1. Các lời phê phán về dân tộc Trung Hoa
Sự phát kiến ra văn minh Trung Hoa là công của thế kỉ XVIII, “thế kỉ ánh sáng”. Diderot viết về người Trung Hoa như sau: “Mọi người đều công nhận rằng dân tộc ấy văn minh hơn hết thảy các dân tộc khác ở châu Á: lịch sử họ cổ hơn, tinh thần, nghệ thuật tiến bộ hơn, họ minh triết hơn, thích triết lí, chính trị của họ hoàn hảo hơn; và vài tác giả còn bảo rằng về tất cả các phương diện ấy, họ không kém các xứ văn minh nhất châu Âu”[1]. Và Voltaire cũng bảo: “Chúng ta nhận thấy rằng quốc gia ấy tồn tại một cách rực rỡ từ trên bốn ngàn năm rồi mà luật pháp, phong tục, ngôn ngữ, cách ăn mặc vẫn không thay đổi bao nhiêu…[2] Người Trung Hoa hơn hẳn các dân tộc khác trong hoàn vũ”. Khi người ta biết kĩ Trung Hoa hơn thì lòng hâm mộ ấy vẫn không giảm, và một số nhà quan sát hiện đại còn tỏ vẻ cảm phục, tôn kính dân tộc đó nữa. Trong một cuốn vào hạng bổ ích nhất, gợi ý nhất của thời đại chúng ta, Keyserling kết luận rằng:
Chính ở Trung Hoa thời thượng cổ người ta đã tạo ra được cái mẫu mực nhân loại thông thường hoàn toàn nhất… Trung Quốc đã tạo được một nền văn hóa cao nhất từ trước tới nay… Tôi càng ngày càng ngạc nhiên, cảm kích về sự cao quí của Trung Quốc. Những danh nhân xứ đó có kiến thức, giáo dục hơn danh nhân của chúng ta nhiều… Những ông quan đó[3] có tư cách thật cao, khiến chúng ta phải phục… Giới trí thức Trung Hoa thật là cực kì nhã nhặn, lễ độ!... Không còn nghi ngờ gì nữa, họ hơn hết thảy các dân tộc khác về hình thức, lễ nghi… Người Trung Hoa có lẽ là người thâm trầm nhất[4].
Người Trung Hoa không muốn từ chối những lời khen tặng ấy và cho tới đầu thế kỉ hiện tại họ vẫn đồng thanh gọi người Âu Mỹ là dã man, chắc hiện nay một số vẫn còn giữ ý kiến ấy. Tới năm 1860, trong các công văn, người Trung Hoa vẫn còn dùng chữ “di” (mọi rợ) để trỏ ngoại nhân, và các “Tây di” (rợ phương Tây) phải ghi rõ trong các hoà ước kí năm ấy rằng Trung Hoa phải bỏ lối dịch “ngoại nhân” ra “di” đi[5].
Như hầu hết các dân tộc khác, “người Trung Hoa tự cho mình là dân tộc thuần phong mỹ tục nhất, văn minh nhất thế giới”. Có lẽ họ có lý, mặc dầu tính cách lạc hậu của khoa học, cùng các thói tệ trong kĩ nghệ của họ, mặc dầu các thị trấn của họ hôi hám, đồng ruộng đầy rác rưởi, mặc dầu lụt tàn phá đất đai, gây những vụ đói kém, mặc dầu họ tàn ác, thản nhiên tới vô tình, sống cực khổ, tin dị đoan, sanh sản nhiều, nội loạn lắm, đôi khi tàn sát lẫn nhau, mà lại hèn nhát, nhục nhã. Vì người ngoại quốc chỉ thấy bề ngoài đó thôi, biết đâu rằng phía sau là một trong những nền văn minh cổ nhất, phong phú phất mà chúng ta được biết, là những truyền thống thi ca đã có từ 1.700 năm trước T.L., những triết thuyết có tính cách vừa lí tưởng vừa thực tế, thâm thuý mà lại dễ hiểu; là cái tài sản vô song trong nghệ thuật hoạ và đồ gốm; cái ý thức toàn mĩ trong các tiểu nghệ thuật mà chỉ có người Nhật mới sánh được, là một nền luân lí hiệu nghiệm nhất thế giới từ trước tới nay, một tổ chức xã hội bền vững nhất kết hợp được một số dân đông nhất chưa từng thấy trong lịch sử, một chính thể mà các triết gia cho là lí tưởng, cho tới khi bị cách mạng lật đổ; một xã hội đã văn minh rồi khi mà người Hy Lạp còn dã man, xã hội đó đã thấy thời thịnh rồi suy của Babylonie, Assyrie, Ba Tư, Judée, Athène và Rome, Venice và Y Pha Nho, và chưa biết chừng nó sẽ còn tồn tại khi mà cái bán đảo nhỏ mà chúng ta gọi là châu Âu kia trở về trạng thái dã man, ngu độn, tối tăm. Vậy đâu là bí quyết của sự bất biến về chính thể, sự khéo léo về tay chân và sự quân bình, thâm thuý về tâm hồn đó?
Đất đai – Nòi giống – Thời tiền sử
Nếu chúng ta coi Nga là một cường quốc Á châu – cho tới thời Đại đế Pierre [1672-1725], nó như vậy thật, và sau này nó có thể lại thành như vậy – nếu bỏ Nga ra thì châu Âu chỉ còn là một hải giác nhô ra của châu Á, là tiền đồn kĩ nghệ của một nội địa trồng trọt mênh mông, là cái vòi của một lục địa khổng lồ. Trung Quốc lớn và đông dân bằng châu Âu, chiếm ưu thế trên lục địa ấy. Suốt một thời gian lớn nhất trong lịch sử của nó, Trung Quốc sống cô lập: một bên là biển cả, một bên là những dãy núi rất cao và một sa mạc vào bực rộng nhất thế giới; nhờ vậy nó được an toàn, ổn định, thành một xứ không có gì thay đổi. Cho nên người Trung Quốc không gọi nước họ là Tần (Chine) mà gọi là “Thiên hạ”, hoặc “Tứ hải” hoặc “Trung Quốc”, nước ở giữa; hoặc “Trung Hoa quốc”, nước tươi tốt, nở hoa[6], và từ hồi cách mạng Tân Hợi, thì gọi là Trung Hoa dân quốc. Hoa thì rất nhiều mà cảnh thì cũng đủ loại: núi non hiểm trở, sông nước mênh mông, ghềnh thác ào ào, ải đạo thăm thẳm, nắng sương hoà hợp với nhau để tô điểm thiên nhiên. Miền Nam phì nhiêu nhờ sông Dương Tử dài năm ngàn cây số; miền Bắc được sông Hoàng Hà bồi đắp bằng phù sa khi chảy qua những khu hoàng thổ, cảnh vật kì dị; dòng sông thường đổi chỗ, xưa đổ ra Hoàng Hải nay đổ ra Bột Hải, và chưa biết chừng rồi đây lại đổ ra Hoàng Hải nữa. Văn minh Trung Hoa đã phát dọc hai con sông đó và vài con sông lớn khác như sông Vị[7] khiến các loài thú dữ và rừng rú phải lùi dần vào trong xa, mà các dân tộc dã man ở chung quanh cũng không dám bén mảng lại gần; người ta đã khai phá các bụi gai, diệt các côn trùng nguy hiểm, rửa phèn trong đất, tháo nước trong đầm, chống lại lụt lội và hạn hán, tìm cách ngăn các dòng sông lớn không cho phá phách, kiên nhẫn và khó nhọc đưa nước vào cả ngàn con kinh nhỏ để tưới ruộng, trong hàng thế kỉ liên tiếp xây cất chòi, nhà cửa, đền đài và trường học, dựng nên làng xóm thị trấn. Người xưa đã tốn biết bao công tạo lập nền văn minh đó để người bây giờ tàn phá không tiếc tay!
Không ai biết dân tộc Trung Hoa từ đâu tới, thuộc giống người nào, đã văn minh từ bao lâu rồi. Bộ xương của “Người Bắc Kinh” khai quật được mấy năm trước đây cho ta đoán rằng loài vượn lớn giống người đã có ở Trung Hoa từ thời thượng cổ xa xăm nhất; mặt khác, công trình khảo cứu của Andrews đã đưa tới kết luận này là 20.000 năm trước T.L., xứ Mông Cổ đã đông dân cư, khí cụ của họ thuộc thời “azilien”, thời trung thạch khí[8] ở châu Âu, rồi khi miền Nam Mông Cổ càng ngày càng khô nóng, thành sa mạc Gobi thì giống người đó tràn sang Tây Bá Lợi Á và Trung Hoa. Những phát kiến của
Tuy nhiên, vì ở xa, chúng ta có cảm tưởng lầm rằng nền văn minh ấy hoặc dân tộc Trung Hoa thuần nhất. Không. Vài yếu tố của nghệ thuật Trung Hoa thời nguyên thuỷ hoặc vài đồ thường dùng cơ hồ như xuất phát ở Mésopotamie và Turkestan chẳng hạn đồ gốm thời tân thạch khí ở Hà Nam gần y hệt đồ gốm thời tân thạch khí ở Suse hoặc ở Anau[9]. Cũng vậy, giống “Mông Cổ” hiện nay đã lai rất nhiều giống người di trú từ các nơi khác lại:
Thời khai thiên tịch địa theo quan niệm Trung Hoa – Văn hoá xuất hiện – Rượu và quản bút – Các ông vua thánh đức – Một ông vua không tin thần linh
Người ta bảo Trung Hoa là “Thiên đường các các sử gia”. Thực vậy, trong mấy ngàn năm, nó đã có những viên thái sử ghi chép tất cả những gì xảy ra và nhiều điều khác nữa. Chỉ từ năm 776 trước T.L., những lời của họ mới gần đáng tin[10], mặc họ chép kĩ lịch sử của họ từ 3.000 năm trước T.L. và nhiều nhà không do dự gì cả, kể cho ta nghe cả thời khai thiên tịch địa nữa. Họ bảo ông tổ của loài người, Bàn Cổ, sau mười tám ngàn năm gắng sức, đã tạo nên thế giới vào khoảng 2.299.000 năm trước T.L. Bàn Cổ thở thì thành gió, mây; nói thì thành sấm; mạch máu của ông là sông, thịt ông là đất, tóc là cỏ và cây, xương là kim loại, mồ hôi đổ ra thành mưa; sau cùng những con sâu bọ bám vào người ông thành loài người.
Chúng ta không có cách nào chứng minh được rằng vũ trụ luận tài tình đó của họ sai.
Theo truyền thuyết, các ông vua đầu tiên trị vì mỗi ông mười tám ngàn năm. Khó khăn lắm mới biến đổi loài chí rận ở trên mình Bàn Cổ thành con người văn minh. Người ta kể rằng “trước khi có các ông vua ấy, loài người như loài thú, che thân bằng da, ăn thịt sống, biết mẹ mà không biết cha” – Stridberg cho rằng ngay thời hiện đại, ngoài Trung Quốc, cũng còn những dân tộc dã man như vậy.
Sau cùng vua Phục Hi xuất hiện năm 2.852 trước T.L.; ông được một bà vợ tài giỏi, rất có kiến thức giúp sức, dạy cho dân tộc hôn lễ, âm nhạc, chữ viết, cách vẽ, câu bằng lưới, nuôi gia súc, nuôi tằm để lấy kén. Khi chết, ông truyền ngôi cho Thần Nông, ông tổ nghề nông, người sáng chế lưỡi cày bằng gỗ, tổ chức các chợ cho dân buôn bán và tìm ra nhiều thứ cây cho dân trị bệnh. Vậy là truyền thuyết vốn thích nhân vật hơn ý tưởng, đã qui công lao khó nhọc của biết bao thế hệ vào vài nhân vật. Sau vua Thần Nông là Hoàng Đế, một ông vua hiếu chiến, chỉ giữ ngôi một thế kỉ mà đã tặng cho Trung Hoa kim chỉ nam và bánh xe, đặt ra chức thái sử, xây cất những ngôi nhà đầu tiên bằng gạch, dựng một thiên văn đài để quan sát những vì sao, sửa lại lịch, chia lại đất. Rồi tới vua Nghiêu trị dân một trăm năm nữa, rất sáng suốt nhân từ, tới nỗi Khổng Tử, một ngàn tám trăm năm sau – giữa một thời nhiều người cho là thời tà giáo, thích cái mới – phàn nàn rằng Trung Quốc đã suy đồi. Vị hiền triết già ấy có cái thói không ngại làm sai sự thực đi đôi chút để lịch sử có một ý nghĩa luân lí, bảo rằng thời vua Nghiêu, dân chúng chỉ nhìn mặt Ngài mà cũng hoá ra đạo đức hết. Để công việc cải cách được dễ dàng, vua Nghiêu cho treo ở cửa cung điện một cái trống, dân có thỉnh nguyện điều gì thì đánh trống cho triều đình biết, họ còn có thể ghi lên một tấm bảng những lời chỉ trích chính quyền. Kinh Thư chép:
Vua Nghiêu giữ ngôi một trăm năm, thọ một trăm mười sáu tuổi. Ông nhân từ như Thượng Đế, minh triết như các vị thần. Ở xa thấy ông toả hào quang như một đám mây rực rỡ, lại gần thấy ông chói lọi như mặt trời. Ông giàu có mà không phô trương, uy nghi mà không xa hoa. Ông đội một cái mũ vàng, bận một chiếc áo màu sẫm, ngồi một chiếc xe thắng hai con ngựa trắng. Nóc cung điện ông không trang sức, đòn tay không bào nhẵn, đầu cây đà không trạm trổ. Bữa thường là một món canh nấu sao cũng được mà không dùng thức ngon. Ăn trong một cái chén sành bằng một cái muỗng gỗ. Không bao giờ đeo đồ vàng, ngọc, quần áo không thêu thùa, rất giản dị mà không nhiều bộ. Ông không chú ý những cái đặc biệt, những biến cố lạ lùng và không thích những vật quí. Không thích nói đùa, xe không gắn huy hiệu gì cả… Mùa hè ông bận một chiếc áo vải, mùa đông thêm một chiếc áo cầu bằng da hoẵng. Vậy mà ông vẫn là ông vua giàu nhất, sáng suốt nhất, được dân yêu quí nhất ở Trung Quốc, mà triều đại ông cũng là triều đại dài nhất[11].
Ông cuối cùng trong số “Ngũ Đế” là vua Thuấn, một người con chí hiếu, một vị anh hùng kiên nhẫn trị nạn lụt của sông Hoàng Hà, sửa lại lịch, qui định đồ đo lường, được học sinh mọi thời nhớ ông vì ông bắt các nhà giáo dùng thứ roi nhỏ hơn để trừng trị học trò. Theo truyền thuyết thì về già vua Thuấn tin dùng một ông quan tài giỏi nhất, tức ông Vũ, người có công trị thuỷ, đục chín ngọn núi, tạo chín cái hồ để ngăn lụt. Người Trung Hoa bảo: “Không có ông Vũ thì chúng ta đã thành cá hết rồi”. Chính trong triều đại ông Vũ có người chế tạo được rượu nếp, dâng lên ông, ông hất xuống đất bảo: “Một ngày kia sẽ có kẻ vì thứ rượu này mà mất nước”. Ông đày người đó đi xa và cấm dân dùng rượu. Từ đó người Trung Hoa mới uống rượu bồ đào. Bỏ nguyên tắc truyền hiền, vua Vũ đặt ra qui tắc truyền tử, và sáng lập ra nhà Hạ, có lợi cho con cháu ông, từ đó những kẻ ngu xuẩn hoặc tầm thường có thể nối ngôi các vị tài giỏi mà trị dân. Cuối đời Hạ là một ông vua ngông cuồng, tên Kiệt; ông ta một hôm cùng với bà vợ nảy ra ý bắt ba ngàn người dân nhảy xuống một hồ rượu rồi chết trong đó[12].
Chúng ta không có cách nào phê phán các truyện về đời Hạ do những sử gia đầu tiên của Trung Quốc chép lại. Có những nhà thiên văn học cho rằng cổ sử Trung Hoa ghi đúng: năm 2165 trước T.L. có nhật thực thật, nhưng có những nhà phê bình đáng tin đả phá kết luận đó. Các giáp cốt đào được ở Hà
Trụ, ông vua chế tạo ra quản bút [?][14] mà cũng là ông vua cuối đời Thương (Ân), tàn bạo không thể tưởng tượng được. Một hôm ông bảo: “Ta nghe nói trái tim con người có bảy lỗ, ta muốn mổ trái tim của Tỉ Can [một thiếu sư] xem có đúng vậy không”. Vợ ông ta tên là Đát Kỉ là một con quỉ dâm dục, tàn bạo, bắt vũ nữ múa những điệu tục tĩu ở triều đình, còn trong vườn Thượng uyển thì đàn ông đàn bà lượn qua lượn lại, hoàn toàn khoả thân. Khi nghe dân chúng chê bai, mụ còn trừng trị tàn nhẫn hơn nữa để bịt miệng dân: bắt kẻ nào nổi loạn phải cầm một miếng kim thuộc nung đỏ; hoặc bôi mỡ đầy mình người đó rồi bắt đi trên bờ một cái hố chất đầy than hồng, thấy họ té xuống hố, da thịt cháy xèo xèo, mụ thích lắm.
Dân trong nước nổi loạn, hợp lực với ngoại xâm lăng Tây Chu, lật đổ được vua Trụ. Từ đó bước qua đời Chu, triều đại cầm quyền lâu nhất ở Trung Quốc. Vua Chu thắng rồi, thưởng công những kẻ giúp sức mình, cho họ làm vua các nước chư hầu; do đó có chế độ phong kiến. Chế độ này làm cho chính quyền trung ương [tức ngôi thiên tử của nhà
[1] Trong bộ Encyclopédie mục viết về Trung Hoa.
[2] Trong cuốn Essai sur les moeures (Khảo luận về phong tục), chương I [Diderot và Voltaire là hai triết gia Pháp ở thế kỉ XVIII)].
[3] Những ông quan ở Thanh Đảo bị giải nhiệm [không rõ năm nào, vì lẽ gì].
[4] Những trích dẫn không đặt trong dấu ngoặc kép như thế này, thường thì trong sách cho in thụt vào (đôi khi lại không); tôi cũng cho thụt vào và dùng chữ nghiêng (vì dễ thể hiện chữ nghiêng trên TVE hơn). (Goldfish).
[5] Một học giả Trung Hoa đã giúp Tiến sĩ Giles dịch vài bản trong bộ Trích dịch văn học Trung Hoa. Khi từ biệt, Giles tăng ông ta một bài thơ trong đó có hai câu dễ thương này: Từ hồi nào tới giờ, văn chương vẫn làm rực rỡ dân tộc minh triết nhất thế giới. Và bây giờ nhờ ảnh hưởng của nó mà một công chức di dịch đã được tái sinh).
[Trong câu thơ sau, sách in “công chức đi dịch” tôi tạm sửa lại thành “công chức di dịch”, nhưng không chắc là đúng; và tôi cũng không hiểu tại sao Will Durant lại bảo hai câu thơ đó “dễ thương”? Phải chăng Giles nói đùa rằng mình là “di” (mọi rợ) vì “ngoại nhân” được người Trung Hoa “dịch là di”? Hay Giles tự dịch vui rằng, ông, một “ngoại nhân dịch” thơ Trung Hoa là “di dịch”? Nguyên văn tiếng Anh của câu sau là: And now its influence has gone forth to regenerate a barbarian official (tạm dịch: Và giờ đây, nhờ ảnh hưởng của nó mà tái sinh một quan chức mọi rợ). (Goldfish)].
[6] Về danh từ Trung Hoa, còn một thuyết nữa. Từ trước đời Chu, Trung Hoa đã có tên là Hoa Hạ vì Hán tộc (dân tộc Trung Hoa) mới đầu tụ họp ở bờ sông Hạ Thuỷ (sông này bắt nguồn ở Hồ Bắc, đổ vào Trường Giang) mà khu vực trung tâm của họ ở chân núi Hoa Sơn (tại Thiểm Tây). (ND).
[7] Ngang Thượng Hải, sông Dương Tử rộng 5 cây số.
[8] Thời azilien: tức thời chuyển tiếp giữa thời kì đồ đá cũ và thời kì đồ đá mới. - Trung thạch khí: sách in sai thành tân thạch khí; nguyên văn tiếng Anh là mesolithic. – Thời kì tân thạch khí: nguyên văn tiếng Anh là neolithic, ngày nay nhiều người dịch là thời kì đồ đá mới. (Goldfish).
[9] Suse: một thị trấn thời thượng cổ ở Mésopotamie – Anau ở Suse.
[10] Có lẽ tác giả cho lời các sử gia viết về thời Xuân Thu trở về sau “mới gần đáng tin”? Thời Xuân Thu từ 770 đến 225 trước T.L. (Goldfish).
[11] Will Durant bảo trích đoạn ấy trong cuốn Book of History (Thư Kinh), nhà xuất bản W.G. (?), nhưng chúng tôi tra Thư Kinh không thấy. (ND).
[12] Không rõ tác giả rút tài liệu ở đâu. (ND).
[13] Vua Thành Thang diệt vua Kiệt và lập nên nhà Thương. (Goldfish).
[14] Bản tiếng Pháp: “Inventeur desbatonnetes” (người chế tạo ra những gậy nhỏ). Tôi đoán là quản bút. Mới đầu người Trung Hoa dùng dao khắc chữ lên thẻ tre; tới đời Thương dùng những cái que có đầu nhọn chấm vào một thứ sơn viết lên thẻ tre – tức như quản bút – sau tới đời Tần mới dùng những cành trúc đầu cắm lông để nhúng vào sơn viết lên lụa. (ND).
[Cũng có thể là đôi đũa. Bản tiếng Anh: “inventor of chopsticks” (người phát minh ra những chiếc đũa). Theo bài Chinese Chopsticks đăng trên trang http://chineseculture.about.com/library/weekly/aa_chopsticks02a.htm thì: “Nó (tức đôi đũa) được ghi trong Kinh Lễ rằng đũa đã được sử dụng trong đời nhà Thương (1600-1100 tr.T.L)”. (It was recorded in Liji (The Book of Rites) that chopsticks were used in the Shang Dynasty (1600 BC - 1100 BC). (Goldfish)]