Hạ Thiên Tường thấy cửa động trên vách đá tầng thứ ba nhỏ hẹp như thế, mà Nhất Bát thần tăng tay vẫn cầm chiếc ngọc bát nghiễm nhiên chui vào, không tỏ vẻ gì là khó khăn cả, bất giác kinh sợ nghĩ thầm: “Mình tuy được danh sư truyền dạy, công lực hỏa hậu còn kém xa, nếu muốn ganh đua với những tay cao thủ xuất kỳ, tất còn phải dụng công khắc khổ mất nhiều năm nữa”.
Trong bụng đang kinh sợ hồi hồi, lại thấy Nhất Bát thần tăng lẳng lặng chú ý nhìn hai vị Chưởng môn ngồi đối tọa trên đống xương trắng, tựa hồ đành bó tay, không còn phương sách gì nữa, thì ghé sát lại gần hỏi :
- Sao đại sư không vận dụng thần công Sư Tử Hống, hoặc Thiên Long Thiền Xướng của Phật môn thử xem họ có tỉnh lại không?
Thần tăng nghe chàng nói có lý, bèn ngưng tụ thần công, mới đầu dùng một giọng rất ôn hòa có thể mở mang được linh trí của con người là môn Thiên Long Thiền Xướng, vừa cười vừa gọi :
- Băng Tâm thần ni và Thiết Quán đạo trưởng, sao hai vị lại cùng vào Chung Nam tử cốc chơi thế này? Hứng thú tao nhã thật!
Hai vị Chưởng môn nghe tiếng đều giật mình. Thiết Quán đạo trưởng hơi có vẻ kinh sợ, còn Băng Tâm thần ni mắt hơi mấp máy nhưng hình như không còn đủ sức để mở to, toàn thân lại càng run mạnh.
Lúc này người nằm phục trong bóng tối ban nãy đã theo một con đường bí mật chuồn đi mất hút.
Nhất Bát thần tăng thấy dùng Thiên Long Thiền Xướng không có hiệu quả gì, bèn lại đề khí vận dụng thần công Sư Tử Hống của Phật gia, gọi to :
- Hai vị đạo hữu sao cứ ngồi như người ngủ mê vậy? Bần tăng Nhất Bát ở đây!
Tiếng nói vang như sấm dậy, làm cho cả cái hang Tử cốc và trong tòa cổ động đều nổi lên những tiếng oang oang hàng giờ không ngớt.
Lần này Băng Tâm thần ni mới gượng thốt ra được mấy tiếng, giọng thều thào yếu ớt như sợi tơ, lúc đứt lúc nối :
- Phía... phía ngoài... ngoài Tử cốc có... có người ám toán... toán chúng tôi... Tôi và Thiết Quán... đạo trưởng... giao... giao thủ chưa... chưa bao lâu thì... thì đều bị trúng... trúng... kịch độc.
Nhất Bát thần tăng nghe tiếng, bất giác kinh sợ thở dài một tiếng. Hạ Thiên Tường lúc này không còn cố kỵ gì nữa, bèn đánh lửa lên soi khắp hình thể trong động, đoạn nói với Nhất Bát thần tăng :
- Đại sư có muốn phá bức vách thứ tư này ra không? Để tôi cho nó một trái Càn Thiên Tích Lịch!
Thần tăng lắc đầu cười gượng :
- Trái Càn Thiên Tích Lịch của sư phụ ngươi tuy đủ sức phá núi san rừng, nhưng nếu đem thi triển ở đây thì không những Băng Tâm thần ni và Thiết Quán đạo trưởng tan thành cám, mà cả đến ta và ngươi cũng đều phải vùi thây trong động này mất.
Nói đến đây sắc mặt chợt nghiêm trang, đôi mắt long lanh như tóe ra lửa, chăm chú nhìn Hạ Thiên Tường, tay giơ cao chiếc bát ngọc, nói một cách trịnh trọng thong thả :
- Bần tăng từ khi vào chốn cửa không, lấy chữ Nhất Bát làm đạo hiệu đến nay, tay chưa rời xa chiếc bát này. Nhưng hôm nay vì muốn cứu hai vị Chưởng môn bị người ám toán đang hấp hối, không thể không phá lệ cũ, phiền Hạ thí chủ giữ hộ chiếc bát này, đứng ngoài cửa động chờ bần tăng gọi. Cần nhất là đừng để cây cỏ trồng trong bát này chạm phải bất cứ vật gì thuộc loại kim khí.
Hạ Thiên Tường thấy Thần tăng dặn dò trịnh trọng như vậy, bèn cung kính đỡ lấy chiếc bát ngọc, đặt lên lòng bàn tay, mắt đăm đắm nhìn Nhất Bát thần tăng đang thi triển môn thượng thừa Súc Cốt thần công chui qua một cửa động rất nhỏ trên vách đá, từ từ bò vào Tử cốc.
Nhất Bát thần tăng vào đến nơi, trước hết hãy hướng vào đống xương chất cao bằng núi, chắp tay đặt lên ngang mày, miệng niệm một câu “A di đà Phật”.
Lúc này Thiết Quán đạo trưởng và Băng Tâm thần ni, hai vị Chưởng môn công lực thâm hậu, đã không sao ngồi vững được nữa, đều lần lượt nằm ngả mình trên đống xương trắng, trông chừng nhiều lắm chỉ còn cầm cự được chốc lát nữa là cùng.
Nhất Bát thần tăng lại niệm một câu “A di đà Phật” rồi giơ ngón tay cái và ngón tay giữa ở bàn tay phải lên, dùng môn tuyệt đỉnh thần công Đàn Chỉ Sinh Hoa của Phật môn, lăng không búng luôn mấy cái, tạm thời cắt đứt huyết mạch trên khắp thân thể hai người.
Xong đâu đấy mới vội nhảy về phía cuối động gọi Hạ Thiên Tường :
- Hạ tiểu thí chủ hái ngay một lá trên ngọn cây Cửu Diệp Dị Thảo trồng trong cái bát ấy đem vào đây cho bần tăng, nhanh lên!
Hạ Thiên Tường làm theo lời Thần tăng, chỉ thấy sau khi cấu chiếc lá, chỗ cuống lá chảy ra chừng nửa giọt nước trắng như sữa, lập tức một mùi thơm kỳ dị thoang thoảng bay ra, khiến người ngửi thấy tự nhiên cảm thấy tinh thần sảng khoái dễ chịu.
Hạ Thiên Tường chợt nhớ mệnh lệnh của Mai Khôi sứ giả, chàng thầm đoán có lẽ thứ nước này chính là nước Thiên Niên Chi Dịch mà người ta gọi là thánh dược của võ lâm chăng?
Nhất Bát thần tăng đón được chiếc lá do Hạ Thiên Tường lăng không ném tới xong, liền lập tức xé làm hai bỏ vào miệng cho Băng Tâm thần ni và Thiết Quán đạo trưởng mỗi người một mảnh, đoạn hai tay xoa đi xoa lại trên chỗ không, cách thân thể hai người chừng một tấc. Xem chừng ông ta phải dùng sức quá độ, nên trên chiếc đầu trọc đã thấy bóng loáng những mồ hôi.
Hạ Thiên Tường trông thấy rõ ràng, biết rằng Nhất Bát thần tăng vì cớ nam nữ hữu biệt, đành phải hao phí chân lực, cách không xoan nắn cho miếng lá có công hiệu nhanh chóng.
Nhưng Nhất Bát thần tăng là bạn thân của Băng Tâm thần ni, lúc này đối với Thiết Quán đạo trưởng là một kẻ thù bất cộng đái thiên của Thần ni, ông cũng ra tay, cứu chữa cùng một lúc, không phân sau cách trước, phân biệt khinh trọng, đủ thấy tấm lòng nhân từ bác ái với cách xử sự công bằng của đệ tử nhà Phật thật đáng khiến cho Hạ Thiên Tường phải khâm phục.
Chỉ trong khoảnh khắc, Nhất Bát thần tăng mới thở ra một hơi dài, mỉm cười dừng tay lại, Hạ Thiên Tường biết rằng đại công đã cáo thành. Hai vị Chưởng môn đã được giải độc, sắp sửa hồi tỉnh.
Quả nhiên, chỉ một lát sau, Băng Tâm thần ni và Thiết Quán đạo trưởng, đều vùng ngồi dậy, vẻ mặt hai người vẫn còn đằng đằng sát khí. Trong tay mỗi người còn cầm một cây Tử Hắc độc thích dài chừng hơn một tấc, hình thức giống nhau như in.
Thiết Quán đạo trưởng cầm cây độc châm giở đi giở lại ngắm nghía một lát, rồi giắt kỹ vào trong bọc, đoạn hướng vào Nhất Bát thần tăng gật đầu thi lễ, tạ ơn cứu mạng xong đâu đấy mới nói với Băng Tâm thần ni :
- Cuộc họp của chúng ta hôm nay đã bị kẻ gian ám toán, tự nhiên không thể tiến hành được nữa. Nhưng bần đạo muốn bàn với đại sư một điều là ta có thể dời hạn kỳ quyết chiến của hai phái Điểm Thương, La Phù vào ngày lập hạ sang năm, cho lui lại ít lâu được không?
Băng Tâm thần ni lạnh lùng cười nói :
- Kỳ hạn đã định rồi, còn hoãn làm gì?
Thiết Quán đạo trưởng đôi mắt sáng quắc, cười ha hả nói :
- Đại sư đừng hiểu lầm ý tôi, Điểm Thương tam kiếm và các đệ tử trong phái, đâu phải là những người nhát sợ. Sở dĩ tôi muốn hoãn cuộc hẹn lại, là vì muốn có thì giờ điều tra cái lũ chuột vô sỉ dùng độc châm ám toán bọn ta, để trừng trị cho chúng trước đã, sau đó sẽ hẹn lại ngày quyết đấu cho hai phái, cũng không muộn.
Hạ Thiên Tường nghe tới đó, lại chợt nhớ đến việc Tam tử trong Võ Đang thất tử cũng bị trúng độc, nhưng không biết có phải Tử Hắc độc châm ấy không? Chỉ tiếc vì chàng đứng xa quá, nên không trông thấy rõ hình thù hai cái độc trâm trong tay hai vị Chưởng môn thế nào.
Lúc này lại nghe tiếng Băng Tâm thần ni nói :
- Đạo trưởng nói vậy tôi cũng đồng ý. Chúng ta sẽ cùng tìm cách điều tra cho ra tung tích của tên ác tặc đó. Sau khi xong việc, sẽ hẹn ngày khác cũng được.
Đạo trưởng nói :
- Thôi cứ quyết định như vậy! Tôi còn sốt ruột muốn tìm ngay tung tích tên ám toán đó là ai. Vậy xin cáo từ trước!
Nói xong lại hướng vào Nhất Bát thần tăng rập đầu thi lễ lần nữa. Đoạn lập tức thi triển Súc Cốt thần công, chui ra ngoài động. Hạ Thiên Tường đã toan lánh mặt nhưng không biết nghĩ thế nào, lại cứ cầm chiếc bát đứng im một chỗ.
Thiết Quán đạo trưởng vừa chui qua bức vách đá, chợt trông thấy Hạ Thiên Tường, bất giác sửng sốt, giơ tay lên, hình như muốn ngưng tụ công lực định phóng chưởng ra. Hạ Thiên Tường chỉ nhìn vị Chưởng môn tủm tỉm cười, giơ cao chiếc bát ngọc lên.
Thiết Quán đạo trưởng trông thấy chiếc bát, mới biết Hạ Thiên Tường là người của Nhất Bát thần tăng, bèn lẳng lặng nhún mình nhảy qua tầng vách thứ ba.
Lúc này, trong Chung Nam tử cốc, Băng Tâm thần ni và Nhất Bát thần tăng, bốn mắt nhìn nhau, không ai lên tiếng. Hạ Thiên Tường thấy thế lấy làm kinh dị, cùng nín thở đứng xem, không dám kinh động.
Hai vị kỳ nhân đứng trước đống xương trắng trong Tử cốc lẳng lặng giây lát, chợt nghe Băng Tâm thần ni thở dài một tiếng, rồi hỏi :
- Thần tăng sao không ở bên Đông Hải tĩnh tu tham thiền, tự nhiên mò sang Chung Nam, can thiệp vào việc của người khác làm gì?
Nhất Bát thần tăng mỉm cười nói :
- Nếu tôi không quản xa xôi ngàn dặm tới đây, lại may mắn găp được anh bạn nhỏ, đồ đệ của Hoàng Phủ Thúy, tình cờ nhìn thấy tình cảnh trong cốc thì cả đạo hữu lẫn Thiết Quán đạo trưởng cùng đồng qui ư tận cả rồi!
Băng Tâm thần ni nhướng cao đôi mày nói :
- Nếu tôi và Thiết Quán đạo trưởng cùng chết trong Tử cốc này, thì may ra hai phái La Phù và Điểm Thương từ nay sẽ hết thù oán.
Nhất Bát thần tăng lắc đầu cười ha hả :
- Đạo hữu nghĩ thế thì lầm quá! Nếu chẳng may hôm nay cả hai Chưởng môn phái La Phù và Điểm Thương cùng chết trong Tử cốc, mà lại là chết vì ám toán, thì trong giới võ lâm tất phải sóng gió ngập trời, họa kiếp tai ương không biết đâu mà lường được! Há chẳng đúng câu “Ta xuống Địa ngục thì chúng sinh cũng xuống Địa ngục” ư?
Băng Tâm thần ni thấy Nhất Bát thần tăng biện bác một hồi, không còn câu gì đáp lại, bèn thốt nhiên đề khí tung mình, chui vào cửa động trên vách đá.
Nhất Bát thần tăng vừa cười vừa gọi to :
- Lâu lắm mới gặp, đạo hữu đi đâu vội thế?
Băng Tâm thần ni vừa vận dụng Súc Cốt thần công bò qua cửa động vừa nói :
- Ngươi đang ngồi tọa quan ở Đông Hải bao nhiêu lâu thiền công mới đại tiến, đừng nên để bận lòng trần. Để tôi kiểm tra nguyên do mũi tên độc ở đâu ra, và hội chiến với phái Điểm Thương xong sẽ mời ngươi đến Hương Tuyết Hải núi La Phù, vui chơi mươi ngày.
Nói hết câu cuối cùng, người đã chui ra khỏi động nhưng khi vừa trông thấy Hạ Thiên Tường tay bưng chiếc bát ngọc đỏ đứng đấy, thì sắc mặt hơi ửng đỏ, rồi không hề dừng bước, ống tay áo rộng phấp phới, thoắt cái đã chui qua bức vách thứ ba.
Hạ Thiên Tường trong bụng kinh nghĩ thầm: “Vu Sơn Tiên Tử Hoa Như Tuyết say mê Nhất Bát thần tăng như thế mà vị Chưởng môn phái La Phù này hình như đối với Thần tăng cũng rất thân mật, vậy thì Nhất Bát thần tăng không còn vẻ gì là một vị cao nhân trác tuyệt có đạo đức của Phật môn nữa. Ông ta giống như một giống đa tình, đi đến đâu cũng để lại một thiên phong lưu giai thoại”.
Chàng còn đang ngẩn ngơ suy nghĩ, chợt đã nghe tiếng Nhất Bát thần tăng cười nói ở sau lưng :
- Hạ tiểu thí chủ nghĩ ngợi gì thế? Ngươi tuy tài nghệ đã được chân truyền của danh gia, võ công cũng đủ hỏa hầu. Nhưng còn những cái diệu kế của Phật môn, không phải những người trẻ tuổi ít kinh nghiệm như ngươi có thể lĩnh hội thẩm thấu được.
Hạ Thiên Tường đỏ bừng mặt, đưa chiếc bát ngọc đỏ cho Nhất Bát thần tăng, rồi cả hai song song chui ra khỏi động. Khi chưa hết ba tầng vách đá, ra đến khoảng động tối om, chàng mới mỉm cười hỏi Nhất Bát thần tăng :
- Đại sư vừa rồi đã trông rõ hai cây độc trâm ám toán hai vị Chưởng môn, có phải thân nó có ba góc không?
Thần tăng ngạc nhiên nhìn Hạ Thiên Tường, gật đầu :
- Sao ngươi biết cái trâm ấy có ba góc?
Hạ Thiên Tường nghe Thần tăng nhận là đúng, thì cũng kinh sợ nói :
- Đại sư có biết Tam tử: Địch Trần, Ngộ Trần, Phù Trần trong Võ Đang thất tử đều cùng bị chết vì ba mũi tên độc ấy không?
Nhất Bát thần tăng nghe thấy cũng động dung, bèn bảo Hạ Thiên Tường thuật lại cặn kẽ cho nghe.
Hạ Thiên Tường bèn đem những câu Nhất Phàm đạo nhân nói, thuật lại cho Nhất Bát thần tăng nghe một lượt. Thần tăng lẳng lặng nghe xong, đôi mắt đăm đăm nhìn vào khung cửa động tối om dẫn tới hang Tử cốc.
Lúc này, mấy cái hình hiệu ký của Băng Tâm thần ni và Thiết Quán đạo trưởng vẽ trên vách đều bị hai vị ấy, sau khi ra khỏi động, xóa hết vết tích. Nhất Bát thần tăng sắc mặt trầm trọng, ngẫm nghĩ một lúc rồi cau mày nói :
- Người dùng môn ám khí Tử Hắc độc thích ba góc ám toán liền mấy nhân vật chủ yếu trong ba phái lớn, động cơ thực đáng ngờ! Nhất là câu chuyện hôm nay, lại càng khó hiểu hơn nữa.
Hạ Thiên Tường vội hỏi tại sao, Nhất Bát thần tăng thủng thỉnh nói :
- Bần tăng đến đây sớm lắm, lúc ấy mới vào khoảng đầu canh một đêm qua liền nấp vào chỗ này. Chờ mãi đến sáng hôm nay, hai vị Chưởng môn song song cùng tới, vẽ xong biểu ký là vào ngay Chung Nam tử cốc. Trừ mấy người ra không còn trông thấy ai khác nữa. Vậy người ám toán họ đi đường nào mà vào? Chẳng lẽ lại có người biết trước việc Băng Tâm thần ni và Thiết Quán đạo trưởng hẹn quyết đấu ở đây, đặc biệt hao phí tâm lực đào một con đường bí mật, chờ ám toán xong, ung dung đi ra ư?
Hạ Thiên Tường cũng nhận thấy chuyện thực khả nghi không sao giải thích được. Nhất Bát thần tăng lại cười nói :
- Tiểu thí chủ hành hiệp trong chốn giang hồ, đối với những âm mưu thâm độc và thú vị này, cũng nên chú ý, may ra tình cờ khám phá được trên diện mục và tâm địa cùng mục đích của kẻ ném đá giấu tay này, cũng có thể vì giới võ lâm tiêu trừ được một trường họa kiếp, công đức thật vô lượng! Bần đạo cũng muốn xem có được manh mối gì không?
Nói xong đứng lên toan đi, Hạ Thiên Tường mỉm cười lại nói :
- Đại sư hãy tạm dừng chút, bữa nay may mắn được gặp đại sư ở đây, nếu không tôi cũng phải sang Đông Hải bái yết.
Nhất Bát thần tăng ngạc nhiên hỏi :
- Ta vẫn tưởng ta với thí chủ như nước bèo gặp gỡ do sự tình cờ không ngờ thí chủ lại có ý tìm ta, nhưng xưa nay ta với môn hạ Bắc Minh không có...
Hạ Thiên Tường ngắt lời, cười nói :
- Hạ Thiên Tường này định đến bái yết đại sư là vì có hai việc, nhưng đều không liên can gì đến gia sư cả.
Thần tăng thấy chàng nói vậy liền mỉm cười hỏi :
- Hạ tiểu thí chủ muốn hỏi gì, xin cứ nói thẳng!
Hạ Thiên Tường nhìn chiếc bát ngọc trong tay Thần tăng rồi mỉm cười nói :
- Việc thứ nhất là xin đại sư hai giọt Thiên Niên Chi Dịch.
Nhất Bát thần tăng thấy câu nói của chàng ra ngoài ý liệu, bất giác ngẩn người nhìn chàng, ngẫm nghĩ một lúc rồi nói :
- Cây Thiên Niên Chi Thảo trồng trong bát này, tất cả có chín lá, mỗi lá đều có thể cải tử hồi sinh được, nhất là thứ nước ở trong cây lại càng linh hiệu hơn nữa. Hôm nay vì cứu hai vị Chưởng môn, phải mất đi một lá, còn thì chưa bao giờ dám dùng đến, vì nó là thứ cây rất hiếm có nên ta quí lắm! Nhưng ta với thí chủ hình như cũng có chút tiền duyên nếu quả thí chủ cần dùng, bần tăng xin tặng một giọt. Thứ nước này vô luận bị trọng thương, hay trúng kỳ độc, đều khu trừ được hết.
Hạ Thiên Tường đã biết Thiên Niên Chi Dịch là một thứ thánh dược của võ lâm trên đời hiếm có. Mình với Nhất Bát thần tăng, chẳng qua nước bèo gặp gỡ, chưa kịp giở Mai Khôi lệnh ra, mà ông đã khảng khái tặng ngay một giọt, tấm lòng ưu ái ấy thật khiến cho chàng cảm động vô cùng, bèn mỉm cười cảm ơn rồi nói :
- Hạ Thiên Tường không có tai họa bệnh tật gì, khi nào dám cầu xin thánh dược của đại sư? Sở dĩ tại hạ sang Đông Hải là vì chịu sự ủy thác của một vị lão tiền bối.
Nhất Bát thần tăng mắt chợt lóe lên một tia sáng kỳ lạ, hỏi :
- Người nào mà cậy tuổi già uy hiếp ngươi, bắt ngươi phải lặn lội hàng vạn dặm đường tìm sang Đông Hải? Có lẽ hắn yên chí rằng thế nào ta cũng phải tuân lệnh hắn hay sao?
Hạ Thiên Tường nói :
- Tên họ, lai lịch của lão tiền bối này, tôi không biết gì hết, thậm chí đến cả diện mạo tuổi tác của ông ta thế nào, tôi cũng không biết nốt!
Nhất Bát thần tăng mỉm cười nói :
- Hạ tiểu thí chủ càng nói, càng khó hiểu. Tên họ, tuổi tác, lai lịch của người đó, ngươi đều không biết vậy thì sao hắn lại sai khiến được ngươi?
Hạ Thiên Tường cười gượng :
- Việc này nói ra thật buồn cười. Lúc ấy tôi chỉ cảm thấy vị lão tiền bối này có cái ma lực thần kỳ không thể kháng cự nổi, đủ bắt buộc người ta phải tuân theo mệnh lệnh.
Nhất Bát thần tăng càng nghe lại càng nổi tính tò mò, bèn hỏi :
- Ngươi gặp người ấy ở đâu?
Hạ Thiên Tường đáp :
- Gặp gỡ ở trước mồ Mai Khôi trong Kim Ngọc cốc, dưới Môn Tâm Hắc, sau Hồi Đầu phong ở núi Mân Sơn tỉnh Tứ Xuyên.
Nhất Bát thần tăng chợt buột miệng kêu lên :
- Như thế thì ngươi là sứ giả của Mai Khôi sứ giả rồi!
Hạ Thiên Tường lúc ấy mới lấy cánh hoa Mai Khôi bằng ngọc đỏ tía ra cung kính đưa cho Nhất Bát thần tăng xem đoạn mỉm cười nói :
- Đại sư đoán quả không sai, Hạ Thiên Tường phụng mệnh vị sứ giả trông coi phần mộ Mai Khôi cầm cánh Mai Khôi lệnh này làm bằng xin đại sư ban cho hai giọt Thiên Niên Chi Dịch.
Nhất Bát thần tăng dán mắt nhìn vào mặt Hạ Thiên Tường một lúc, trước khi trao trả chàng mảnh Mai Khôi lệnh, nhưng Hạ Thiên Tường đôi mắt rất tinh, đã nhận thấy chất ngọc ở cành hoa màu sắc y hệt như chiếc bát ngọc trong tay Thần tăng.
Hai cái ấy có liên can gì đến nhau? Hay chỉ là sự ngẫu nhiên? Quan niệm đó chỉ thoáng qua óc Hạ Thiên Tường rồi lại lập tức bị tiêu tan ngay.
Nhất Bát thần tăng trao trả Hạ Thiên Tường Mai Khôi lệnh xong, lập tức lấy trong bọc ra chiếc bình ngọc bé xíu, rồi lấy móng tay khẽ vạch vào cây Thiên Niên Chi Thảo hứng lấy hai giọt nước, cho vào chiếc bình ngọc, đậy kỹ lại đoạn trịnh trọng đưa cho Hạ Thiên Tường.
Hạ Thiên Tường cung kính đỡ lấy, cẩn thận cất vào trong bọc. Nhất Bát thần tăng mỉm cười hỏi :
- Hạ thí chủ, vừa rồi ngươi nói muốn tìm ta có hai việc, việc thứ nhất, thế là xong rồi, còn việc thứ hai là việc gì? Việc của ngươi hay cũng là do người khác sai khiến?
Hạ Thiên Tường đáp :
- Lần này đại sư đoán không đúng! Việc này không phải do ai mà cũng chẳng dính dáng gì đến tại hạ, trái lại, chính là việc của đại sư!
Vị không môn quái hiệp quả đã bị Hạ Thiên Tường xô vào đám sương mù, không biết đâu mà lần, ông kinh ngạc hỏi :
- Tại sao việc của ta mà tiểu thí chủ phải sang Đông Hải?
Hạ Thiên Tường gật đầu mỉm cười hỏi lại :
- Nhân vật giang hồ rất trọng chữ tín, nên không dễ dàng hứa hẹn với ai, không biết đệ tử Phật môn có...
Thần tăng không đợi Hạ Thiên Tường nói dứt lời, lập tức niệm một câu: “A di đà Phật” rồi lắc đầu cười nói :
- Đệ tử Phật môn lại càng không bao giờ nói dối, một lời nói là ngàn vàng. Tiểu thí chủ nói câu ấy có lẽ cho là ta bội ước với ai chăng?
Hạ Thiên Tường cũng cười nói :
- Đại sư là một bậc cao tăng, khi nào lại bội tín sai hẹn với ai? Hoặc giả chỉ vì chán ghét nên mới có ý xa lánh, không nhớ lời hẹn nữa chăng?
Nhất Bát thần tăng nói :
- A di đà Phật! Hạ thí chủ nói thế, không khỏi quá phần khinh thường nhà Phật! Đệ tử Tam Bảo ai cũng muốn đem từ bi nguyện lực phổ độ chúng sinh, yêu kẻ thù như ruột thịt, dẫm trên núi dao cũng coi như đi trên bông sen, làm gì có chuyện chán ghét xa lánh ai? Nếu ngươi biết ta tình cờ quên lời hẹn với ai, thì cứ xin nói thẳng cho biết, bần tăng xin lập tức tới phó ước ngay và còn cảm ơn thí chủ vô hạn nữa!
Hạ Thiên Tường thấy Nhất Bát thần tăng đã bị mình bao vây bốn mặt, thì bất giác cười thầm, nghiêm sắc mặt nói :
- Đại sư có lời hẹn năm xưa, từ ngày rằm cho đến ngày mười bảy tháng năm ở Vu Giáp bên dưới chân núi Chiêu Vân phong không?
Nhất Bát thần tăng giật mình, ngẩng mặt trông chừng dường như có nhớ lại câu chuyện năm xưa, miệng khe khẽ nói :
- Vậy ra Hạ tiểu thí chủ có quen Vu Sơn Tiên Tử Hoa Như Tuyết, nghĩa nữ kiêm ái đồ của Trọng Tôn Thánh phải không?
Hạ Thiên Tường lắc đầu nói :
- Hoa Như Tuyết và tôi, tuyệt không có giao tình gì cả, nhưng nếu đại sư không đến phó ước, thì cứ mỗi năm trong khoảng ba ngày từ ngày rằm cho đến ngày mười bảy tháng năm trên sông Vu Giáp, không biết có thêm bao nhiêu oan hồn vô tội.
Nhất Bát thần tăng ngẩn người không hiểu chàng nói thế là ý thế nào. Hạ Thiên Tường bèn đem chuyện gặp gỡ của mình bên Vu Giáp thuật cho Nhất Bát thần tăng nghe.
Thần tăng lẳng lặng nghe xong đặt một tay lên ngực hướng vào Hạ Thiên Tường thi lễ rồi tà áo bào phất phới, thốt nhiên quay mình, nháy mắt đã theo một đám mây đi mất dạng.
Hạ Thiên Tường không biết Thần tăng có sang Vu Giáp phó ước hay không, nhưng nhiệm vụ của mình có hai việc đều đã hoàn thành, nên trong bụng cảm thấy lâng lâng thư thái, bèn cũng sửa soạn rời khỏi Chung Nam, thẳng đường tìm lên Thiên Tâm bình trên núi Thương Sơn, tới chỗ ở của Tái Hàn Khang xem Mai Khôi sứ giả sai khiến việc gì nữa không? Và luôn tiện dò xem Tái Hàn Khang có cho ai mượn con Thanh Phong Ký đi sang Hồ Nam bao giờ không.
Từ lúc nghe Mộ Vô Ưu đoán định vị nữ lang cưỡi con ngựa xanh, đeo kiếm, chỉ trong nháy mắt một mình giết được bọn Kỳ Liên tứ quỷ tất nhiên chỉ là một trong ba vị cô nương là: Hoắc Tú Vân trong Nga Mi tứ tú, Lộc Như Ngọc cao đồ của Tri Phi Tử, Chưởng môn phái Côn Luân và Trọng Tôn Phi Quỳnh con gái yêu của Trọng Tôn Thánh. Lại mách chàng một kế tìm ngựa trước tìm người sau chàng bèn quyết định cứ chiếu theo kế hoạch mà làm. Nếu tìm trong số hai con ngựa không thấy kết quả gì, chàng sẽ tìm cách gặp mặt ba vị cô nương ấy xem sao.
Chàng vừa đi vừa nghĩ ngợi miên man, chân bước ung dung như người đi dạo cảnh, bất đồ chưa ra khỏi Chung Nam, đã lại được trông thấy một sự lạ.
Chỗ hai ngọn núi giáp nhau, có một con đường nhỏ thông qua, mây khói mịt mù, cảnh sắc u nhã. Hạ Thiên Tường đang tấm tắc khen thầm phong cảnh Chung Nam thật là hùng vĩ kỳ tú, quả không thẹn với cái tên “Quân trung đệ nhất danh sơn”. Thốt nhiên chàng ngẩng mặt nhìn về phía trước rồi chợt đứng dừng lại.
Thì ra trên một tảng đá xanh phẳng phiu, lẫn lộn trong đám quái thạch, cách đó chừng hai ba mươi trượng, một con rắn rất lớn da xanh biếc nằm cuộn tròn thành một đống cao như cái tháp, đường kính vòng lưng rộng chừng sáu bảy tấc.
Loại rắn lớn này, Hạ Thiên Tường thấy rất nhiều, thực ra cũng không lấy làm gì lạ, chỉ là một điều là toàn thân nó run lên bần bật như nó đang cố gắng chịu đựng một sự gì thống khổ vô cùng và trong cái miệng mím chặt của nó có những dòng đen đen đang nhỏ ra từng giọt, thỉnh thoảng lại rên lên một tiếng thê thảm, khiến người nghe phải rợn tóc gáy.
Hạ Thiên Tường biết loại rắn này rất có thể không độc, nhưng thân mình nó to lớn như thế, thì ít nhất chiều dài cũng phải tới trên hai trượng, sức của nó tất phải khỏe vô cùng, đến sư tử, hùm, beo cũng không thể địch lại được. Vậy mà không biết tại sao nó bị người đánh hay loài vật nào cắn, mà đến nỗi thế này?
Hạ Thiên Tường nhận thấy mình cũng không có việc gì vội, cần phải đi gấp, bèn nhảy lên vách núi, dưới khóm cây rườm rà che khuất, cách chừng vài trượng ngồi chờ xem sự thể kết cục thế ra sao.
Lúc này con rắn lớn đã kêu rên luôn miệng, những cái vẩy ở trên mình cũng dần dần dựng đứng lên bắt đầu từ đuôi trở lên chốc chốc lại run bần bật.
Giữa lúc Hạ Thiên Tường đang mải mê ngắm xem cái cảnh tượng kỳ khôi kinh khủng đó, thì chợt nghe phía cửa cốc hình như hơi có một tiếng động gì là lạ. Chàng vội ngoảnh đầu trông lại, thì trước mắt lại bị vách đá chắn ngang, thành ra chưa trông rõ vật gì gây ra tiếng động ấy. Nhưng khi quay lại nhìn con rắn, bất giác chàng kinh ngạc lè lưỡi, vì trước mặt chàng lúc này chợt hiện ra một cảnh tượng vô cùng quái dị mà từ xưa tới nay chàng chưa trông thấy bao giờ!
Toàn thân con rắn cứ run run từng khúc một bắt đầu từ dưới đưa lên, lúc này đã tới khúc cổ, cái miệng lớn bằng cái chậu từ nãy vẫn mím chặt bấy giờ cũng há to ra nhưng trong chỗ cuống họng hình như có một cái chấm đo đỏ trăng trắng luôn ngọ nguậy.
Hạ Thiên Tường trong bụng nghi hoặc nghĩ thầm: “Chẳng lẽ cái chấm trăng đỏ lẫn lộn kia lại là một loại trùng rắn rất hiếm có, lúc này nó đang bò ở trong bụng con rắn ra?”
Chàng vừa nghĩ đến đây, chợt thấy con rắn lớn kiệt sức kêu lên một tiếng, toàn thân giống như một chiếc cầu vồng uốn cong đi rồi lăng không bắn đi xa tới bốn năm trượng mới rớt xuống.
Hạ Thiên Tường chờ tới khi con rắn đã chết hẳn, quả nhiên thấy từ trong miệng nó từ từ bò ra một con rắn hình thù quái lạ, đầu như cái dùi, khắp mình trắng nõn như tuyết, trên đỉnh đầu lại có một núm thịt đỏ như mào gà, mình nhỏ bằng ngón tay, dài chưa đầy bốn thước.
Con quái xà bò ra mặt đất, Hạ Thiên Tường chợt nghe đâu đây văng vẳng có tiếng người nói chuyện chàng vội lắng tai nghe, chỉ thấy phía sau vách núi có tiếng người nói :
- Phan sư muội, con Tuyết Gián Kê Quan đã bò ra kìa rồi. Ta xuống bắt lấy nó, lần này phụng mệnh đi hái thuốc, thế là đủ thứ.
Hạ Thiên Tường nghe nói, mới biết con quái xà đó tên gọi là Tuyết Gián Kê Quan, và người phía sau vách núi hình như định bắt nó đem về chế thuốc. Nhưng trông con rắn kia có vẻ cực kỳ độc dữ, không biết họ làm cách gì mà bắt được nó? Chàng định bụng cố nán ngồi xem cho biết.
Lại nghe có tiếng một người con gái hỏi người trước :
- Triệu sư huynh, loại rắn này dao kiếm chém không thủng, nọc của nó lại rất độc, sư huynh định hạ thủ bằng cách nào? Dùng Thiên Ty Chảo hay dùng Thiên Kinh độc thích?
Người ban nãy trả lời :
- Loài vật lạ trời sinh này quả đúng như lời sư muội nói, độc lực của nó mạnh lắm, dẫu có dùng Thiên Ty Chảo chụp nó lại cũng khó lòng bắt nổi, không bằng dùng Thiên Kinh độc thích, lấy độc công độc, còn dễ hơn.
Con quái xà nghe có tiếng người nói, liền cất cao cái đầu giống như mũi dùi ba góc lên, trừng đôi mắt lóng lánh những tia hung dữ nhìn chằm chằm vào vách núi.
Hạ Thiên Tường nghe đối phương hai lần nhắc đến bốn chữ Thiên Kinh độc thích chợt động lòng nghĩ thầm: “Nếu loài rắn này dao kiếm chém không thủng, mà đối phương còn định dùng Thiên Kinh độc thích để chế ngự nó, thì đủ biết độc lực của môn ám khí này còn mạnh hơn cả nọc rắn, lại còn chuyên phá được những gì thuộc về nội gia chân khí nữa. Để mình thử lẳng lặng định xem loại ám khí này có giống loại ám khí làm hai vị Chưởng môn bị ám toán vừa rồi không? Và thử xem hai người sau bức vách kia là môn đệ của phái nào”.
Vừa nghĩ đến đây, người đứng sau cách đá đã hạ thủ, ba đạo tinh quang sáng như bạc xé làn không khí phóng ra, kèm theo những tiếng vun vút ghê hồn nhằm thẳng con Tuyết Gián Kê Quan phóng tới.
Hạ Thiên Tường thấy ám khí của đối phương sắc trắng như bạc, bất giác cười thầm là mình khéo đa nghi, nhưng mắt chàng vừa chú ý nhìn, đôi mày thốt nhiên cau lại.
Số là con rắn quả nhiên lợi hại ghê gớm, thấy ám khí bay tới, nó vẫn thản nhiên không hề tránh khỏi, để mặc cho ba mũi ám khí ném vào mình như ném vào tấm da rách, rồi lại tự bật ra rớt xuống đám cỏ chừng vài thước.
Ba mũi ám khí rơi xuống đám cỏ, lúc này Hạ Thiên Tường mới trông rõ, đó là ba mũi châm Bạch Hổ Lượng Ngân chùy, một loại ám khí cực kỳ bá đạo, chuyên phá những môn ngạnh công như Thập Tam Thái Bảo hoành luyện v. v... Trong bụng bất giác vừa kinh vừa lạ.
Kinh vì loại ám khí ngoại môn bá đạo như thế mà không giết nổi con rắn nhỏ kia, lạ vì chàng còn nhớ phảng phất loại Bạch Hổ Lượng Ngân chùy này là ám khí của phái Côn Luân vẫn chuyên dùng. Nhưng phái Côn Luân là một phái giữ gìn kín tiếng nhất trong tám đại môn phái, không cạnh tranh với đời, vậy thời người dùng châm độc ám toán những nhân vật chủ yếu trong phái Võ Đang, La Phù, Điểm Thương tất nhiên không phải là môn hạ phái Côn Luân.
Hạ Thiên Tường còn đang suy nghĩ, thì chợt nghe tiếng người đứng sau vách đá hú lên một tiếng trong vắt như rồng ngâm.
Con rắn Tuyết Gián Kê Quan hung dữ vô cùng, nó nhắm đúng chỗ vách núi, đứng thủ thế để định tấn công, khi nghe đối phương hú một tiếng, nó giận dữ gầm lên, thần hình hơi cong lại, rồi như chiếc cầu vồng trắng toát, nhằm phía có tiếng hú, văng mình nhảy tới.
Con quái xà vừa văng mình nhảy lên không, phía sau vách đá lại phóng ra ba đạo ám quang màu đỏ tía, đánh thẳng vào cái mào đỏ chót trên đầu con rắn.
Rắn rết tuy được trời phú cho cái tính hung độc tàn ác, nhưng rốt cuộc cũng phải chịu thua trước trí khôn loài người. Con rắn nhỏ cậy có bộ da cứng, đã coi thường ba mũi ám khí trước, thì ba mũi ám khí sau này, nó cũng không coi vào đâu, cứ việc xong thẳng đến trước mặt đối phương.
Nhưng không ngờ ba mũi ám khí đỏ tía này còn lợi hại gấp mấy chục lần ba mũi ám khí trắng. Nên chỉ nghe con rắn gầm lên một tiếng giận dữ, thân hình từ trên không rơi xuống, trên núm mào đỏ chót, vào mấy chỗ yếu hại đã bị trúng phải độc trâm. Nó lăn đi một vòng rồi toàn thân run bắn lên, đúng như tình trạng của Băng Tâm thần ni và Thiết Quán đạo trưởng ở trong Chung Nam tử cốc mà Hạ Thiên Tường đã được trong thấy vừa rồi.
Hạ Thiên Tường trông kỹ mấy mũi ám khí của đối phương, quả thấy màu đỏ tía, thân đúng theo hình tam giác, chàng thấy vậy mà lạnh toát cả người, nín tiếng im hơi, ngồi định xem có phải bọn này là môn hạ của phái Côn Luân không?
Con rắn run lên một trận, rồi dần dần nằm im không động cựa nữa. Tức thì từ phía sau vách đá nhảy ra hai người: một trai và một gái, cả hai đều trạc tuổi trên dưới ba mươi, ăn mặc theo lối đạo sĩ, người con trai diện mạo khôi ngô tiêu sái còn người con gái cũng cốt cách phong lưu diễm lệ tình ý xem ra có vẻ thân mật lắm.
Người con trai bước tới bên con rắn, đứng xa ba thước cúi xuống nhìn rồi mỉm cười, nói với người con gái :
- Phan sư muội, loại ám khí độc môn Thiên Kinh độc thích của ta uy lực mạnh lắm, có thể cùng với trái Càn Thiên Tích Lịch của Hoàng Phủ Thúy xưng là song tuyệt được đấy!
Thiếu nữ mỉm cười gật đầu, cởi cái túi da đeo ở thắt lưng ra, rồi lấy cành cây gắp con rắn bỏ vào túi, rồi cả hai cùng song song bỏ đi.
Hạ Thiên Tường suy nghĩ một lúc, chờ cho hai người vòng ra sau vách núi xa chừng vài trượng, chợt đứng lên chạy theo gọi to :
- Hai vị môn hạ phái Côn Luân, xin hãy dừng chân cho tôi hỏi một chút.
Hai người kia nghe tiếng, ngạc nhiên quay lại, đăm đăm nhìn Hạ Thiên Tường, rồi đạo nhân cất tiếng nói trước :
- Bần đạo tên gọi Triệu Ngọc và sư muội là Phan Sa phụng mệnh đi các nơi hái thuốc, chưa từng được gặp bằng hữu lần nào, sao bằng hữu biết chúng tôi là môn hạ phái Côn Luân, và gọi chúng tôi lại định chỉ giáo việc gì?
Hạ Thiên Tường thấy đối phương quả tự nhận là môn hạ Côn Luân, bèn quyết định khai chiến để dò xét tình hình, bèn cười khẩy mấy tiếng rồi nói :
- Ba mũi Bạch Hổ Lượng Ngân chùy nằm ở trong bụi cỏ, chẳng phải là ám khí của phái Côn Luân sao?
Triệu Ngọc thấy thái độ của Hạ Thiên Tường cực kỳ lãnh đạm, kiêu ngạo, hình như cố ý khiêu khích, bèn à một tiếng, mỉm cười hỏi :
- Bằng hữu quý danh là gì, và có điều gì muốn dạy bảo? Bằng hữu kiến thức rộng rãi, thật đáng cho bần đạo khâm phục!
Hạ Thiên Tường vẫn lạnh lùng đáp :
- Tôi tên gọi Hạ Thiên Tường, tôi đã ở đây chờ đợi mấy ngày vì con Tuyết Gián Kê Quan này, vậy mà tự nhiên bị các người ở đâu đến phỗng tay trên...
Nói chưa dứt lời, người con gái mặc áo đạo bào đã xì một tiếng rồi hỏi :
- Loại kỳ xà chỉ có mỗi một chỗ dùng đến, nếu không có thứ dược liệu rất quý giá, khó tìm đặc sản của đỉnh Côn Luân chúng ta, hợp lại mà chế thành thuốc, thì chẳng dùng được việc gì cả. Vậy ngươi chờ bắt nó để làm gì?
Hạ Thiên Tường ngẩn người ra, không biết trả lời thế nào. Phan Sa thấy vậy biết là chàng chỉ cố ý gây sự, bèn cười nhạt nói :
- Vả lại loại rắn này nọc rất độc, da thịt lại cứng như sắt, cái bộ ngươi bắt sao nổi nó?
Câu sau cùng làm Hạ Thiên Tường nổi nóng, chàng trừng mắt nhìn Phan Sa, đôi mắt như tóe lửa, lạnh lùng nói :
- Ta định bắt con Tuyết Gián Kê Quan vì ta thích cái thân nó trắng nõn như tuyết, có thế thôi! Bây giờ rắn đã chết rồi, không thể bắt được, thì ta bắt ngay người bắt rắn, cũng vậy!
Phan Sa đôi mắt cũng long lên sòng sọc, gườm gườm nhìn Hạ Thiên Tường , tỏ ý khinh bỉ rồi nói :
- Môn hạ Côn Luân xưa nay vẫn nhạt lòng danh lợi, không thích tranh cạnh với đời, nhưng ngươi đã muốn đánh nhau thì ta cũng xin vui lòng thừa tiếp, bất cứ nhuyễn, ngạnh, khinh công, chưởng, kiếm, nội lực, muốn đấu thứ nào, tùy ngươi lựa chọn. Ta sẽ dùng con rắn này đặt cược, ngươi có vật gì cuộc không?
Hạ Thiên Tường thấy Phan Sa định đem con rắn ra đặt cược, còn mình thì chưa có vật gì, bèn ngẫm nghĩ một lát, rồi thò tay vào bọc lấy chiếc quạt Tương Phi Trúc Phiến ra, ném cho Triệu Ngọc, vừa cười vừa nói :
- Triệu bằng hữu, ta cùng sư muội ngươi đấu trận, hai bên đặt cược bằng con rắn và chiếc quạt này, nhờ ngươi đứng làm trọng tài hộ, trận đầu này đấu bằng võ khí.
Nói xong lại lấy đôi vòng Tam Tuyệt Cương Hoàn ra cầm sẵn trên tay.
Phan Sa thấy Hạ Thiên Tường đặt cuộc bằng chiếc quạt, đã toan cất giọng chế giễu, chợt lại thấy Triệu Ngọc đăm đăm nhìn chiếc quạt, sắc mặt lộ vẻ kinh ngạc, bèn thôi không nói nữa.
Triệu Ngọc đã nhận ra mấy cành trúc vẽ trên chiếc quạt, nét rắn rỏi tươi tốt thoát tục, bút ý tuyệt cao, một mặt đề mấy chữ “Thiên Nhai Tửu Hiệp Mộ Vô Ưu” lại là người khắp giang hồ đều biết tiếng. Bèn nghĩ bụng, không nên vì một chuyện nhỏ mọn, mà gây thù chuốc oán, bèn nhìn Hạ Thiên Tường mỉm cười nói to :
- Hạ bằng hữu không nên để tâm đến những chuyện nhỏ mọn ấy làm gì. Nếu có phải ngươi thích cái da rắn trắng, thì chúng tôi lại chỉ cần cái mào của nó thôi, những cái cần dùng của cả hai bên, không va chạm gì đến nhau, có điều ngay lúc này chưa tiện chia cắt, nếu bằng hữu vui lòng nhường cho tôi, ngày khác đi qua Côn Luân, xin mời quá bộ vào chơi.
Triệu mỗ này sẽ lột da rắn, thuộc lại tử tế đề dành phụng tặng.
Hạ Thiên Tường nghe nói hơi có vẻ ngạc nhiên, nghĩ bụng sao hai tên đệ tử Côn Luân không hề tỏ vẻ gì là nguy hiểm độc ác? Nhưng cái cớ mình gây chuyện đâu phải vì bộ da rắn, mà chỉ vì muốn do thám những sự bí mật có liên can đến mấy mũi ám khí Thiên Kinh độc thích và sắp sẵn một lý do, để sau này có cớ lên Côn Luân hỏi thăm học trò Tri Phi Tử là nàng Lộc Như Ngọc. Nên mới quyết ý đánh cuộc, cố chiếm lấy con rắn lạ chơi. Lúc này chàng đổi giọng ôn tồn mỉm cười với Triệu Ngọc :
- Triệu bằng hữu cứ yên tâm, một con rắn nhỏ, có gì đáng quý? Nhưng Hạ Thiên Tường vốn tính hiếu võ, thích học hỏi cao nhân, nên muốn hạ cố để thảo giáo lệnh sư muội vài chiêu tuyệt học của phái Côn Luân, thế thôi.
Sa Kỳ nghe nói liền với tay ra phía sau, rút ra một thứ võ khí hình thù kỳ dị, vừa trông thấy món binh khí của nàng, Hạ Thiên Tường chợt lại ngạc nhiên đứng sững.
Thì ra món binh khí lạ kiểu đó giống như thanh kiếm mà không phải kiếm, giống như lưỡi mác, mà không phải mác, gáy dày, lưỡi mỏng dài chừng ba thước, toàn thân đều đúc theo hình kiếm, nhưng chỗ gần mũi kiếm lại có thêm một cái chĩa trông giống như châm ba góc cắm ngược, sắc bén vô cùng.
Hạ Thiên Tường sở dĩ kinh ngạc, không phải chàng sợ cái món binh khí kỳ dị của đối phương có những chiêu thuật linh diệu gì, mà chỉ vì chàng nhớ hình như vị nữ lang áo đen chàng gặp hôm xưa, ở sườn núi Cửu Nghi sơn cũng cầm món binh khí giống như vậy.
Phan Sa thấy đối phương cứ dán mắt nhìn vào món binh khí của mình, hình như có vẻ suy nghĩ, thì sẽ nhếch mép cười nhạt :
- Ngươi luôn miệng đòi lĩnh giáo những ngón tuyệt học của phái Côn Luân, chẳng lẽ lại không nhận ra cây Côn Luân Thích này là vật gì ư?
Hạ Thiên Tường cầm đôi Tam Tuyệt Cương Hoàn vắt chéo sang nhau, lập tức phát ra những tiếng sang sảng như rồng ngâm, rồi nhướng cao đôi mày, nhìn Phan Sa ngạo nghễ đáp :
- Cái tên của binh khí, tự ý mình muốn đặt là gì mà không được, có gì đáng tự phụ! Ta quả thực không biết cây Côn Luân Thích của ngươi, chẳng lẽ ngươi lại nhận biết đôi Tam Tuyệt Cương Hoàn này của ta ư?
Phan Sa tuy nghe cái tên Tam Tuyệt Cương Hoàn hơi quen quen, nhưng cũng không để ý, nàng chỉ cầm cây Côn Luân Thích để ngang trước ngực, nhìn chằm chằm vào Hạ Thiên Tường, rồi nhẹ nhàng như một đám mây lướt nhanh về bên phải mấy bước.
Hạ Thiên Tường hai tay cầm hai chiếc vòng, đứng sừng sững như một trái núi, lẳng lặng chờ đối phương tiến chiêu. Trong khi hai người một động một tĩnh, cung đã giương, kiếm đã tuốt, sắp sửa khai chiến thì Triệu Ngọc thốt nhiên lắng tai nghe ngóng, rồi kinh ngạc kêu lên :
- Hai vị hãy khoan, đừng giao thủ vội! Có ai nghe thấy tiếng gì lạ không?
Hạ Thiên Tường và Phan Sa nghe Triệu Ngọc nói vậy, vội cùng dừng tay lẳng nghe, quả nhiên thấy những tiếng ào ào như sóng gầm, rồi lại rầm rập như muôn ngàn cặp vó ngựa đang phi nước kiệu dồn dập ồ ạt kéo tới chỗ ba người đứng. Những tiếng quái gở đó quả thực đã tiến nhanh tới một mức độ cực kỳ khủng khiếp. Lúc mới thoạt nghe thì hình như còn cách đấy chừng hơn một dặm, mà lúc này đã dồn vào tới cửa cốc.
Hạ Thiên Tường và Triệu Ngọc, Phan Sa đều kinh hoảng vì những âm thanh lạ lùng kỳ dị, biến chuyển quá nhanh, nên không còn bụng dạ nào nghĩ đến chuyện giao thủ nữa. Một người nhảy sang bên đông, hai người nhảy sang bên tây, cùng leo lên vách đá, tìm chỗ ẩn núp.
Bọn họ vừa chạy tới vách núi, leo được lên chừng hơn một trượng, đã nhận thấy những tiếng kỳ quái vừa rồi là tiếng vó chân của các loài dã thú như hùm, beo, gấu, sói, lại có cả lừa rừng cao lớn lực lưỡng, từ ngoài cốc rậm rạp chạy vào.
Hạ Thiên Tường đứng trên một tảng đá cao ở vách núi phía đông, thấy tình hình như vậy, trong bụng lấy rất làm lạ, không lẽ những con thú này đều phát khùng hay sao, mà đang tự nhiên lại kết thành đàn xô nhau chạy cuồng lên như vậy, là nghĩa lý gì?
Trong khi chàng còn đang băn khoăn ngờ vực, thì ngoài cửa cốc lại có tới hàng trăm con lừa rừng, cứ trong thẳng phía trước mặt, soải bốn vó ra mà chạy, có con đâm sầm cả gốc cây, vách núi mà cũng không chịu dừng lại.
Ngày thường những loại thú này thường hay giết hại, ăn thịt lẫn nhau, nhưng lúc này mạnh con nào con nấy chạy, không còn thì giờ lưu tâm đến những con vật khác quanh mình nữa.
Hết tiếng chân thú chạy lại nghe tiếng ào ào như thác réo, tiếng ngựa hí vang trời. Hạ Thiên Tường vừa nghe tiếng ngựa, biết ngay là loại ngựa Thiên Lý Long Câu liền nghĩ thầm: “Không ngờ ở đây lại có giống ngựa quí hiếm có ấy”.
Chàng chú ý trông ra cửa cốc, chỉ thấy hai cái bóng, một vàng một trắng, cưỡi trên con tuấn mã lông xanh đang chạy như bay tới. Chàng chợt nhớ lời Mộ Vô Ưu nói, trong thiên hạ chỉ có hai con thiên lý long xanh, một con của Cửu Thủ Phi Bằng Thích Đại Chiêu Chưởng môn nhân phái Kỳ Liên, còn một con là Thương Sơn Ẩn Hiệp Tái Hàn Khang.
Vậy mà con ngựa lông xanh đang phóng tới kia, trông cái tốc độ của nó nhanh như một luồng chớp, tất nhiên phải là loại ngựa thiên lý không sai, nhưng còn chủ nhân con ngựa hình dạng thế nào, lúc này chưa trông rõ mặt.
Chỉ trong khỏanh khắc, con ngựa thiên lý đã tiến tới gần. Hạ Thiên Tường chợt mở to con mắt, sửng sốt vô cùng. Thì ra hai cái bóng ngồi trên lưng ngựa đều không phải là người, cái bóng vàng là một giống thú lạ, lông vàng mà dài, rũ kín tới ngang vai, còn cái bóng trắng là một con bạch viên nhỏ, cao chừng hai thước. Chàng nghĩ thầm: “Không hiểu sao từ hôm mình lên tham bái mồ Mai Khôi đến nay, luôn luôn gặp toàn những chuyện quái gở lạ lùng”.
Con ngựa chạy trước, một làn sóng réo ầm ầm như thác đổ cuồn cuộn đuổi theo. Con ngựa dựng thẳng hai tai, bốn vó càng gia sức tăng cường tốc độ, chỉ trong chốc lát đã vượt qua đàn thú đến bốn năm trượng.
Ngựa chạy đã nhanh, nước cuốn càng mạnh, ngoài cửa cốc nước va vào đá, nước bắn tóe lên, rồi lại rút xuống trắng xóa như bạc, trông xa chẳng khác gì hàng trăm khối băng từ trên không ập xuống. Cây cối gãy răng rắc, đổ ngổn ngang, rồi theo luồng sóng trôi đi băng băng.
Lúc này Hạ Thiên Tường mới hiểu rõ tình hình, thì ra lừa, ngựa, thú rừng xô nhau chạy trốn, là vì tránh trận lụt rừng. Bất giác chàng thấy lạnh người, trước mắt chàng giờ đây chỉ là sóng và nước, khe núi, thung lũng phút chốc đã biến thành biển cả. Vậy mà thế nước vẫn còn cuồn cuộn dâng lên, cách mỏm đá chàng đứng chỉ còn chừng ba thước.
Kinh hoàng vì cái uy thế quá mãnh liệt của thủy thần, Hạ Thiên Tường đành thi triển môn Bích Hổ Công và Du Long Thuật men theo vách đá lên tới hai chục trượng cao, mới ngồi xuống dưới gốc một cây cổ tùng mọc xen trong khe núi. Lúc này mực nước trong cốc đã dâng cao tới năm sáu trượng, mà Triệu Ngọc, Phan Sa hai người núp trên vách núi trước mặt, không biết đã biến mất từ bao giờ.
Hạ Thiên Tường ngồi trên bức vách đá cao nhất, tuy biết mực nước không thể dâng cao tới chỗ mình được, nhưng trong lòng chàng vẫn băn khoăn sốt ruột, ngồi đứng không yên.
Chỉ vì những việc xảy ra vừa rồi, đã làm chàng mất hết chủ ý. Mộ Vô Ưu đã bày cho chàng cái kế nên đi tìm ngựa trước, rồi hãy tìm người sau, thì ban nãy chàng đã trông thấy con ngựa lông xanh, nhưng người cưỡi ngựa không phải là một mỹ nữ, mà chỉ là hai con thú. Vậy thì bây giờ chàng có nên cứ đi tìm ngựa nữa không? Hay là nên đi tìm người?
Lại càng đáng tức cười hơn nữa, là ban nãy chàng đã cố ý gây chiến với Phan Sa mà rồi không những cuộc đấu không thành, con kỳ xà chưa chiếm được, mà lại còn mất đi thêm cây trúc phiến của Phong Trần Cuồng Khách tặng nữa.
Chàng đang vẩn vơ suy nghĩ, chợt nhận thấy mực nước đã đứng lại, cái xác con rắn khổng lồ vẫn lềnh bềnh nổi trên mặt nước, chưa bị làn sóng cuốn đi. Bất giác chàng lại nhớ chuyện Võ Đang tam tử và bọn Băng Tâm thần ni, Thiết Quán đạo trưởng không biết có phải cũng bị đệ tử phái Côn Luân ám toán bằng mũi tên Thiên Kinh độc thích không? Nếu bảo là không phải thì sao hai thứ ám khí lại giống nhau cả từ khuôn khổ, hình thức, màu sắc cho đến chất độc như vậy? Còn nếu bảo rằng phải thì phái Côn Luân xưa nay vẫn bế quan tự thủ không màng đến danh lợi, không thích ganh đua tại sao bỗng dưng vô cớ lại hạ độc thủ giết mấy nhân vật chủ yếu của ba phải Võ Đang, La Phù và Điểm Sương như thế để làm gì?
Chàng nghĩ mãi vẫn không sao tìm được giải đáp. Trận hồng thủy tiến cũng nhanh mà thoái cũng chóng. Lúc này nước đã rút gần hết, những chỗ thấp nhất, mực nước cũng chỉ đọng lại chừng một thước. Hạ Thiên Tường đành dẹp bỏ mọi nỗi băn khoăn, đứng dậy tìm lối đăng trình.
Chàng vừa đi vừa du ngoạn thủy, thắm thoắt đã gần tới tết Trùng Dương, chàng bèn đi thẳng lên núi Thương Sơn, tìm nhà Tái Hàn Khang ở Thiên Tâm bình giao hoàn công việc Mai Khôi sứ giả ủy thác và luôn tiện thăm dò tin tức người thiếu nữ bí mật.
Thiên Tâm bình ở trong cùng tận núi Thương Sơn, hình thế tuyệt đẹp, ba mặt núi non bao bọc, một mặt là thung lũng, nước phi toàn rửa sạch bụi trần, cây cổ thụ rườm rà sau trước. Giữa ngọn phi toàn và lùm cây cổ thụ có ba gian nhà tranh, kiến trúc sơ sài giản dị.
Hạ Thiên Tường sợ nhỡ việc, nên trước tết Trùng Dương một hôm, chàng đã tới Thương Sơn, chỉ thấy trước cửa ngôi nhà tranh có một thiếu nữ ở dưới gốc một cây tùng già.
Thiếu nữ mình mặc áo đen, thân thể nhỏ nhắn yểu điệu, nhưng vì mặt nàng che một mảnh sa đen, nên không trông rõ dung mạo và niên tuế.
Tái Hàn Khang tuy ẩn cư ở Thương Sơn rất ít khi đi ra ngoài nhưng vì ông là một vị thần y đương thời, nên danh tiếng cũng lừng lẫy trong chốn giang hồ. Hạ Thiên Tường vừa nhác trông đã biết ngay vị lão nhân gầy gò mặc áo vải nọ, chính là người mình đang định tìm, bèn bước lên mấy bước, cung kính thi lễ rồi nói :
- Tại hạ Hạ Thiên Tường tham kiến lão tiền bối.
Tái Hàn Khang thái độ rất nhã nhặn, giơ tay mời chàng ngồi, rồi mỉm cười nói :
- Xin mời lão đệ ngồi, trước khi thỉnh giáo lão đệ đến chơi có việc gì, lão xin được giới thiệu với lão đệ một vị cao nhân trong võ lâm, đây là Lăng Ba Ngọc Nữ Sài Vô Cấu cô nương, một cao thủ trong phái La Phù.
Hạ Thiên Tường đã được nghe Lăng Ba Ngọc Nữ do miệng Tư Đồ Úy nói ra hôm ở trên Mân Sơn, nên bất giác vừa thi lễ vừa đưa mắt trông trộm vị nữ hiệp La Phù lãnh diện vô song, đã có thanh danh trong giới võ lâm.
Sài Vô Cấu ẩn thân trong Tước Bích trên Hồi Đầu phong, nghe tin Tư Đồ Úy thương yêu Đào Hoa Nương Tử Cận Lưu Hương mà bỏ rơi mình, đã định đâm đầu xuống hang sâu thăm thẳm hàng trăm trượng trên Mân Sơn để giải thoát nợ trần, may nhờ Hạ Thiên Tường kịp thời nói lẩm bẩm mấy câu một mình: “Mai Khôi nguyện lực thực là thánh khiết vô biên” chợt nghe như tiếng Phạn âm của nhà Phật, làm cho nàng vụt tỉnh cơn mê mộng, ma chướng tiêu tan, đầu óc lẳng lặng sáng láng, yên tâm chờ Mai Khôi sứ giả phát huy cái hiệu lực “Thánh khiết vô biên” của Mai Khôi nguyện lực làm cho hoa tàn lại thắm, trăng khuyết lại tròn.
Vì vậy nên khi nghe Hạ Thiên Tường xưng danh, nàng liền đưa đôi mắt cảm kích nhìn chàng qua làn sa mỏng.
Hạ Thiên Tường nghe Tái Hàn Khang nói câu “Thỉnh giáo lão đệ đến chơi có việc gì” thì biết là Mai Khôi sứ giả chưa tới, bèn mỉm cười hỏi Tái Hàn Khang và Sài Vô Cấu :
- Tại hạ phụng mệnh Mai Khôi sứ giả tới đây, chẳng hay lão tiền bối và Sài nữ hiệp có biết vị Mai Khôi sứ giả trong Kim Ngọc cốc, dưới Môn Tâm Hắc, sau Hồi Đầu phong trên Mân Sơn là ai không?
Tái Hàn Khang và Sài Vô Cấu nghe Hạ Thiên Tường phụng mệnh Mai Khôi sứ giả đến đây đều lấy làm kinh ngạc, nhất là Sài Vô Cấu đã hơi lờ mờ đoán ra có lẽ cái cớ Mai Khôi sứ giả sai anh chàng thiếu niên này tới đây, có quan hệ tới mình không ít, bèn mỉm cười nói :
- Tôi đã đến lễ mồ Mai Khôi, và nói chuyện với Mai Khôi sứ giả hai lần. Được ông ta hứa hẹn sẽ đem Mai Khôi nguyện lực giúp tôi hoàn thành tâm nguyện. Còn Tái đại hiệp thì không quen bao giờ. Có lẽ Hạ lão huynh đệ phụng mệnh Mai Khôi sứ giả, đã tìm được Đại Tuyết sơn Chu Hồng Tuyết Liên và Đông Hải Thiên Niên Chi Dịch rồi chăng?
Hạ Thiên Tường thấy Sài Vô Cấu hỏi vậy thì cũng hơi ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Có lẽ hôm ở trên Mân Sơn, Sài Vô Cấu quả đã đến mồ Mai Khôi trước mình, mà bị Tư Đồ Úy theo dõi đến đấy thực chăng?”. Chàng liền mỉm cười nói :
- Mai Khôi sứ giả chỉ bảo tôi sang Đông Hải xin Nhất Bát thần tăng hai giọt Thiên Niên Chi Dịch thôi. Tôi không nghe thấy nói đến Chu Hồng Tuyết Liên.
Hàn Khang cười nói :
- Thiên Niên Chi Dịch của Nhất Bát thần tăng càng quý giá khó kiếm hơn Chu Hồng Tuyết Liên của Băng Phách Thần Quân Thân Đồ Hợi nhiều. Hạ lão đệ đã xin được chưa?
Hạ Thiên Tường cười nói :
- Vãn bối chưa đến Đông Hải, đã may mắn được gặp Nhất Bát thần tăng ở ngoài Chung Nam tử cốc, được Thần tăng cho hai giọt Thiên Niên Chi Dịch.
Hàn Khang kinh ngạc kêu lên :
- Nhất Bát thần tăng coi cây Thiên Niên Chi Thảo của ông ta trồng trong chiếc bát ngọc đỏ, quý ngang với tính mệnh, cho ai nửa giọt đã là chuyện hiếm có lắm rồi, sao ông ta lại dám cho đệ tới hai giọt?
Hạ Thiên Tường mỉm cười nói :
- Vị kỳ hiệp không môn ấy rất có duyên với vãn bối, nên khi vãn bối ngỏ lời xin thì ông ta khảng khái cho ngay một giọt. Tới khi nghe Mai Khôi sứ giả sai vãn bối tới, ông ta cho thêm giọt nữa thành ra hai giọt.
Nói đến đấy chàng chợt nhớ ra Sài Vô Cấu tức là sư muội của Băng Tâm thần ni, nên lại nói tiếp :
- Tôi ở ngoài Chung Nam tử cốc không những may mắn gặp Nhất Bát thần tăng, mà còn được gặp cả lệnh sư tỷ của Sài nữ hiệp và Thiết Quán đạo trưởng ở trong Tử cốc nữa.
Sài Vô Cấu càng nghe càng thấy ly kỳ, bèn hỏi :
- Tôi nghe Tư Đồ Úy nói với Hạ lão đệ ở trên Mân Sơn rằng hai phái Điểm Thương và Kỳ Liên liên danh ký thiếp mời sư tỷ tôi xuất lãnh nhân vật phái La Phù đến ngày lập hạ sang năm sẽ hội chiến ở Chung Nam tử cốc, vậy thì tại hạ sao chưa tới kỳ hẹn sư tỷ tôi với Chưởng môn phái Điểm Thương đến đó làm gì?
Hạ Thiên Tường thần sắc có vẻ trịnh trọng nói :
- Không những thế mà thôi, hai vị Chưởng môn còn bị người ám toán, trúng phải kỳ độc, nếu không nhờ Nhất Bát thần tăng dùng lá Thiên Niên Chi Thảo kịp thời cứu được, thì cả hai vị cùng bị chôn xác trong Tử cốc rồi.
Sài Vô Cấu kinh sợ, vội hỏi :
- Hạ lão đệ đã được chứng kiến từ đầu đến cuối câu chuyện đó, xin kể lại cho tôi nghe một lượt được không?
Hạ Thiên Tường cầm chén trà tùng tử đặt trên bàn, nhấp giọng rồi mỉm cười nói :
- Tôi đi chuyến này gặp gỡ lắm chuyện lạ lùng ngoài trí tưởng tượng, xin lần lượt thuật lại để hai vị nghe.
Tái Hàn Khang và Sài Vô Cấu lẳng lặng ngồi nghe Hạ Thiên Tường kể chuyện. Khi nghe xong, Sài Vô Cấu rất lấy làm mừng vì sư tỷ vừa thoát được một tai nạn lớn. Còn Tái Hàn Khang chỉ vuốt chòm râu bạc ra vẻ suy nghĩ trầm ngâm, miệng luôn lẩm bẩm mấy chữ: “Tam Lăng Tử Hắc độc thích”.
Hạ Thiên Tường vì thấy chuyện này quan hệ rất lớn, có ảnh hưởng đến toàn thể giới võ lâm, nên không dám nói đến việc hai tên môn hạ phái Côn Luân thi triển Thiên Kinh độc thích giết con kỳ xà, chỉ hỏi lại Tái Hàn Khang :
- Lão tiền bối là một vị danh y đệ nhất đương thời, kiến văn rộng rãi, chắc đã nhận ra lại lịch những mũi ám khí Tam Lăng Tử Hắc độc thích là của ai, hoặc môn phái nào quen dùng?
Hàn Khang lắc đầu gượng cười :
- Tôi tuy có biết một nơi đặc chế ra loại ám khí màu sắc khuôn khổ đúng như lão đệ vừa tả. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, thì những nhận vật phái đó quyết không khi nào vô duyên vô cớ lại dùng ám khí làm loạn võ lâm như vậy. Huống hồ một câu nói ra, có thể dẫn đến những kỳ tai họa kiếp cho khắp giang hồ, quan hệ lớn lắm cho nên mặc dầu Băng Tâm thần ni suýt chết vì mũi châm đó, nhưng trước khi tìm được chứng cớ xác thực, tôi cũng không dám đoán liều!
Tái Hàn Khang thấy Hạ Thiên Tường nghe đến đây đôi mắt chợt lóe sáng hình như định ngắt lời, bèn nghiêm sắc mặt, xua tay nói :
- Việc này can hệ rất lớn, cần phải dò thám ra manh mối, rồi tông hợp cả lại để tìm lấy một bằng cớ chính xác. Nên lão cũng mong Hạ lão đệ hiểu rõ tầm quan trọng của nó, mà thận trọng lời nói một chút.
Hạ Thiên Tường thấy Tái Hàn Khang nói thế, bèn thôi không nhắc đến chuyện đó nữa, chỉ mỉm cười hỏi sang việc khác :
- Hạ Thiên Tường còn có một vài chuyện riêng, muốn thỉnh giáo lão tiền bối.
Tái Hàn Khang rót một chén Bồ Đào mỹ tửu, đặc sản núi Thương Sơn đưa mời Hạ Thiên Tường, rồi gật đầu cười nói :
- Hạ lão đệ cần biết điều gì, xin cứ hỏi.
Hạ Thiên Tường hỏi :
- Lão tiền bối hàng ngày đi hành đạo giang hồ, vẫn hay cưỡi con ngựa thiên lý lông xanh có phải không ạ?
Tái Hàn Khang chưa kịp trả lời, Sài Vô Cấu ngồi bên đã mỉm cười nói :
- Con ngựa của Tái đại hiệp tên là Thanh Phong Ký, đúng là loại long câu hiếm có, không những ngày đi ngàn dặm, mà hổ báo trong thấy nó cũng phải sợ.
Hạ Thiên Tường lại hỏi :
- Hiện nay con ngựa ấy có ở trên Thiên Tâm bình không ạ?
Tái Hàn Khang nghe hỏi, sắc mặt thốt nhiên lộ vẻ bối rối ngượng nghịu, lẳng lặng làm thinh, Sài Vô Cấu ngạc nhiên hỏi :
- Tại sao đại hiệp có vẻ không vui? Hoặc giả người đã tặng ai con ngựa quý ấy rồi chăng?
Tái Hàn Khang cười gượng nói :
- Năm xưa tôi hái thuốc ở trên đất Miêu, nhân chữa khỏi bệnh cho một vị Động chủ, được ông ta tặng cho con Thanh Phong Ký, là một lai dị chủng long câu, khi nào tự nhiên đem tặng người khác.
Hạ Thiên Tường hỏi :
- Loại ngựa quý như vậy, ai thấy chẳng yêu, chắc lão tiền bối không đề phòng, nên bị ông bạn giang hồ nào cuỗm đi mất phải không?
Tái Hàn Khang lắc đầu :
- Tôi ở trong giang hồ, được nhiều người yêu mến, không ai thù oán, lại cũng có đôi chút danh tiếng, ai dám gan lẻn lên Thương Sơn này làm chuyện bậy bạ, huống chi con Thanh Phong Ký này cũng là giống vật có linh tính, những kẻ tài nghệ tầm thường, làm gì nổi nó.
Sài Vô Cấu nghe thấy thế, chợt nổi tính tò mò, đăm đăm nhìn Hàn Khang, thủng thẳng hỏi :
- Nếu không tặng ai, cũng không mất trộm, thì sao... (vừa nói tới đây chợt như hơi đoán ra nguyên cớ, vội đổi giọng hỏi), hay là đại hiệp cho người ta mượn?
Tái Hàn Khang càng tỏ vẻ ngượng nghịu, chỉ mỉm cười, nâng chén rượu nho nhỏ lên uống cạn một nửa, rồi lắc đầu :
- Việc này nói ra vừa bực mình, vừa buồn cười, con Thanh Phong Ký của tôi đã không tặng ai, lại không bị trộm, mà cũng chẳng cho ai mượn, chỉ là vì thua cuộc nên bị người ta chiếm mất.
Câu nói ấy thật quả là ngoài ý liệu của Hạ Thiên Tường và Sài Vô Cấu, nhất là Sài Vô Cấu lại càng tỏ vẻ kinh ngạc hết sức, vội hỏi :
- Đại hiệp đánh cuộc với nhân vật phái nào vậy?
Tái Hàn Khang nâng chén uống nốt nửa rượu còn lại, rồi chép miệng nói :
- Người này không thuộc phái nào trong tám phái lớn của võ lâm.
Hạ Thiên Tường chợt như nghĩ ra chuyện gì, vội hỏi :
- Vậy thì chắc người này có liên quan tới Thiên Ngoại Tình Ma Trọng Tôn Thánh?
Tái Hàn Khang đăm đăm nhìn Hạ Thiên Tường, ngạc nhiên hỏi :
- Sao Hạ lão đệ đoán đúng thế, thật là liệu sự như thần! Tài thật!
Hạ Thiên Tường nhân vừa nhớ đến câu chuyện đánh cuộc giữa mình và Hoa Như Tuyết ở dưới chân núi Chiêu Vân phong, nên mới đoán vậy. Chàng nghe Tái Hàn Khang khen mình đoán tài, đắc ý cười nói :
- Nhân vì vãn bối biết môn hạ Trọng Tôn Thánh thích cùng người đánh cuộc, nên mới đoán liều, may ra lại trúng.
Tái Hàn Khang cười hỏi :
- À thì ra lão đệ đã từng đánh cuộc với môn hạ Trọng Tôn Thánh rồi đấy?
Hạ Thiên Tường không muốn thuật rõ câu chuyện mình đánh cuộc với Hoa Như Tuyết thế nào, chỉ dạ một tiếng rồi hỏi :
- Chẳng hay người đánh cuộc với lão tiền bối là môn hạ của Trọng Tôn Thánh hay chính ông ta?
Tái Hàn Khang vuốt râu mỉm cười nói :
- Người ấy là Trọng Tôn Phi Quỳnh, cô con gái cưng duy nhất của lão già ấy.
Bốn chữ “Trọng Tôn Phi Quỳnh” lại làm cho Hạ Thiên Tường động lòng. Vì từ hôm thấy Phan Sa sử dụng món binh khí Côn Luân Thích, chàng đã yên trí là thiếu nữ mặc áo đen mình gặp ở Cửu Nghi sơn dạo nọ tất phải là Lộc Như Ngọc, học trò Tri Phi Tử phái Côn Luân nhưng lúc này nghe Tái Hàn Khang nói vậy, chàng lại hình dung người mỹ nữ ngồi trên lưng con tuấn mã lông xanh nhất định phải là Trọng Tôn Phi Quỳnh không sai. Câu chuyện càng ngày càng rắc rối, làm cho chàng cảm thấy hoang mang.
Lúc này lại nghe Sài Vô Cấu hỏi Hàn Khang :
- Tái đại hiệp võ công tuyệt thế, y học tinh thâm, kiến thức và kinh nghiệm đều cao siêu hơn người, vậy mà sao lại bị thua cuộc với Trọng Tôn Phi Quỳnh?
Tái Hàn Khang nhắm nghiền đôi mắt, dường như đang ôn lại câu chuyện dĩ vãng, một lúc sau mở mắt ra cười nói :
- Vị cô nương này thật là mỹ lệ khả ái vô cùng và cũng ranh mãnh hết sức. Vừa lên tới Thiên Tâm bình, cô ta tự xưng ngay lại lịch rồi nói là có một vị sư tỷ, thân là môn hạ “Tình Ma” nhưng lại mắc phải lưới tình, đến nỗi bị ốm nặng, muốn hỏi ta ba phương thuốc...
Hạ Thiên Tường nghe đến đây biết ngay vị sư tỷ của Trọng Tôn Phi Quỳnh đang mắc phải lưới tình đó, tất nhiên là Hoa Như Tuyết, nhưng chàng chỉ lẳng lặng ngồi nghe Hàn Khang nói tiếp :
- Cô ấy lúc đó nói rằng môn hạ của cha cô từ xưa đến nay không phải cầu ai bao giờ, lần này vì bệnh của sư tỷ, nên mới phá lệ đặc biệt tới đây tìm ta, nếu ta kê đơn thuốc, cô sẽ tạ một vật chí bảo, còn nếu ta chỉ là hư danh, không phải thực học, kê không nổi đơn thuốc thì sao?
Hạ Thiên Tường hỏi :
- Vậy lão tiền bối trả lời thế nào?
Hàn Khang cười gượng nói :
- Thú thực hồi đó ta rất tự phụ về y học, vả cũng không ngờ Trọng Tôn Phi Quỳnh lại quái ác đặt ra những vấn đề hóc búa như vậy bèn kiêu ngạo trả lời: “Đã là thầy thuốc, tất phải hiểu bệnh lý, nếu ta kê được đơn thuốc, thì đó cũng là bổn phận, không cần cô phải thù tạ gì hết, còn nếu không kê được, thì nội trong Thiên Tâm bình này có vật gì, đều tùy cô ta sử dụng”.
Sài Vô Cấu khen rằng :
- Tái đại hiệp quả là người trọng nghĩa, lòng rộng như trời bể, nhưng không biết cô bé kia xin đơn thuốc gì, mà đến nỗi đại hiệp phải thua cuộc?
Tái Hàn Khang mặt hơi ửng đỏ, lắc đầu cười :
- Nếu cô ta hỏi về thuốc thật, thì nào lão lại không trả lời được.
Sài Vô Cấu ngạc nhiên hỏi :
- Trọng Tôn Phi Quỳnh đã vì sư tỷ mà đến, vậy tại sao lại không hỏi bệnh chứng, còn hỏi gì nữa?
Tái Hàn Khang cười gượng mấy tiếng, rồi chậm rãi trả lời :
- Cố nhiên là hỏi bệnh, nhưng bệnh này lại không phải là những chứng bệnh phổ thông như trúng độc, thương hàn, đau tim, đau phổi...
Hạ Thiên Tường cảm thấy hứng thú, vội hỏi :
- Vậy thì là bệnh gì?
Tái Hàn Khang thở dài một tiếng rồi nói :
- Đơn thuốc thứ nhất cô ta hỏi: “Si nhân mộng” (mộng của những người si) thì dùng cách gì giải cho tỉnh? Đơn thuốc thứ hai cũng lại liên can đến đơn thuốc thứ nhất là “Bất liễu tỉnh” (tình không bao giờ dứt) làm thế nào trị cho nó dứt?
Hạ Thiên Tường nghe đến đấy, chợt phì cười nói :
- Cô bé này càng hỏi càng thú vị, còn đơn thuốc thứ ba, tất nhiên cô ta phải hỏi “Tương tư bệnh”.
Tái Hàn Khang gật đầu cười :
- Hạ lão đệ thông minh lắm, đoán quả không sai. Nhưng những đơn thuốc cô ta hỏi, thú thì tuy thú thật, song ta chỉ biết giương to hai con mắt mà trả lời, không kê nổi một đơn nào cả. Rốt cuộc bị cô bé xinh đẹp tai quái chiếm con Thanh Phong Ký cưỡi đi mất!
Sài Vô Cấu nghe xong câu chuyện thú vị đó, quả nhiên cũng cảm thấy vừa tức cười, vừa tức mình, nàng bèn hỏi Tái Hàn Khang :
- Con Thiên Lý Long Câu của đại hiệp uy mãnh vô cùng, huống hồ loại thần câu phần nhiều đều biết nhớ chủ, khi nào lại chịu đi theo Phi Quỳnh dễ dàng như thế?
Tái Hàn Khang gật đầu nói :
- Sài nữ hiệp hỏi cũng có lý, chính lão phu cũng lấy làm khó chịu, vì lẽ ngày thường người lạ không ai dám đến gần con ngựa ấy, vậy mà không hiểu sao nó lại tỏ ra phục tùng Phi Quỳnh, ngoan ngoãn để cho nàng cưỡi, vượt qua núi, chạy đi như bay.
Hạ Thiên Tường đôi mắt long lanh nhìn Hàn Khang cười nói :
- Tái lão tiền bối tuy là bậc thông minh tuyệt đỉnh nhưng cũng có lúc hồ đồ, ba đơn thuốc có gì là khó, mà để Phi Quỳnh lừa lấy mất con ngựa quý.
Sài Vô Cấu đăm đăm nhìn Hạ Thiên Tường, cao hứng hỏi :
- Hạ lão đệ nói vậy, chắc là đã kê được ba đơn thuốc đó rồi?
Hạ Thiên Tường gật đầu cười nói :
- Vấn đề thứ nhất và vấn đề thứ hai của Phi Quỳnh hỏi, chỉ toàn là những câu viển vông vớ vẩn, vậy thì ta cũng lấy những câu hư không mà trả lời, duy có vấn đề thứ ba là hỏi về bệnh thực, thì ta lại kê đơn trị bệnh, có sao!
Tái Hàn Khang rót ba chén rượu đầy để trước mặt Hạ Thiên Tường, rồi tự mình cũng rót ba chén nước bồi tiếp, đoạn mỉm cười hỏi :
- Lão phu xin dốc lòng thành thỉnh giáo cao minh: mỗi chén rượu này là xin lão đệ kê cho một đơn thuốc để chưa bệnh cho sư tỷ Trọng Tôn Phi Quỳnh đang bị rơi vào lưới tình.
Hạ Thiên Tường đỡ lấy chén rượu, mỉm cười nói :
- Xin lão tiền bối cứ hỏi, Hạ Thiên Tường này xin thử giải đáp xem sao.
Sài Vô Cấu cũng là người bị hãm trong lưới tình, nên tự nhiên cũng chú hết tinh thần lắng nghe hai bên vấn đáp. Hàn Khang cầm chén rượu trong tay nâng cao lên, mời Hạ Thiên Tường cùng nhấp rồi hỏi :
- Xin hỏi Hạ lão đệ, “Si nhân mộng” làm thế nào cho tỉnh?
Hạ Thiên Tường uống cạn chén rượu rồi lập tức trả lời :
- Nghe vài tiếng mõ khuya chuông sớm, mộng “si nhân” há chẳng tỉnh dần ra.
Tái Hàn Khang lại nâng chén rượu thứ hai, hỏi tiếp :
- Lại xin hỏi Hạ lão đệ “Bất liễu tỉnh” làm thế nào dứt đứt?
Hạ Thiên Tường cũng cạn chén, mỉm cười đáp :
- Vung gươm tuệ ngộ chân như, tỉnh “bất liễu” làm sao không đứt.
Hàn Khang lại nâng chén thứ ba, nhìn Hạ Thiên Tường gật đầu cười.
- Hai vấn đề trên, Hạ lão đệ giải đáp thật cao minh, nhưng còn vấn đề thứ ba, là vấn đề thực tế hơn cả ấy là bệnh tương tư trị bằng thuốc gì? Thử xem lão đệ có kê đơn đúng không?
Hạ Thiên Tường cạn nốt chén rượu thứ ba, chép chép môi, đắc ý đáp :
- Phương thuốc này từ xưa đến nay vẫn có, hà tất phải đi đâu tìm kiếm, bệnh tương tư là tâm bệnh, người ta thường có câu rằng tâm bệnh thời nên chữa bằng tâm dược...
Hàn Khang rủa thầm Hạ Thiên Tường thái quá thông minh, định căn vặn cho chàng phải lúng túng, bèn hỏi :
- Hạ lão đệ bảo tâm dược là cái gì? Và ở đâu có tâm dược?
Hạ Thiên Tường nhướng cao đôi mày, đáp luôn không nghĩ :
- Thành tâm thành ý sang Mân Sơn tỉnh Tứ Xuyên, vượt Hồi Đầu phong, qua Môn Tâm Hắc, xuyên Kim Ngọc cốc tới trước Mai Khôi dâng đóa hoa tươi, đọc lời văn bia, cầu Mai Khôi nguyện lực, đó là tâm dược trị bệnh tương tư rất tốt.
Mấy câu đó làm cho Sài Vô Cấu và Tái Hàn Khang đều gật đầu, cho là Hạ Thiên Tường trả lời quá hay. Nhưng ngay lúc đó, chợt nghe trên mỏm núi cao nhất phía sau căn nhà tranh của Tái Hàn Khang, một tràng cười hòa ái thốt nhiên nổi lên, kế đó là tiếng người nói :
- Hạ Thiên Tường đừng quảng cáo cho ta, nên biết rằng trước khi ta giúp ngươi và Sài Vô Cấu hoàn thành tâm nguyện, thì hang Kim Ngọc hãy tạm thời niêm phong, không tiếp thụ tố nguyện Mai Khôi nữa!
Sài Vô Cấu và Hạ Thiên Tường nghe biết tiếng ngay là Mai Khôi sứ giả đã tới, đều đứng lên chắp tay tỏ vẻ cung kính. Tái Hàn Khang cũng đứng lên nhìn về phía ngọn núi cao, mỉm cười nói :
- Mai Khôi sứ giả xin hiện pháp thân, để chúng tôi là những kẻ quê mùa được chiêm ngưỡng tôn nhan.
Trên ngọn núi cao tuy chưa thấy bóng người, nhưng giọng nói ôn hòa vẫn đều đều đưa xuống :
- Tái đại hiệp là một bậc thần y đương thời, công ngang lương tướng, diệu thuật hồi xuân, tính đức còn dày hơn tôi gấp bội, sao lại quá khiêm nhường như vậy? Tôi nhân còn vướng chút việc, tạm thời chưa tiện tương kiến. Nửa bông Chu Hồng Tuyết Liên này mọc ở trên Đại Tuyết sơn, xin đại hiệp hòa lẫn với một giọt Thiên Niên Chi Dịch của Hạ Thiên Tường đem đến, mà khôi phục dung nhan cho Sài Vô Cấu trước đã. Còn một giọt Thiên Niên Chi Dịch nữa, xin để tặng lại cho Hạ Thiên Tường, phòng sau này bất chợt phải dùng đến.
Nói dứt lời, chợt thấy từ trên mỏm núi ném ra một cái túi đựng thuốc tết bằng cỏ lạ màu xanh xanh, lấp lánh bay xuống. Hàn Khang giơ tay đón lấy mở ra xem, quả thấy trong có nửa bông Thu Hồng Tuyết Liên, một vị thánh dược của giới võ lâm.
Sài Vô Cấu và Hạ Thiên Tường thấy Mai Khôi sứ giả không chịu ra mặt, đều tỏ vẻ thất vọng, chợt lại nghe giọng ôn hòa ban nãy từ trên mỏm núi bay xuống :
- Sài Vô Cấu, Long Phi kiếm khách Tư Đồ Úy còn một người anh nữa tên gọi là Lạt Thủ Thần Dương Tư Đồ Kính, phải không?
Sài Vô Cấu khom lưng đáp :
- Tư Đồ Kính và Tư Đồ Úy là anh em song sinh, dung mạo giống nhau như hệt, khác nhau chỉ có một điểm là giữa chỗ mi tâm của Tư Đồ Úy có cái tật đỏ như chu sa, lớn bằng hạt đậu. Người anh đi tu, nhưng hai năm trước vì quá độc ác và kiêu cuồng, nên bị sư tỷ tôi là Băng Tâm thần ni thi triển chưởng lực Ban Thiền, dìm xuống sông chết đuối. Hai phái Điểm Thương và La Phù kết oán càng sâu. Tư Đồ Úy có lẽ cũng vì cớ ấy, nên mới thay lòng, dùng Tử Diệm thần sa hạ độc thủ hủy dung nhan tôi cho hả giận.
Mai Khôi sứ giả nghe xong lẳng lặng giây lát, rồi hỏi Hạ Thiên Tường :
- Hạ Thiên Tường, ngươi đã may mắn gặp Mộ Vô Ưu được biết câu chuyện ở Chung Nam tử cốc, sao không hỏi thăm xem tên họ, môn phái của người thiếu nữ cưỡi con ngựa xanh, tay cầm Ngô Câu kiếm hoặc Khóa Hổ Lam, một mình giết chết Kỳ Liên tứ quỷ mà ngươi gặp ở trên Cửu Nghi sơn dạo nọ.
Hạ Thiên Tường đỏ mặt trả lời :
- Mộ lão tiền bối đoán có thể là trong ba vị cô nương này, một là Hoắc Tú Vân trong Nga Mi Tử Tú, hai là Lộc Như Ngọc đồ đệ Tri Phi Tử phái Côn Luân, ba là Trọng Tôn Phi Quỳnh con gái yêu của Thiên Ngoại Tình Ma Trọng Tôn Thánh.
Mai Khôi sứ giả nghe nói bật cười mà rằng :
- Nhãn quang của người cao quá, ba bông hoa đẹp ấy đều như văn khôi, tường vi cả. Nhưng hoa tuy đẹp mà bông nào cũng có gai nhọn, Mộ Vô Ưu đã đoán như vậy, còn ý kiến riêng của ngươi thế nào?
Hạ Thiên Tường mặt đã bớt đỏ, ngẫm nghĩ một lúc rồi dõng dạc đáp :
- Tôi đã gặp Hoắc Tú Vân, nhưng không giống lắm. Còn hai vị kia nếu căn cứ vào binh khí thì có lẽ là Lộc Như Ngọc...