tấm chăn đẫm máu.
“Françoise!” Tôi hét lên, cảm thấy một cơn co thắt đột ngột.
Matthew lao đến thay vì Françoise. Khi đến bên cạnh tôi, cái nhìn kinh hoàng và mất mát trên gương mặt anh càng khẳng định nỗi sợ hãi trong lòng tôi.