- Cô gái, nghe cho rõ đây! Một niệm tâm huyết, ngậm phun vào mũi sắc, đâm xuyên cột sống cổ, người cùng trùng đều chết! - Dịch Huyệt Mạch nói lớn từng chữ thật rành mạch, chỉ sợ Hạ Táo Hoa nghe nhầm.
Hạ Táo Hoa buộc phải tự tay đâm chết cha ruột của mình, một khối huyết ứ đã dồn đọng trong tâm, không thể tan đi, đây chính là một niệm tâm huyết.
- Cô gái, mau lên! Lúc này ông ấy chỉ còn lại một cái xác bị điều khiển mà thôi! - Dịch Huyệt Mạch lại hét lên.
Lồng ngực Hạ Táo Hoa tê cứng rồi co thắt lại, một luồng khí lạnh lan rộng sau lưng, lập tức một khối huyết ứ tanh nồng, ngọt lợ từ giữa họng ộc lên đến miệng. Hạ Táo Hoa ngậm đầu nhọn của Phượng chuỷ thích vào trong miệng, khối máu nhanh chóng tan vào mũi nhọn, được hút hết vào trong máng dẫn máu tam giác.
- A...
Hạ Táo Hoa lại rú lên một tiếng, không lớn, song nghẹn ngào như tiếng khóc. Lần này, đầu nhọn của Phượng chuỷ thích đã đâm thẳng vào giữa gáy lão mù, xuyên ngang cột sống, cũng xuyên qua thần trùng trăm chân trăm móc đang bám chặt trên đó. Mũi thích lúc đâm vào còn đẫm máu đỏ tươi, lúc rút ra đã ngả màu xanh lét, sùi bọt phì phì. Cơ thể con trùng nhanh chóng co rút, khô đét lại, lập tức mất đi tác dụng của bùa mất hồn.
Lão mù giống hệt như con rối đứt dây, tay chân rũ rượi đổ ập xuống nền đất. Quả nhiên đã là một cái xác, sau khi con trùng chết đi, có thể lão không còn phản ứng gì nữa.
Hạ Táo Hoa đau đớn không nỡ nhìn bộ dạng chết thảm của cha, vội quay đầu sang bên cạnh, vừa hay thấy Âm Thiên Vương đang cắm đầu lao vụt tới, chỉ còn cách mình vài bước chân. Cô như đã tìm thấy đối tượng để phát tiết cơn đau đớn cùng cực trong tâm, lập tức rú lên một tiếng thê thảm, rồi lao thẳng về phía Âm Thiên Vương tựa như hổ cái xuống núi.
Lỗ Nhất Khí tuy vai bị trúng thương, song trong lòng dù sao cũng nhẹ đi một phần. Chuyện của lão mù đã đè nặng trong lòng cậu rất lâu rồi, từ lúc hoài nghi tới khi khẳng định đích xác, cậu vẫn chưa thể nghĩ ra được biện pháp giải quyết.
Lão mù có lẽ đã bị trúng chiêu từ viện trong viện ở Bắc Bình. Sau khi dùng máu đánh dấu trên cột trụ Thất Phong, rơi vào lưới giảo long song may mắn thoát chết, lão đã nằm hôn mê rất lâu trong hành lang yến quy. Thế nhưng đối phương lại không hề xuống tay hạ sát lão, kỳ thực là đã nhân lúc lão hôn mê để cấy trùng trăm chân trăm móc vào trong cơ thể lão. Từ đó về sau, mỗi khi nghe thấy tiếng sáo, lão mù đều có phản ứng rất bất thường.
Sự hoài nghi của Lỗ Nhất Khí đã bắt đầu từ sau khi con thuyền của Bộ Bán Thốn thoát ra khỏi tam giác Rồng, khi đó sự biến đổi của lão mù đã rất rõ ràng. Lỗ Nhất Khí đã bày mưu ép tai mắt của Chu gia phải xuất đầu lộ diện, tuy lão Xoa thừa nhận mình là do thám của Chu gia, song lại không thừa nhận đã giết người. Khi đó, Lỗ Nhất Khí đã chuyển sự hoài nghi sang lão mù. Bởi lẽ trong lần xảy ra án mạng, từ lúc nửa đêm về sáng, cậu thường ngủ mê man không tỉnh, giống như đã trúng mê hương. Mà lão mù là tặc vương, rất thạo ngón này. Ngoài ra, vết thương của người bị giết có hình lỗ tròn, rất giống với vết thương do đầu gậy thép để lại. Cậu mới nhớ lại khi Thú vương Lang Thiên Thanh sắp từ biệt, đã nhắn với cậu lời dặn của Nhậm Hoả Cuồng, nói rằng bên cạnh cậu có người trúng trùng độc. Khi đó, cậu ngỡ rằng ông muốn ám chỉ Quỷ Nhãn Tam, nhưng sau này ngẫm nghĩ lại, mới thấy có lẽ là lão mù. Bởi vì Nhậm Hoả Cuồng không hiểu gì về tam canh hàn, song ông ta đã từng bị cấy trùng mười chân trăm gai, nên nhận biết được phản ứng khi trúng phải nút trùng tương tự.
Bằng chứng chứng thực cho việc lão mù bị Chu gia kiểm soát chính là cái chết của Hứa Tiểu Chỉ. Trước khi mất mạng, Hứa Tiểu Chỉ đã va trúng vào lão. Sau khi hắn bị đám kền kền quắp bay đi, nhìn vào vết máu nhỏ trên đất, thì thấy rằng hắn đã bị gậy thép đâm trúng. Dẫu rằng lúc đó, Lỗ Nhất Khí vô cùng đau xót trước cái chết của Hứa Tiểu Chỉ, song vẫn nuôi một niềm hy vọng có thể giải cứu lão mù, niềm hy vọng đó chính là Dịch Huyệt Mạch.
Song khảm diện Vô địa tự dung ở cuối đường canh Âm Thế đã khiến tình hình đảo lộn, lão mù đã thoát khỏi tầm kiểm soát của Lỗ Nhất Khí, cho tới khi bị chính con gái ruột đâm chết...
Trời đã sáng bạch. Vừa lao qua mảng tường đổ, Dưỡng Quỷ Tỳ đã nhìn thấy Lỗ Nhất Khí, bèn vội vã lướt về phía cậu.
Lỗ Nhất Khí cũng đã nhìn thấy Dưỡng Quỷ Tỳ, liền đưa tay trái lên lắc khẽ, tỏ ý không muốn cô lại gần. Dưỡng Quỷ Tỳ lòng dạ trong sáng thông minh, lập tức lướt sang ngang, dừng lại ở bên rìa bãi đá Thần Hô.
Phật sống vẫn giữ chặt lấy mũi gậy đã xuyên qua bả vai Lỗ Nhất Khí, rồi tiến sát thêm một chút về phía cậu, nói:
- Người đời không phải ai cũng có thể độ, nếu không có vị cô nương kia, kẻ mất hồn này đã độ hoá ngươi rồi!
Lỗ Nhất Khí gắng gượng nhẫn nhịn cơn đau đớn kịch liệt, từ từ thả lỏng hàm răng đang nghiến chặt, trên môi nở một nụ cười gượng gạo:
- Tôi chưa độ được ông ấy, nhưng cô nương kia đã độ cho ông ấy. Một cú đâm đau đớn, thoát khỏi nỗi thống khổ mất hồn, rời bỏ phàm thế vô vọng, buông bỏ xác thân, không còn giúp kẻ xấu làm điều ác, về miền Cực Lạc. Tôi cũng không phải là chưa độ. Ngài không nhìn thấy tôi đã độ vị cô nương kia ư? Vì tấm thân tàn của tôi, lại càng vì chúng sinh cơ cực, cô ấy đã nén lại nỗi đau thương ngàn vạn, đích thân giết chết cha ruột của mình. Cái tâm từ bi thiện lành này chính là cái tâm hướng Phật.
- Vậy ngươi có biết làm thế nào để độ ta không? - Phật sống hỏi.
- Thiên cơ không lộ, Phật lý tự ngộ. Là lý, là dẫn, là mê, là hoặc, tôn giá hãy tự phản tỉnh.
- Xin thỉnh giáo!
- Trước khi Phật Tổ ngộ đạo, thân phàm tục của người được làm vương tử cao sang, tận hưởng mọi vinh hoa phú quý trên trời, sau đó mới ngộ ra Phật lý không dục đều không. Người phàm chúng ta không có được vị trí tối cao này, bởi vậy nên nhập đạo từ một cảnh giới tối cực khác, việc tu hành đều nên xuất phát từ chữ “khổ”. - Nội dung này Lỗ Nhất Khí đọc được từ bộ sách “Khổ na thoát chư kinh”, một bộ kinh rất ít người biết tới, là nguyên lý của Phật giáo Đại Thừa, có sự khác biệt so với Phật giáo Mật Tông Tây Tạng. Bởi vậy đối với Phật sống, quan điểm này quả thực có phần mới mẻ.
- Thế nào là khổ?
- Biết được nỗi khổ của chúng sinh, chịu khổ vì chúng sinh, khổ tâm, khổ chí, khổ tu, khổ ngộ, sau đó mới có thể bỏ tư dục, vứt thân tục, niệm thành tro. Hành động cử chỉ đều là tự nhiên, tứ xúc đều là hư không, mà đăng cõi huyền nhập Phật cảnh. – Trong những lời này, Lỗ Nhất Khí lại thêm vào màu sắc đạo huyền hư tự nhiên của Đạo giáo, những nội dung này Phật sống lại càng chưa từng nghe thấy.
- Phải làm thế nào?
- Đưa tôi lên Thiên Thê.
- Ngươi tới độ ta?
- Không phân ta hay người, độ người cũng chính là độ mình. Tôi làm theo ý trời, ngài tu hành theo Phật.
- Cứ cho là vậy! - Phật sống nói đoạn, lập tức ra tay.
Trong chớp mắt, thép gãy tan tành, máu phun tung toé...
Muốn qua được bãi Vân thú mây trời chín sắc có hai cách, cách thứ nhất là giải khảm mà đi, cách này Mạc Thiên Quy không làm được, cũng không kịp làm. Cách thứ hai là băng qua phía trên khảm diện, nhưng vấn đề là ở chỗ qua được bãi Vân thú mây trời chín sắc, phía bên kia lại có khảm diện tháp trắng lọng vàng. Phương pháp bay qua liệu có thực hiện được đối với ngọn tháp trắng kia không?
Phân tích theo bố cục của không gian xung quanh, trên tháp trắng chắc chắn sẽ có nút lẫy chồng chéo lên Vân thú mây trời chín sắc, hơn nữa, phạm vi sát thương của nút lẫy tại đó rất có thể được dùng để bù đắp cho khiếm khuyết từ hình thức bố trí trên mặt phẳng của khảm diện Vân thú mây trời chín sắc. Nếu đúng là như vậy, Mạc Thiên Quy không những phải bay lên, mà còn phải di chuyển men theo phần rìa khảm chồng chéo giữa hai khảm diện ở một vị trí thích hợp, như vậy mới có thể vượt qua an toàn.
Vị trí thích hợp ở đâu? Rìa khảm có hình thù như thế nào? Những điều này, Mạc Thiên Quy chỉ có thể phán đoán được sau khi tới sát tháp trắng. Lúc này, việc lão cần làm chính là bay lên cái đã.
Khinh công của Mạc Thiên Quy không bằng lão mù hay Hạ Táo Hoa, nhưng khiếm khuyết về công lực sẽ được bù đắp bằng công cụ. “Nhện bay”, bốn cánh tám chân, được chế tạo từ thép tinh vùng Quan Ngoại, chế tác bằng các kỹ thuật dùi lỗ, dát mỏng. Mạc Thiên Quy lên chốt thật căng, chỉ thấy nó kêu “rè rè” một tiếng, rồi lập tức bay lên. Khi “nhện bay” bay đi, từ lỗ thủng phía sau đuôi thả xuống một sợi dây vàng bện ba múi do xưởng dệt Kim Lăng chế tạo. “Nhện bay” lượn một vòng quanh tháp trắng rồi hạ xuống một mặt nghiêng tại lưng chừng tháp, tám chân quặp lại, đồng loạt bám chặt vào khe gạch. Mạc Thiên Quy nâng nhẹ sợi dây kim tuyến, đặt lên trên nó một bánh xe ròng rọc nhỏ cực kỳ tinh xảo, trên móc câu của ròng rọc có mang theo một sợi dây đay to hơn sợi dây kim tuyến một chút. Sợi dây này chỉ nặng hơn sợi dây kim tuyến một chút, song sức kéo mạnh hơn rất nhiều. Sau đó, lão nhẹ nhàng kéo lắc sợi kim tuyến, bánh xe ròng rọc liền trượt về phía trước dọc theo sợi dây kim tuyến. Rõ ràng, trong bánh xe ròng rọc có lắp răng khoá một hướng.
Bánh xe ròng rọc nhanh chóng đâm vào “nhện bay”, vòng móc phía trên ròng rọc từ từ trượt vào móc câu mở vào trong ở trên đuôi “nhện bay”.
Mạc Thiên Quy tiếp tục buộc sợi dây đay vào một tấm vải kẹp trúc vân đốt rộng cỡ bàn tay. Thứ vải này được dệt từ sợi da và lông bờm động vật, vô cùng chắc chắn, hơn nữa cách một đoạn lại có gắn kẹp trúc, dùng để trợ lực.
Sau khi cuộn vải kẹp trúc đã tới vị trí thích hợp, Mạc Thiên Quy ghim chắc đầu cuộn vải lên trên cột trụ góc của bức tường phía ngoài toà điện bên trái bằng một chiếc đinh đầu lợn hai nanh. Chiếc đinh đầu lợn hai nanh cũng giống như “nhện bay” tám chân, sau khi chịu lực, hai nanh và tám chân càng thu càng chắc, càng kéo càng cắm sâu vào trong vật cố định.
Nói thì rườm rà, song kỳ thực toàn bộ quá trình thao tác lại diễn ra cực kỳ nhanh chóng. Chỉ một loáng sau, Mạc Thiên Quy đã băng qua không trung trên tấm vải kẹp trúc. Tuy rằng đã có vật trợ giúp, song bước đi vẫn như sóng đánh, thân hình vẫn như lá bay. Trong tư thế chao đảo liên hồi, Mạc Thiên Quy đã tới được vị trí giao nhau giữa hai khảm diện. Đã tới chỗ này, sẽ không thể đi tiếp được nữa, vì tăng cường lực tác động lên ngọn tháp trắng, rất có thể sẽ dẫn động một số chốt lẫy ở phía đó. Hơn nữa, bên dưới ngọn tháp chắc chắn sẽ không có vị trí giẫm chân an toàn, đi tiếp về phía trước cũng không có nghĩa lý gì. Biện pháp tốt nhất là từ đây tìm ra vị trí xếp chồng của hai khảm, sau đó men theo rìa khảm ngoặt sang một hướng khác.
Bãi Vân thú mây trời chín sắc là một bề mặt trải rộng, còn khảm diện tháp trắng lọng vàng là một vòng tròn lấy thân tháp làm trung tâm, cục thế sát thương là từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên. Như vậy, xem ra vị trí chồng chéo giữa hai khảm có lẽ là ở phía trên bãi Vân thú mây trời chín sắc, là một đường vòng cung ở khoảng lưng chừng tháp. Độ cao của vị trí này rất dễ tìm ra, song vấn đề là làm thế nào để bay lên cao mà đi theo đường vòng cung được?
Mạc Thiên Quy nhắm sẵn một cây cột trụ trên hành lang vòng quanh tháp, phóng một sợi dây thừng về phía đấy có thể mượn lực để lao thẳng tới mé phía tây. Song nếu làm như vậy, chắc chắn sẽ có hơn nửa quãng đường không thể ở chính xác trên rìa khảm.
Thời gian cấp bách, nên Mạc Thiên Quy từ bỏ ý định tính toán kỹ lưỡng hơn, mà quyết định sẽ mạo hiểm. Lão xưa nay hành sự thận trọng, rất hiếm khi làm như vậy.
Một con “nhện bay” khác đã được phóng đi, mang theo một sợi dây đay, găm chắc trên cột trụ hành lang. Mạc Thiên Quy kéo căng sợi dây đay, thử qua độ chắc của nó. Sau đó nội ngoại khí vận chuyển đủ một vòng, bàn tay, cánh tay, vai, lưng eo, hông, chân, bàn chân nhất tề vận lực theo một đường thẳng, chuẩn bị tung người phóng đi.
Đúng vào thời khắc đó, từ cửa sau toà điện bên trái đột ngột xẹt ra một luồng đao khí vô cùng dữ dội. Đao khí không tiếng động, song kẻ xuất đao lại gầm khẽ một tiếng vô cùng quái đản, khiến người ta nghe mà rùng rợn trong tim, hoảng loạn không biết phải làm gì. Đúng là dùng tiếng doạ người, dùng đao giết người.
Đao Thập Lục đã xuất hiện, tình hình trước mắt khiến gã chẳng kịp nghĩ ngợi gì thêm, lập tức tung người lao ra. Người xuất hiện, đao sẽ xuất hiện. Đao xuất hiện, sẽ đoạt mạng người. Mục tiêu xuống đao là tấm vải kẹp trúc. Tấm vải bị cắt đứt, Mạc Thiên Quy sẽ rơi ngay xuống phạm vi hợp sát của bãi Vân thú mây trời chín sắc và tháp trắng lọng vàng.
Đao đã hạ, vải đã đứt, Mạc Thiên Quy rú lên một tiếng thất thanh...
Dịch Huyệt Mạch nhìn thấy Hạ Táo Hoa đâm một nhát xuyên thấu cột sống cổ lão mù, cuối cùng cũng cúi đầu thở hắt ra một hơi. Vừa cúi đầu, liền nhìn thấy Chu Chân Mệnh và đường chủ Cứ Điên đường Cao Bôn Lôi phía dưới. Cao Bôn Lôi cũng đang ngước lên trên dò xét. Bốn mắt giao nhau, lập tức đồng thời ra tay.
Dịch Huyệt Mạch vung tay búng ra vài tia sáng mảnh như lông bò. Chuỳ bôn lôi trong tay Cao Bôn Lôi cũng đã phóng vụt đi. Chuỳ bôn lôi kích thước to lớn, tuy tốc độ bay chậm, song lại mang theo một kình lực vô song. So sánh với nó, những mũi kim bạc của Dịch Huyệt Mạch thật quá nhỏ bé yếu ớt, chẳng thấm tháp vào đâu.
Chuỳ bôn lôi đánh bạt đám kim bạc, đập thủng tường lan can. Chớp mắt, đám kim bạc đã lẫn lộn trong đám vữa vỡ đá vụn, bay tung toé khắp trời.
Đối mặt với thế tấn công như vũ bão, Dịch Huyệt Mạch chỉ biết liên tục thoái lui. Chân bước liên tục theo thế bàn hoa bộ đan chéo, thoắt cái đã lùi tới hơn chục bước, ẩn mình tĩnh lặng quan sát sự biến hoá tiếp theo của chuỳ bôn lôi.
Chuỳ bôn lôi có thể bay đi tấn công, là vì trên cán chuy có gắn một sợi xích lớn bằng thép trắng Miến Điện, giúp chuỳ đánh đi hay giật lại đều thuận tiện dễ dàng.
Sợi xích thép trên cán chuỳ bay một vòng rồi quấn chặt vào gióng ngang trên lan can. Cao Bôn Lôi vận kình giật mạnh, người đi theo xích, cơ thể cao lớn vạm vỡ đã bay vọt lên hết sức nhẹ nhàng, lao lên theo con dốc nghiêng xếp bằng đá, chỉ hai cú đá chân mượn lực, người đã ở trên thành lan can. Sau đó sợi xích rũ mạnh giật về, chuỳ bôn lôi lập tức nhảy vào nằm gọn trong tay tựa như sinh vật sống.
Một hán tử to cao lực lưỡng, tay cầm ngang cây chuỳ lớn bằng đồng, cán ràng xích sắt, vẻ lẫm liệt khác nào thiên tướng. Đối mặt với một cao thủ như vậy, Dịch Huyệt Mạch đã cảm thấy sợ hãi. Ông nhận thấy rằng trong phạm vi hoạt động của chuỳ bôn lôi, ông không thể tìm ra một khe hở nào để phóng kim. Không có khe hở để phóng kim, đám kim bạc của ông cũng trở nên vô dụng.
Cao Bôn Lôi xoạc chân bước từ trên thành lan can xuống, nhìn bộ dạng căng thẳng của Dịch Huyệt Mạch, thì cười lớn mà nói:
- Chỉ còn lại mình ngươi thôi à? Chớ căng thẳng, sớm muộn rồi các ngươi cũng sẽ gặp lại nhau trên đường luân hồi thôi! - Giọng nói của hắn oang oang như sấm nổ.
Dịch Huyệt Mạch không nói gì, vẻ mặt trông rất khó coi. Vạt áo trên người rung lên khẽ khẽ, song không phải vì gió thổi, bởi lẽ lúc này nơi đây không một chút gió.
- Ngươi run à? Không thể nào! Dám xông vào trong chùa, lại có thể tới được tận đây, tuyệt đối không phải hạng tầm thường. Đừng có giả bộ để loè ta, ta không mắc lừa mánh khoé này của ngươi đâu! – Cao Bôn Lôi ăn nói rườm rà, trái ngược hẳn với dáng vẻ của hắn.
Song Dịch Huyệt Mạch hiểu rõ, thứ mất cân đối nhất với bộ dạng bề ngoài của Cao Bôn Lôi chính là tâm tư tinh tế của hắn. Ông vừa cố tình tỏ ra khiếp nhược, đã lập tức bị hắn phát giác ra. Bởi vậy Dịch Huyệt Mạch chỉ có thể tập trung chú ý để tìm kiếm, tìm kiếm chuẩn xác một vị trí mà người bình thường không thể tưởng tượng ra.
Cao Bôn Lôi từ từ bày ra tư thế công thủ song toàn. Hắn chưa bao giờ xem thường bất cứ đối thủ nào, đây cũng là nguyên nhân khiến hắn có thể tồn tại lâu đến thế trong chốn giang hồ hiểm ác. Dịch Huyệt Mạch cũng thu lại vẻ khiếp nhược nguỵ trang, hết sức thận trọng rút ra một chiếc kim bạc từ trong bình kim. Chỉ một chiếc duy nhất, song chiếc kim này dài hơn gấp ba lần kim bình thường. Vì dài, nên trông nó mảnh hơn, mềm mại hơn nhiều, cảm giác còn không đủ sức xuyên qua tấm vải.
Một chiếc chuỳ đồng to lớn nặng nề, một sợi kim bạc mảnh dẻ, cả hai bên đều hy vọng trong trận quyết chiến đẫm máu này, có thể định rõ hơn thua trong khoảng thời gian ngắn nhất.
Chu Chân Mệnh trong thâm tâm rất hài lòng trước phản ứng và hành động của Cao Bôn Lôi. Quả nhiên là một tay giang hồ lão luyện đã quen lăn lội sa trường, vừa nhìn thấy tình hình biến đổi đã hành động chớp nhoáng, vừa ra tay đã giành thế thượng phong, phong toả chặt chẽ lối đi bên trên. Như vậy, hắn có thể ung dung đi qua từ phía dưới, sang phía bên kia theo dõi sát sao Lỗ Nhất Khí.
Chu Chân Mệnh mau chóng băng qua con đường hẹp phía dưới, lặng lẽ tiến về phía cuối tường Phật Thị. Đi ra theo lối đó, hắn đã có thể gặp được Phật sống và Thú Cơ nương nương. Như vậy, Lỗ Nhất Khí chẳng khác nào một con chim bị nhốt trong lồng. Trước hết, Chu Chân Mệnh sai tiểu Lạt ma truyền mệnh lệnh cho Đại hộ pháp và Âm, Dương Thiên Vương bức bách Lỗ Nhất Khí mau chóng quật bảo, còn hắn sẽ rình bên cạnh tìm thời cơ cướp lấy. Song tiểu Lạt ma vẫn còn một mệnh lệnh chưa truyền đạt hết, đó là chỉ để cho một mình Lỗ Nhất Khí sống sót.