Vào ngày đầu của năm, từng phiến mây mỏng đứng lửng lơ trong bầu không khí mệt mỏi, nhưng tới xế chiều, chúng từ từ chuyển động: một cơn gió ấm đã đẩy chúng đi, và sau khi chúng đã khuất dạng ở chân trời, gió bèn đi xuống thành phố. Đầu tiên gió thổi đến khối đá cao lịch sử che khuất hợp lưu của sông Leven với sông Clyde, hình dáng nặng nề của khối đá với những đường nét sắc nhọn vươn lên trên bầu trời màu ngọc mắt mèo, trông giống như thân hình bất động của một con voi khổng lồ. Cơn gió ấm bọc quanh khối đá, thổi nhanh qua các con đường nóng bức của thành phố rồi lang thang qua nhiều ụ đóng tàu cao ngất, có mấy máy cần cẩu quay tít và các thân tàu đang được đóng trong các xưởng của công ty Latta nằm dọc theo cửa sông. Sau đó gió từ từ đi vào con đường Nhà Thờ, có tòa thị chính, và trường đại học rất đẹp.
Nhưng sau khi đã chán chơi đùa dọc theo những thềm nhà bằng cát đỏ, gió muốn đến miền quê. Ung dung lướt trên các con đường xinh đẹp đưa thẳng ra vùng đồng nội, gió bỗng trở nên lạnh hơn khi thổi đến ngôi nhà cuối cùng.
Đó là một ngôi nhà kỳ dị, có bảy căn phòng, được xây cất một cách vững chắc bằng đá xám và lối kiến trúc của nó có một không hai.
Nền nhà là một hình chữ nhật hẹp, chiều dài chạy thẳng ra đường, các vách tường không xây thẳng từ mặt đất lên, mà từ một nền cao bằng đá trông như một con vật chân bị lún sâu xuống đất. Cửa ra vào rất hẹp, mang một vẻ bất thân thiện giống như cái miệng đang nhíu lại một cách khinh bỉ. Mấy cửa sổ cũng bé nhỏ, không có khuôn. Đó chỉ là các lỗ hổng được khoét trong các vách tường, hạn chế ánh sáng lọt vào ngăn cản những cặp mắt tò mò.
Nhìn chung, ngôi nhà có vẻ u ám dễ sợ, như có ẩn chứa một cái gì bí hiểm, đen tối. Kích thước khiêm nhường của nó không cho nó cái vẻ hiên ngang huy hoàng của một lâu đài lãnh chúa, mặc dầu cái tháp, bức tường thành có lỗ châu mai và các góc tường nhọn khiến cho ta có cảm giác đó. Những lỗ châu mai đúng là những lỗ châu mai thực sự, với những đường nét khác thường nhưng không hề có vẻ khôi hài, và trong lối kiến trúc táo bạo của nó có một cái gì buộc sự nhạo báng phải im lặng: một sự quan sát kỹ sẽ cho ta thấy cái nguyên cớ sâu xa, bí mật và đầy bệnh hoạn của nó.
Người dân ở thị trấn Levenford không bao giờ ra mặt chế nhạo ngôi nhà này. Có một cái gì đó – như một sức mạnh vô hình bao bọc ngôi nhà – ngăn cấm họ, ngay cả một nụ cười mỉa mai. Trước nhà không một bóng cây, chỉ có một sân cát trống trơn rất sạch và ngay giữa sân là một khẩu đại bác nhỏ bằng đồng. Trước kia nó là một trong những khẩu đại bác nằm oai vệ trên một chiếc thuyền ba cột buồm. Sau nhiều năm bị lãng quên, bây giờ nó được lau chùi bóng loáng và uy nghi vươn mình giữa hai đống đạn đại bác nằm cách đều hai bên, như cố góp thêm một nét quái dị cho ngôi nhà kỳ lạ này.
Phía sau ngôi nhà là một sân cỏ vuông vức, bốn góc đóng những cọc sắt, được một bức tường đá cao bao bọc. Sát bức tường mọc lên vài cây lý èo uột, và một cây hoa đinh hương không bao giờ trổ hoa, vẻ u buồn, ủ rũ nghiêng cánh trước cửa sổ phòng bếp.
Nhìn qua cửa sổ, có thể thấy vài đồ vật bên trong. Đó là một căn phòng dễ coi, được trang bị vài ghế dựa, một đi-văng, một bàn lớn, một tủ cao kê sát tường, và một tủ buýp-phê ở vách tường bên kia. Vách tường phủ bằng một loại giấy màu vàng, một đồng hồ treo ở phía trên cửa lò sưởi. Dưới nền trải một tấm thảm. Tất cả những thứ đó cho biết đây không hẳn là một nhà bếp. Nó là một gian phòng “chung”, nơi đó người ta ăn uống, nghỉ ngơi và tụ họp để bàn công việc.
Lúc ấy là 5 giờ 20 phút và bà cụ Brodie đang nướng bánh mì. Đó là một người đàn bà thân hình xương xẩu, nhỏ thó, nhưng không yếu ớt dưới sức nặng của cái tuổi bảy mươi hai. Da nhăn nheo, sù sì như một thân cây khô cằn nhưng vẫn còn sức chịu đựng. Hai bàn tay nổi đầy gân, với các lóng tay phù lên vì chứng viêm khớp. Gương mặt màu lá úa vắt ngang dọc bao đường nhăn; tóc bà vẫn còn đen, chải rẽ ở giữa, để lộ một đường thẳng trên chiếc sọ trắng, và được thắt lại ở sau ót thành một cái nơ cứng; vài sợi lông ngắn và cứng nhô lên rải rác ở cằm và ở môi trên của bà. Bà mặc áo chẽn với chiếc khăn choàng màu đen, một váy dài và đội mũ bo-nê nhỏ cùng màu, chân mang giày cao cổ cột bằng dây thun.
Nghiêng mình về phía bếp lửa, cầm chiếc nĩa bạc đặc biệt trong cả hai bàn tay run rẩy, bà hết sức thận trọng nướng hai lát bánh mì dày mà lát nữa sẽ thuộc về phần bà. Nướng xong, bà đặt chúng vào cái đĩa gần bà nhất. Sau đó, bà tiếp tục công việc còn lại một cách lơ đễnh, vừa nói lầm bầm trong tiếng va chạm lập bập của mấy cái răng giả. “Thật không thể chấp nhận được” – bà nghĩ - “việc con Mary không mang phó–mát về, con bé này càng ngày càng trở nên cẩu thả, và trong những việc quan trọng như thế, người ta không thể nào tin cậy nó được. Uống trà mà không có phó–mát thì còn ngon lành gì nữa?”
Phó–mát Dunlop tươi! Hình ảnh này đã làm rung động môi trên và khiến một dải nước bọt chảy ra ở khóe miệng bà.
Tay vẫn làm việc, song mắt bà không ngừng ném những cái nhìn trách móc về phía đứa cháu nội, đang ngồi trong góc đối diện, trên chiếc ghế bành dành riêng cho cha cô mà không một ai được phép ngồi.
Tuy nhiên, Mary không hề nghĩ đến miếng phó–mát hay cái ghế. Đôi mắt dịu dàng của nàng đang mải nhìn vào một nơi xa xăm, như thể nàng trông thấy ở đó một cảnh thần tiên tuyệt vời nào vậy.
Thỉnh thoảng miệng nàng hé nở một nụ cười, rồi sau đó lắc đầu nhè nhẹ, làm rung động mấy lọn tóc. Đôi tay trắng mịn đặt trên hai đầu gối, nàng ngồi thẳng như một thân cây, xinh xắn với vẻ đẹp thanh thản nhưng bí ẩn của một mặt nước hồ sâu thẳm và bình lặng, trên đó vươn lên những cành lau sậy mềm mại.
Nỗi bất bình mỗi lúc một lớn ở trong lòng đã thúc đẩy bà cụ lên tiếng. Vì thể diện của mình, bà không thể nói thẳng điều bà muốn nói, chỉ nói loanh quanh với một vẻ cay đắng càng lúc càng gia tăng:
-Mary, mày đang ngồi trong ghế bành của cha mày!
Không có tiếng trả lời.
- Cái ghế bành mà mày đang ngồi là của cha mày, mày có nghe tao nói không?
Cũng không có tiếng trả lời. Thế là, run lên vì cơn tức giận bị dồn ép, bà cụ la lên:
- Mày có điếc và câm không, con bé lười biếng kia? Tại sao mày lại quên món đồ mà mày được sai đi lấy? Trong tuần lễ này ngày nào mày cũng phạm lỗi. Thời tiết nóng bức đã làm cho mày điên rồi chăng?
Như một người đang ngủ mê thình lình bị đánh thức, Mary ngước mắt lên, định thần lại và mỉm cười:
- Bà nội đang nói với con phải không?
-“Không”, bà già la lên một cách gay gắt, “tao chỉ mở miệng ra để đớp những con ruồi. Đó là cách hay nhất để giết thì giờ, khi người ta không có chuyện gì để làm. Tao chắc mày đã thử làm như vậy khi mày đi xuống phố hồi trưa nay, nhưng nếu mày ngậm miệng lại và mở lỗ tai ra thì có lẽ sẽ hay hơn”.
Lúc đó, Margaret Brodie từ nhà bếp phụ bước ra, tay bưng một bình trà lớn. Bà bước từng bước nhỏ lính quýnh, thân hình nghiêng về phía trước, đó là dáng đi quen thuộc của bà, khiến bà lúc nào cũng có vẻ vội vã.
Đầu bà lúc nào cũng nghiêng về một bên, và cái mũi hình như cũng lệch theo như vậy, có lẽ vì cảm tình với cái đầu, hay vì một thói quen mà bà đã mắc phải trong mấy năm sau này: bà chùi cái mũi từ phải sang trái với lưng bàn tay. Gương mặt úa héo của bà trông mệt mỏi đến cảm động. Bà mới bốn mươi hai tuổi nhưng trông già hơn đến mười năm. Đó là mẹ của Mary.
Đã từng kinh nghiệm về mọi tình huống xảy ra trong gia đình, mẹ - tất cả mọi người trong nhà đều gọi bà Brodie như vậy – nhận thấy ngay sự giận dỗi của bà cụ và vẻ bối rối của Mary. Bà la lên:
- Đã cháy hết một lát rồi… Đưa lát bánh mì cháy dở đó tôi ăn cho. Chúng ta không nên hoang phí.
Bà lấy miếng bánh mì cháy và cố ý đặt nó trên đĩa của mình sao cho mọi người thấy rõ rồi bắt đầu dọn dẹp một cách không cần thiết tất cả mọi thứ ở trên bàn, như thể không có việc gì đã được làm đàng hoàng và sẽ không bao giờ đàng hoàng nếu không có tay bà nhúng vào.
- Dọn bàn kỳ cục quá! – Bà lầm bầm chê trách, trong khi con gái bà đi ra ngoài
- Nessie, Nessie, tới giờ rồi, đã tới giờ rồi! Mary gọi lớn.
Một giọng con nít cao và thanh vang lên ở trên lầu:
- Em xuống liền… chờ em một chút.
Một lát sau, hai chị em cũng bước vào. Nhìn hai chị em, người ta thấy ngay một sự tương phản nổi bật trong tính tình và thể chất. Nessie thuộc một mẫu người hoàn toàn trái ngược với chị của nó. Mái tóc tết lại thành hai bím, đôi mắt trong, hiền lành, và luôn luôn mang một vẻ dịu dàng êm ái như lúc nào cũng muốn tìm cách làm vui lòng mọi người. Nó có một gương mặt đẹp với cái trán cao màu tinh khiết, đôi má hồng, cằm nhọn và cái miệng nhỏ nhắn.
- Thưa mẹ, phải chăng chiều nay chúng ta bắt đầu hơi sớm? Nó hỏi, vừa tiến đến cạnh mẹ.
Đang bận sắp xếp nốt bàn ăn, bà không nhìn con.
- “Con đã rửa tay chưa?” – Rồi liếc mắt nhìn đồng hồ, bà ra lệnh: - “Chúng ta ngồi!”.
Tất cả bốn người ngồi vào bàn, bà nội ngồi xuống trước như thường lệ. Họ chờ đợi. Lúc đó trong bầu không khí im lặng, vang lên âm thanh trang nghiêm của cái đồng hồ treo đang gõ nửa giờ ở phòng ngoài, đồng thời cánh cửa được mở ra và đóng lại một cách mạnh mẽ. Mọi người nghe thấy tiếng cây can được cắm vào giá, tiếng bước chân nặng nề trong hành lang: cửa phòng bật mở và James Brodie tiến vào. Ông ta đi thẳng đến cái ghế riêng, đưa tay lấy tách trà, một đĩa trứng, bánh mì đã phết bơ rồi ngồi xuống ăn ngay. Đó là lý do vì sao cả nhà phải làm việc đúng giờ. Thật vậy, bổn phận phải phục vụ ông không được chậm trễ - vào giờ ăn cũng như trong mọi việc – là một phần của luật lệ không thành văn trong nhà.
Brodie thường ăn ngon lành với một vẻ thích thú rõ rệt. Đó là một người đàn ông to con có đôi vai và cần cổ của một con bò mộng. Đầu nặng nề, cặp mắt nhỏ xíu màu xám, sâu hoắm, cái cằm mạnh mẽ, đầy thịt đến nỗi khi ông nhai, một khối thịt cứng nổi lên di chuyển tới lui bên dưới gò má màu nâu. Gương mặt ông sẽ đẹp biết mấy, nếu không có vầng trán quá thấp và hai con mắt quá gần nhau. Một hàm râu mép dày bao phủ môi trên, che khuất một phần cái miệng, môi dưới nhô ra phía trước với một vẻ cao ngạo.
Đôi tay khổng lồ, ngay cả trên những ngón tay bẹt đầu, thô kệch, cũng có lông đen bao phủ. Con dao và cái nĩa nằm trong bàn tay to lớn dị thường của ông trông như những món đồ chơi tí hon.
Ông chủ đã ăn, tức là mọi người được phép. Bà nội Brodie khởi đầu trước tiên bằng cách ăn ngấu nghiến hai lát bánh mì của bà. Thỉnh thoảng, khi con bà vui vẻ, ông ta ầm ĩ mời bà vài miếng nhỏ lấy từ đĩa của ông, nhưng buổi chiều đó, trước thái độ lầm lì của ông ta, bà thấy không có hy vọng gì được cái thú hiếm hoi đó, và bà bằng lòng với món ăn khiêm tốn của mình. Nessie ăn nhỏ nhẻ, nghiêm trang. Mary vừa ăn vừa nghĩ đến chuyện khác, còn bà Brodie – trước đó một giờ đã ăn bữa nhẹ - chỉ nhấm nháp miếng bánh mì cháy với vẻ của một người đàn bà quá yếu đuối, hết sức chăm lo cho kẻ khác, không màng đến việc ăn uống.
Một sự im lặng tuyệt đối ngự trị trong phòng, thình thoảng chỉ vang lên tiếng hớp nước trà khi đôi môi đầy râu nhấm vào tách, tiếng động của hàm răng giả của bà nội đang cố gắng dùng bữa, và một tiếng khịt bất chợt phát ra từ cái mũi ngoan cố của mẹ. Những người trong bàn không hề tỏ vẻ ngạc nhiên thích thú, bối rối hay tiếc rẻ về việc không có một câu nói nào được trao đổi với nhau. Họ chỉ lặng lẽ nhai, uống và nuốt dưới con mắt đầy đe dọa của Brodie. Khi ông ta thích giữ im lặng, không một ai được phép nói lên một tiếng nào. Buổi chiều hôm đó gương mặt ông ta đặc biệt đen tối, nhìn bàn ăn với vẻ mặt nhăn nhó, và sau hai miếng ăn, liếc nhìn mẹ ông ta với một vẻ không bằng lòng vì bà đang chấm bánh mì vào tách trà. Cuôi cùng ông ta ném cho bà một câu:
- Sao bà lại ăn uống dơ bẩn như vậy?
Giật mình, bà ngước đôi mắt nhấp nháy lên nhìn ông ta:
- Cái gì, Jame?
- Bà ăn uống không quý phái chút nào.
- Má đã quên… quên phứt đi mất… má sẽ không làm như vậy nữa… phải, phải, má sẽ nhớ điều đó.
Và trong sự bối rối của mình, bà ợ lên dữ dội.
- “Tốt lắm”, - Brodie cười gằn – “Bà hãy nhớ lại cái tư cách đẹp đẽ của mình” – Gương mặt của ông ta lại sa sầm xuống – “Thật là đẹp! Một con người như tôi mà phải chịu đựng bao điều tồi tàn như vầy ở tại cái nhà này!”
Ông ta đưa nắm đấm khổng lồ của mình lên tự đấm vào ngực nghe một tiếng “binh” như tiếng trống.
- “Tôi”, ông ta la lớn, “tôi!”. Thình lình, ông ta dừng lại, đôi mắt liếc nhìn khắp xung quanh, rồi lại tiếp tục ăn.
Ông ta đã “phạm lỗi” rồi: Ông ta đã nói. Cũng theo những luật lệ bất thành văn được hiểu ngầm trong gia đình, chính sau lúc ông ta mở miệng, thì mọi người được phép nói chuyện với nhau.
- Nessie, con hãy đưa cái tách của cha con đến đây, để mẹ rót thêm trà. Mẹ chắc cha con đã uống hết trà rồi. – Bà Brodie nói, cố làm cho bầu không khí dịu xuống.
- Đây, mẹ!
- Mary, con hãy ngồi thẳng lên và đứng phá rầy cha con. Ồng đã mệt nhọc sau một ngày làm việc.
- Thưa mẹ, vâng. – Mary đáp, ngồi thẳng lên.
- Và đưa mứt cho cha con.
Người ta bắt đầu xoa dịu cơn giận của con sư tử; và chỉ một phút sau nó lại bùng lên dữ dội mà nguyên do chỉ vì một vấn đề bình thường vô hại. Lúc ấy, mẹ quay sang Nessie, âu yếm:
- Thế nào, bé Nessie của mẹ, hôm nay ở nhà trường như thế nào?
- Thưa mẹ, rất tốt – Nessie trả lời một cách rụt rè. Brodie sắp sửa đưa tách trà lên môi, bỗng dừng lại.
- Rất tốt hả? Con luôn luôn đứng đầu lớp, phải không?
- “Thưa ba, hôm nay…” – Nó nói, mắt nhìn xuống – “con chỉ đứng hạng nhì thôi”.
- Sao, con đã bị hạ? Đứa nào?
- John Grierson.
- Grierson, con của tên buôn bán lúa gạo đó à? Thằng bé của tên sản xuất cám heo hôi hám đó à? Nó sẽ tha hồ khoe khoang trong nhiều tuần lễ cho mà xem. Ôi! Tại sao con để bị hạ?
Con bé òa lên khóc. Mary can thiệp một cách can đảm:
- Thưa ba, nó đã dẫn đầu lớp trong suốt sáu tuần lễ liền, và mọi đứa khác đều lớn tuổi hơn nó.
- “Mày câm đi”. – Brodie hét lên, vừa quắc mắt nhìn Mary – “Mày chỉ nói khi nào mày được phép. Chốc nữa, tao nói với mày, lúc đó mày tha hồ múa lưỡi”.
- “Tại cái môn Pháp văn” – Nessie vừa nói vừa khóc. “Con không thể nào nhét được các giống đực và giống cái vào đầu. Các môn toán, lịch sử, địa lý thì dễ, nhưng cái môn Pháp văn đó khó quá. Con có cảm giác con sẽ không bao giờ học được nó”.
- Con sẽ không học được môn đó ư? Ba tin là được, rằng con sẽ học được… Ba sẽ làm cho con phải học được. Mặc dù con chỉ là một đứa bé! Người ta nói với ba con có nhiều khả năng… một trí thông minh mà con thừa hưởng nơi ba. Và ba sẽ giúp con sử dụng cái trí thông minh đó. Tối nay con sẽ làm bài tập gấp đôi.
- Dạ. Tất cả những gì ba muốn – Nessie thở ra, một tiếng nấc cuối cùng làm nó rùng mình.
- “Tốt lắm!” – Vẻ mặt cứng rắn, đen tối của Brodie bỗng thoáng sáng lên một cách bất ngờ, như một tia sáng mặt trời bỗng rơi lên một khối đá đen xì. “Ba sẽ cho cả thị trấn Levenford thấy trí thông minh của con gái ba. Ba sẽ giúp con trở thành một nữ sinh viên đầu tiên của trường đại học. Nhưng bây giờ con phải siêng năng, và cương quyết theo đuổi việc học.
Ngước mắt lên, nhìn đăm đăm vào một điểm xa xăm, như thể đang nhìn ngắm tương lai, Brodie thì thầm: “Ta sẽ cho họ thấy…”. Rồi đưa mắt nhìn lại Nessie, ông ta vuốt đầu tóc nó và nói thêm:
- Con đúng là con gái của ba, và con sẽ làm vinh dự cho cái tên Brodie.
Ông quay đầu lại nhìn cô con gái lớn, vẻ mặt bỗng thay đổi, đôi mắt tối sầm lại.
- Mary.
- Dạ!
- “Tao muốn nói với mày một chuyện, mày có cái lưỡi dài lắm!” – Rồi bớt vẻ nhạo báng cay độc, ông ngả lưng vào ghế bành, cân nhắc từng lời nói với vẻ bình tĩnh đáng sợ của một quan tòa. “Thật là thích thú khi được người ta cho biết những tin tức về gia đình này, dĩ nhiên chúng không hề đem lại vinh dự gì, mà ngược lại…”. Giọng nói của ông càng lúc càng trở nên lạnh lùng – “Ngày hôm nay, trong khi nói chuyện với một nhân viên của hội đồng thành phố, tao được biết mày đang nói chuyện với một thanh niên, một thanh niên rất đẹp trai…”.
Và nhe răng ra, ông ta nói tiếp bằng một giọng cay độc: “… mà tao cho là một tên hèn hạ và bất lương, một tên vô lại.”
Bằng một giọng rên rỉ, bà Brodie bênh con một cách yếu ớt:
- Ồ! Không! Mary, đó không phải là con, con là một đứa con gái đáng kính trọng. Con hãy nói với cha rằng đó không phải là con!
Nessie nhẹ người vì đã thoát khỏi sự cật vấn, buột miệng kêu lên, không suy nghĩ:
- Ồ, chị Mary! Đó có phải là anh Denis Foyle không?
Mary không động đậy, đôi mắt nhìn đăm đăm vào đĩa thức ăn, một vẻ nhợt nhạt kỳ lạ xuất hiện chung quanh miệng, rồi, cảm thấy cổ họng bị một vật gì chặn nghẹt, nàng nuốt ực một cái, nói bằng một giọng nhỏ nhưng cương quyết:
- Anh ấy không phải là một kẻ vô lại.
- Sao? – Brodie gầm lên – Mày trả lời với cha mày như thế để bênh vực cho một tên hèn hạ… hôi hám, một tên Ái Nhĩ Lan, một tên du đãng à? Không, những tên “Paddy”[iii] này có thể từ các đầm lầy của chúng đến đào trộm khoai tây của tao… nhưng bao nhiêu đó đủ rồi. Chúng đừng làm ra vẻ kiêu hãnh. Tên già Foyle có thể là người chủ quán giỏi nhất ở Darroch, nhưng điều đó không thể làm cho con trai hắn trở thành một người lịch sự đàng hoàng.
Toàn thân Mary run lên, đôi môi cứng ngắc và khô ran:
- Thưa ba, anh Denis có một địa vị riêng của anh ấy và anh ấy không hề dính dáng gì đến việc buôn bán rượu. Anh ấy làm việc cho công ty Findlay ở Glasgow, một công ty nhập cảng trà, và nhất định họ không có dính líu gì với… với cái nghề kia.
- “Thật thế”. Ông ta chế nhạo, “đây là một tin tức thật hay. Mày còn điều gì khác nữa để nói về những tình cảm cao quí của con người lịch sự đó không? Hắn không bán rượu whisky mà bán trà, hình như thế. Đó là một nghề đẹp đẽ cho con trai của một chủ quán rượu. Và rồi sao nữa?”
Mary biết cha cố tình hạ nhục mình, nhưng nàng không thể im lặng để xoa dịu ông ta:
- Thưa ba, anh ấy không phải là một công nhân thường. Anh ấy rất được công ty trọng đãi. Anh ấy… anh ấy hy vọng sẽ được thăng thưởng… và sau này trở thành người có phần hùn…
- “Mày nói nhiều quá”, Brodie càu nhàu. “Nó đã nhét vào sọ mày quá nhiều điều ngu xuẩn… Không phải là một công nhân thường… một tên quảng cáo hàng tồi tệ, phải, đúng như vậy phải không? Nó không khẳng định với mày là sau này nó sẽ trở thành Thị trưởng London sao? Cũng có thể lắm, cái thằng nhãi ranh đó!”
Đôi mắt đầm đìa nước mắt, Mary vẫn còn chống chế, mặc dầu có tiếng rên rỉ cảnh cáo của mẹ:
- Thưa ba, anh ấy được mọi người yêu mến, con bảo đảm với cha. Ông Findlay rất thích anh ấy, con biết chắc như vậy.
- “Thôi đi, mày tưởng tao sẽ tin những gì nó nói với mày sao? Đó chỉ là lời nói láo, những lời nói láo trắng trợn.” Ông ta lớn tiếng lặp lại. “Nó chỉ là một tên mất dạy hèn hạ. Có thể trông cậy được gì nơi một tên vô lại như thế? Chả có gì sạch sẽ hết. Việc mày đã nói chuyện với nó là một điều sỉ nhục đối với tao rồi… Nhưng đó là lần cuối cùng mày nói chuyện với nó! – Brodie nhìn Mary một cách cương quyết và lập lại bằng một giọng giận dữ:
- Đúng vậy, từ nay về sau mày sẽ không bao giờ được nói chuyện với nó nữa, tao cấm tiệt mày.
- Nhưng, thưa ba… - Mary khóc thút thít - Ồ! Thưa ba, con… con…
- “Mary, Mary”. Giọng bà mẹ vang lên từ đầu kia của cái bàn. “Đừng nói nữa. Thật ghê tởm khi nghe con trả lời ba con bằng một giọng như thế!”
Bà có ý định làm cho hai người dịu lại, nhưng lần này câu nói của bà là một sai lầm về chiến thuật. Với ánh mắt rực lửa, Brodie đổ cơn giận lên đầu vợ:
- Việc gì mà bà phải rên rỉ? Bà đang nói hay tôi đang nói? Nếu bà có điều gì đó muốn nói, tôi sẽ im lặng để nghe cái điều kì diệu lớn lao đó, nhưng nếu bà không có gì để nói thì bà hãy ngậm miệng lại và đừng ngắt lời tôi nữa. Bà cũng có tội như nó. Con hư tại mẹ mà!
Ông ta khịt mũi, và theo thói quen của mình, dừng lại để tạo ra một bầu không khí im lặng nặng nề, cho đến lúc bà cụ - nãy giờ không theo dõi câu chuyện, nhưng có cảm giác Mary đang bị mắng – để cho nỗi ấm ức riêng tư của bà được thoát ra bằng một giọng hờn giận già nua:
- James, ngày hôm nay nó không đem phó – mát của mẹ về, cái con bé ngu dại đó.
Rồi, sau khi đã xả được cơn giận, bà dịu xuống, nói lầm bầm trong miệng vừa lắc đầu như một người bại liệt.
Không để ý đến câu nói của bà, ông Brodie nhìn lại Mary, từ từ nói tiếp:
- Tao đã nói rồi. Nếu mày cãi lời tao, thì mày sẽ biết. Còn một điều này nữa: tối nay hội chợ Levenford sẽ khai mạc. Mày đừng quên: không một đứa con nào của tao được đến gần chỗ đó. Cả thành phố có thể đi đến đó, tất cả bọn người hạ cấp trong vùng đều có thể vào đó, cùng với cái tên Foyle và bạn bè của chúng, nhưng không một người nào của gia đình Brodie được hạ mình đến đó. Tao cấm!
Nói xong, ông ta xô cái ghế, đứng thẳng người lên một lúc, nhìn chòng chọc vào đám người nhỏ bé đang run sợ. Rồi, ông bước đến chiếc ghế bành trong góc phòng, ngồi xuống và bằng một cử chỉ máy móc, do thói quen, đưa bàn tay lên cái giá cắm ống điếu, mò mẫm lựa một cái, cẩn thận nhồi thuốc vào và châm lửa bằng một miếng giấy cuộn tròn mồi trong lò sưởi. Khi đã làm xong một loạt động tác trên (giữa lúc đó, nhóm người lặng lẽ vẫn còn ngồi ở bàn ăn), ông ta thong thả hút, môi dưới ướt và trề ra, mắt vẫn trông chừng những người kia, nhưng lần này với vẻ bình tĩnh của một quan tòa đầy quyền lực… Mặc dầu đã quen thuộc, gia đình Brodie lúc nào cũng khiếp sợ trước cái nhìn dữ dội của ông. Bây giờ họ nói chuyện nho nhỏ với nhau, gương mặt của mẹ vẫn còn đỏ, đôi môi của Mary vẫn tiếp tục run run trong khi nói, và Nessie đang đùa với cái muỗng của nó. Chỉ có bà cụ là vẫn bình thản, tận hưởng cái cảm giác dễ chịu sau một bữa ăn.
Lúc ấy, người ta nghe có tiếng bước chân vào nhà. Đó là một thanh niên hai mươi bốn tuổi, cao mảnh khảnh, gương mặt xanh xao, luôn luôn có cái nhìn hơi lén lút và không ngay thẳng, ăn mặc chưng diện tùy theo túi tiền của cậu. Nhất là đôi bàn tay của cậu làm cho người ta phải chú ý: to, mềm dịu, trắng toát, móng tay cắt thật sát và để lộ các khúc thịt tròn ở đầu ngón tay. Cậu buông mình xuống ghế, làm như không thấy ai trong căn phòng, lặng thinh lấy tách trà của mẹ trao và bắt đầu ăn. Đó là Mathieu, con trai duy nhất của James Brodie. Cậu được phép về trễ, bởi vì cậu làm việc trong kho tiếp liệu cho tàu bè của cơ xưởng Latta, và chỉ ra về vào lúc sáu giờ.
- Nước trà có ngon không? – Mẹ cậu ân cần hỏi nho nhỏ.
Mathieu gật đầu trả lời.
- Hãy dùng nước quả táo nấu đông này, ngon lắm. – Bà nhỏ giọng năn nỉ. – Con có vẻ hơi mệt. Hôm nay con làm việc nhiều lắm phải không?
Mathieu gật đầu mơ hồ, hai bàn tay động đậy không ngừng: cắt bánh mì, khuấy nước trà, gõ nhịp lên bàn… Những cái nhìn xuống, sự nhai nuốt vội vàng, sự xao động liên tục của hai bàn tay là do cặp mắt dữ tợn của cha cậu.
- “Một tách trà nữa nhé?” – Mẹ cậu thì thầm, vừa đưa bàn tay ra. – “Con ăn mấy miếng bích–qui này, mới làm đó.”
Rồi, như bỗng sực nhớ ra điều gì, bà nói thêm:
- “Hôm nay, bao tử con có đau lắm không?”
- Không đau lắm – Mathieu trả lời cộc lốc, mắt vẫn cúi xuống.
- Vậy con nên ăn chầm chậm, Matt. Con ăn nhanh quá.
- Nhưng thưa mẹ, con còn phải đi gặp Agnès tối nay – Cậu nói thật nhỏ, như để giải thích cho sự vội vã của mình.
Bà Brodie gật đầu nhè nhẹ để tỏ ra mình đã hiểu. Đúng lúc này bà cụ đứng lên, giũ các mẩu bánh mì vụn rơi trên đầu gối xuống, rồi vừa ngồi vào ghế bành của bà vừa tự hỏi hôm nay con trai bà có nói chuyện với bà không. Khi ông ta thích, ông ta sẽ kể cho bà nghe một vài chuyện xảy ra trong thành phố, khoe với bà rằng ông đã hạ Waddel sát ván, ông thị trưởng Gordon đã thân mật vỗ lưng ông, và việc làm ăn của Paxton đang sa sút. Brodie không bao giờ khen ai trong các cuộc nói chuyện này, nhưng đối với bà cụ, những lời châm biếm mỉa mai của ông đều là một điều thích thú, những lời nhạo báng, cay độc của ông có một hương vị mà bà rất khoái; bà tận hưởng từng mẩu chuyện ngồi lê đôi mách của ông, luôn luôn sung sướng thấy con trai mình nổi bật, sáng chói.
Nhưng buổi tối hôm đó, Brodie giữ im lặng, mải mê theo đuổi những ý tưởng đã có vẻ bớt thù địch hơn lúc ở bàn ăn. Ông ta tự bào mình phải đàn áp Mary, hình như nó không giống ông tí nào. Thật vậy, Mary không bao giờ chịu khuất phục trước ông ta như ý ông ta muốn; cô không bao giờ tỏ vẻ kính trọng cha một cách tuyệt đối như những người khác. Để thỏa mãn lòng tự ái cá nhân, ông ta quyết triệt hạ cái tính cứng đầu, bướng bỉnh đó. Còn về chuyện giao thiệp với Denis Foyle, ông mừng rằng mình đã được biết sớm và đã bóp chết nó từ trong trứng.
Rồi, đôi mắt ông lại nhìn đến vợ ông, chỉ trong một giây thôi: Brodie cho rằng giá trị duy nhất của bà là tránh cho ông khỏi tốn tiền thuê một người giúp việc. Ông quay mặt đi chỗ khác thật nhanh, với một cái bĩu môi khinh bỉ tự phát và nghĩ đến những điều khác thú vị hơn.
Phải, đứa con trai của ông. Mathieu không phải là một đứa con trai xấu, có lẽ tính tình nó không được thẳng thắn lắm. Nó mềm yếu và khó hiểu, vì vậy nó cần phải được canh chừng thật kỹ; hơn nữa, mẹ nó lại cưng chiều nó quá. Nhưng một thời gian sống tại Ấn Độ chắc chắn sẽ làm cho nó chín chắn hơn. Chỉ còn hai hay ba tuần lễ nữa, nó sẽ xuống tàu. À! Người ta sẽ bàn tán với nhau về điều này. Nét mặt của ông vui hẳn lên khi nghĩ rằng tất cả mọi người sẽ nhận thấy, qua sự việc này, ông là người được Sir John rất trọng đãi. Thêm một bằng chứng nữa về địa vị thượng lưu của ông trong thị trấn, một địa vị sẽ đem đến cho con trai ông nhiều điều lợi và nhất là sẽ làm cho chính ông trở thành một nhân vật quan trọng.
Tiếp đó, Brodie quay sang nhìn mẹ ông với một cái nhìn khoan dung hơn lúc bà cụ đang lập cập ăn uống. Bà chỉ nghĩ đến việc ăn uống thôi; và trong khi bà ngồi trước bếp lửa, ông ta biết bà đang nghĩ đến bữa ăn sắp tới gồm có món đậu Hà Lan nấu nhừ với sữa. Bà rất thích món đó và thường lặp đi lặp lại rằng:
-Không gì tốt bằng đi ngủ sau khi ăn một món nấu nhừ: nó như một miếng thuốc đắp lên bao tử.
Cuối cùng, ông ta nhìn lại Nessie, thoáng xúc động, không biểu lộ rõ trên nét mặt mà chỉ bằng một ánh mắt dịu dàng. Phải, bà cứ giữ thằng “Matt của mẹ” và cả con Mary nữa… Nhưng Nessie là của ông. Ông sẽ biến con cừu non này trở thành một cái gì? Nó hãy còn quá nhỏ, nhưng con người nó có một cái gì đầy hứa hẹn. Mới buổi chiều nào đây, ông hiệu trưởng bảo đảm với ông ta rằng nó có khả năng trở thành một nhà bác học nếu nó học hết sức. Ngoài ra, trong đầu ông ta còn nhìn thấy tương lai, thấy cái học bổng Latta! Nessie sẽ thành công nếu nó được hướng dẫn đúng cách. Ôi! Chiến thắng này sẽ lớn lao biết mấy! Lần đầu tiên một đứa con gái được cấp học bổng Latta. Và đứa con gái đó, là con của Brodie!
Ông chưa biết mình sẽ có những dự tính gì cho Nessie, nhưng sự học là sự học…
Tất cả mọi người trong thành phố đều biết ông là một con người tiến bộ, một con người có những tư tưởng tự do, rộng rãi, và ông sẽ cho họ thấy điều này. Phải, ông sẽ nhét điều này vào những khối óc thấp kém của họ. Ông tưởng chừng như ông đã nghe họ bảo nhau: “Anh có biết tin này chưa? Con gái của Brodie sắp sửa vào đại học! Nó đã được cấp học bổng Latta, nó đoạt hết mọi phần thưởng ở trường và bây giờ ông Brodie cho phép nó học tiếp. Đó là một cọng lông chim thật đẹp trang hoàng cho cái nón của ông ta.”
Brodie phồng ngực lên, hai lỗ mũi mấp máy cử động, đôi mắt nhìn bất động vào khoảng không và cái ống điếu tắt ngấm hồi nào không hay. Ông ta sẽ bắt buộc họ phải biết đến ông ta, phải thấy rõ cái giá trị thật sự của ông ta vào một ngày nào đó.
Ý nghĩ về Nessie phai mờ dần trong tâm trí Brodie. Ông không còn nghĩ đến tương lai của nó nữa. Lúc này, trong mọi bức tranh do óc tưởng tượng của ông vẽ ra, chỉ còn lại duy nhất hình ảnh của ông ở giữa, và ông khoái trá đắm mình trong ánh vinh quang mà Nessie sẽ tô điểm lên cái tên của ông.
Chợt Brodie đứng dậy, giũ sạch sẽ tàn thuốc trong ống điếu, cắm nó vào giá, lặng lẽ ném cái nhìn đầy đe dọa về phía gia đình ông, như để nói: “Tôi đi đây nhưng các người hãy nhớ đến lời tôi dặn: bao giờ tôi cũng trông chừng các người.” Rồi ông cầm lấy nón, cây can, và đi ra ngoài, không nói một tiếng. Đó là thói quen của Brodie: không bao giờ chịu nói cho gia đình biết ông đến nơi nào. Họ tha hồ ức đoán và đành phải ở trong tình trạng hoang mang, không biết giờ nào ông về, cũng như lúc nào ông vui hay buồn… Brodie thích làm cho mọi người phải giật mình khi bất thình lình họ nghe tiếng chân ông.
Tuy nhiên, sự ra đi của James Brodie hình như đem đến cho gia đình ông một chút thoải mái vì bầu không khí ngột ngạt đã biến mất. Những bắp thịt của bà Brodie, căng thẳng suốt hơn một giờ, trở lại bình thường, đôi vai bà tìm lại được một chút nhẹ nhàng và trí óc bà cũng minh mẫn hơn. Bà dịu dàng nói:
-Tối nay mẹ hơi mệt, để mẹ đọc sách một chút cho khỏe.
-Thưa mẹ, vâng. – Mary trả lời, và lễ phép nói thêm. – Mẹ đã làm việc nhiều rồi, để con rửa chén cho.
Bà Brodie gật đầu nhè nhẹ như miễn cưỡng đồng ý, đứng dậy đi lấy quyển “Điều ước nguyện của Devenham”. Cuốn tiểu thuyết này, cũng như mọi quyển khác bà đã đọc, đều mượn của phòng đọc sách Levenford.
Âu yếm áp quyển tiểu thuyết vào ngực, bà ngồi xuống và liền đó hòa hợp cái cá tính bi đát, khốn khổ của bà với cá tính của nữ nhân vật chính trong truyện và đây là một trong những niềm an ủi hiếm hoi mà cuộc đời còn dành cho bà.
Mary nhanh nhẹn dọn dẹp chén đĩa, trải lên bàn một tấm vải hoa rồi đi vào gian bếp phụ, xắn tay áo lên làm việc.
Nessie ngồi trước bàn, nhớ lại những lời cha nó thúc giục, đưa mắt nhìn hình dáng nặng nề của mẹ, cái lưng của bà nội, rồi nhìn đến Matt đang ngồi xỉa răng. Sau cùng, với một tiếng thở dài, nó uể oải rút mấy quyển sách giáo khoa ra khỏi cặp.
-Hãy đến chơi cờ “đam” đã, chị Mary. – Nó kêu lên.
-Không, em cưng, cha đã dặn. Em làm bài đi. Sau đó, mình sẽ chơi một bàn..
-Tối nay em có lau chùi chén đĩa với chị không? – Nessie hỏi khéo, cố tìm cách đẩy lùi giờ học lại.
-Chị làm một mình cũng được rồi, em cưng.
Nessie lại thở dài.
Nó nghĩ đến mấy đứa bạn của nó, chắc lúc này chúng đang chơi trò nhảy dây, đánh cầu, làm mèo bắt chuột, cùng nhiều trò giải trí tuyệt diệu khác. Và nó bắt đầu học bài, với một nỗi buồn thật lớn trong quả tim nhỏ bé của nó.
Bị quấy rầy trong sự mơ mộng của mình bởi những tiếng lầm thầm “Je suis, tu es, il est” không ngừng lặp đi lặp lại ở bên tai, Mathieu bèn đút cây tăm xỉa răng vào túi nhỏ ở lưng quần và đứng dậy. Từ lúc cha đi khỏi, cậu đã thay đổi thái độ, lấy một dáng điệu hơi kể cả đối với những người chung quanh, đưa mắt nhìn đầy ý nghĩa lên mặt đồng hồ và đi ra khỏi phòng với một dáng đi hơi kiểu cách.
Bây giờ sự im lặng ngự trị trong căn phòng, chỉ bị khuấy động bởi tiếng lật của một trang giấy, tiếng chén bát chạm nhau từ gian bếp phụ và tiếng thì thầm không ngớt “nous sommes, vous etes, ils sont”. Nhưng vài phút sau, tất cả những tiếng động này ngưng hẳn lại và Mary đi ra phòng ngoài, leo lên cầu thang, đến gõ cửa phòng của anh trai.
-Em có thể vào được không, anh Matt? – Nàng dịu dàng hỏi.
-Vào đi! – Một giọng nói đầy kiểu cách phát ra từ bên trong.
Khi Mary bước vào, Mathieu không ngước mắt lên, vẫn ngồi trên giường, trong một tư thế mà, nhờ một tấm kính đặt trên tủ theo một chiều nghiêng đã định trước, cậu có thể nhìn thấy mình trong gương. Cậu vẫn bình thản vừa ngắm nhìn mình vừa nhả ra những ngụm khói to tròn về phía tấm kính với một vẻ sành điệu.
-Thuốc xì – gà của anh thơm quá, anh Matt. - Mary nói với một vẻ ngây thơ.
Matt rút điếu xì-gà ra khỏi miệng một cách lịch lãm, mắt vẫn không rời tấm kính, vẻ hài lòng.
-“Phải, đây là loại xì-gà thượng hạng. Năm điếu giá sáu xu, nhưng chỉ một mình điếu này thôi anh phải trả đến ba xu rưỡi. Nó là hàng mẫu, mùi thơm, nhưng cái hương vị của nó mới là điều mà các tay sành hút ưa thích. Một điếu xì-gà sẽ không được gọi là “thượng hạng” nếu nó không có hương vị”. – Cậu quay mắt khỏi gương soi với một vẻ luyến tiếc, và nhìn sát điếu xì-gà hơn. “Anh sẽ dừng lại ở đây, anh đã hút khá nhiều rồi.”
-Ồ! Hút nữa đi anh, thật là tuyệt, nó thơm hơn ống điếu nhiều.
-Không, anh chừa lại cho buổi tối.
-Chị Aggie Moir có thích anh hút không? – Mary thì thầm.
-Anh yêu cầu em đừng gọi cô ấy bằng Aggie – Mathieu chỉnh lại, giọng không bằng lòng. – Đã bao lẩn rồi, anh yêu cầu em đừng tỏ ra quá suồng sã trong cách xưng hô như vậy. Như vậy là thiếu lịch sự, như vậy là… là em quá tự do.
-Em xin lỗi anh, - Mary nói, cúi mặt xuống.
-Được rồi. Em đừng quên rằng, cô Moir là một thiếu nữ, một thiếu nữ rất sang trọng, và hơn nữa, anh có ý định xây dựng gia đình với cô ấy. Phải, cô ấy rất thích anh hút thuốc… lúc đầu cô ấy phản đối, nhưng bây giờ cô ấy thấy hút thuốc là một cử chỉ rất đàn ông.
-Anh yêu cô Agnès lắm, phải không anh? Nàng hỏi một cách nghiêm trang.
-Phải, và cô ấy cũng yêu anh lắm. Đáng lẽ em không nên nói đến những gì mà em không hiểu, nhưng có điều em cần biết là những cặp trai gái đi dạo chung với nhau phải rất thương yêu nhau… Agnès tôn sùng anh. Nếu em thấy tận mắt những món quà cô ấy tặng anh! Thật đáng hãnh diện biết bao cho một cậu trai có được một tình yêu như vậy.
Mary im lặng, nhìn Mathieu trân trân rồi bỗng nhiên nàng đặt bàn tay lên ngực, chỗ quả tim mình.
-Lúc xa nhau, mỗi khi nhớ đến cô Agnès, anh có đau khổ không, anh Matt?
-“Dĩ nhiên là không”. Cậu ta trả lời, giọng không tự nhiên. “Mà em hỏi gì kỳ vậy. Em chỉ giỏi hỏi bậy bạ. Thôi bao nhiêu đó đủ rồi. Bay giờ anh học đây, đừng có quấy rầy anh nữa.”
Mathieu đứng dậy và cúi xuống một cách cẩn thận để không làm nhàu chiếc quần tây của mình, lấy từ dưới giường cây măng-đô-lin. Cậu mở quyển “Tự học đàn măng-đô-lin” ra, và ngồi trong một tư thế thoải mái. Nhưng rất tiếc là tài nghệ của cậu quá non nớt. Khi đánh đến đoạn khó, Mathieu mắc cỡ dừng lại.
-Anh đàn nữa đi! – Mary khuyến khích.
Cậu ta cảm ơn nàng bằng một cái nhìn bực tức.
-Tôi tưởng tôi đã yêu cầu cô làm thinh rồi, cái cô hay nói kia. Em nên nhớ rằng đàn măng-đô-lin là một loại đàn rất phức tạp và rất khó học; anh phải tập dợt cho thuần thục trước khi đi Ấn Độ. Lúc đó, anh sẽ biểu diễn trên tàu cho các bà thuộc giới thượng lưu thưởng thức. Anh đã tiến bộ nhiều rồi, nhưng chắc cũng cần tập luyện nhiều hơn nữa.
Rồi cậu lại tiếp tục đàn, và kết thúc bản nhạc một cách khó nhọc. Những loạt “nốt” đàn đánh sai là một cực hình cho lỗ tai, vì thế cậu ta chỉ chơi đàn – cũng như thưởng thức xì-gà – trong những lúc cha cậu vắng mặt. Mặc dù vậy, Mary, hai bàn tay đỡ lấy cằm, luôn luôn nhìn cậu với một vẻ thán phục.
Bản nhạc chấm dứt, Mathieu đưa bàn tay lùa vào trong tóc mình với cử chỉ vừa hờ hững vừa đầy vẻ lãng mạn.
-Tối nay anh không được khỏe lắm; anh nghĩ rằng anh hơi buồn, em biết không. Anh hơi suy tư… Có lẽ hơi đừ một chút… Ôi, biết bao công việc ở văn phòng, những con số đáng nguyền rủa ấy luôn luôn làm hại các tâm hồn nghệ sĩ.
Cậu thở dài với một vẻ u buồn mơ mộng của một thiên tài không được người đời biết đến, nhưng liền đó, ngẩng đầu lên, cậu hỏi, để tìm một lời khích lệ:
-Nhưng em thấy anh chơi bản nhạc đó như thế nào?
-Nó giống hoàn toàn. – Mary nói, vẻ đảm bảo.
-Giống cái gì?
-Giống tiếng ngựa phi trong bản nhạc “ Cô Kate không biết mắc cỡ”.
-Con bé ngu đần, - Mathieu kêu lên, - đây là bản “Nelly Bly”.
Tinh thần hoàn toàn sụp đổ, cậu ta trừng mắt nhìn Mary, rồi nhảy xuống giường, xô cây đàn, một cách giận dữ, cúi mặt xuống nói:
-“Chắc cô chỉ nói như vậy để chọc tức tôi” – Và ngẩng mặt lên, Mathieu nói thêm bằng một giọng khinh bỉ - “ Hơn nữa, cô không biết thưởng thức âm nhạc chút nào!”.
Làm như không nghe thấy những lời xin lỗi của Mary, cậu quay lưng lại, mở ngăn tủ lấy chiếc cra-vát có những chấm tròn màu xanh dương và tiếp tục giận dữ:
-Cô Moir biết thưởng thức âm nhạc và cô ấy cho rằng anh là một nhạc sĩ có giọng ca hay nhất trong các ban hợp ca. Tôi ao ước cô tỏ ra xứng đáng làm em chồng của cô ấy.
Mary hối tiếc về sự vụng về của mình.:
-Nhưng dù sao anh cũng để em thắt cà- vạt cho, anh Matt.
Mathieu quay lại với vẻ hờn dỗi, song vẫn chịu để em gái thắt chiếc nơ dùm mình. Đây là công việc Mary luôn luôn giúp cậu
-Bri – dăng – tin! – Cậu ta nói lớn, và lệnh này là lời tha thứ.
Mary đưa cho anh chai “Bri – dăng – tin” và Mathieu bôi thật nhiều lên tóc.
-“Tóc của anh rất dày, Mary!” – Cậu ra nói vừa cẩn thận chải. – “Anh sẽ không bị hói. Tên ngu đần Cooper, khi hớt tóc cho anh lần trước, đã nói rằng tóc anh rụng thưa dần ở phía trên? Thằng đó đã điên rồi! Để trừng trị nó, anh sẽ không hớt tóc ở tiệm nó nữa”.
Khi mái tóc đã có những đường dợn sóng vừa ý, Mathieu đưa hai tay ra để Mary giúp cậu mặc áo vét- tông vào, rồi đứng ngẩn người trước gương:
-“Bộ đồ được may rất khéo”. – Cậu ta nói nhỏ nhỏ, vừa ưỡn thẳng người lên. – “Nếu tối nay Agnès không hài lòng về anh thì cô ấy rất sai lầm!”
Sau cùng, lúc ra đi, cậu dặn dò một câu khó hiểu:
-“Và đừng quên nhé, Mary, mười giờ rưỡi tối nay, hoặc trễ hơn một chút.”
-Em sẽ không ngủ quên đâu, Matt – Mary nói nho nhỏ, để làm cho anh trai yên tâm.
-Chắc không?
-Chắc.
Lời dặn dò này đã đủ để lộ “gót chân Achille”[iv] của Matt, bởi vì chàng trai trẻ hào hoa, tay sành điệu hút thuốc xì-gà, nhạc sĩ đàn măng-đô-lin, người du khách sắp sửa qua Ấn Độ này có một nhược điểm rất lạ: cậu ta rất sợ bóng tối. Nếu cậu ta thổ lộ chuyện tâm tình cho Mary biết và xem cô như một người bạn, ấy là vì vào những đêm khuya, cô chịu khó chờ đợi cậu, để hộ tống cậu vượt qua cái cầu thang tối đen ghê rợn, đến tận phòng của cậu.
Liền sau khi gã si tình đó đi rồi, Mary cảm thấy trống không, lòng hoang mang, xao xuyến và lo âu. Nàng không có việc gì để làm trong lúc mọi người đều bận rộn. Nessie hì hục làm bài, mẹ đang chìm đắm trong quyển tiểu thuyết, bà nội nằm thiêm thiếp để cho cơ thể tiêu hóa hết thức ăn. Mary đi lang thang trong nhà bếp, nghĩ đến những lời cấm đoán của cha, lòng buồn chán cực độ.
- Sao con cứ đi tới đi lui như một linh hồn đau khổ vậy? Hãy lấy đồ ra may, hoặc là đi ngủ đi, để cho mẹ đọc sách – Bà Brodie bực mình càu nhàu.
“Mình sẽ đi ngủ ư?” – Nàng hoang mang tự hỏi. “Không, hãy còn quá sớm. Mình đã bị giữ suốt ngày ở trong nhà, có lẽ mình nên ra ngoài một chút. Mọi người sẽ tưởng mình ở trong phòng”.
Mải suy nghĩ, Mary đã ra đến phòng ngoài lúc nào không hay. Đội cái nón rơm cũ kỹ, khoác chiếc áo sờn rách, nàng nhẹ nhàng mở cửa.
Mary rùng mình sợ hãi khi thấy mình đang ở ngoài đường. Nhưng nàng tự trấn an rằng ăn mặc như vầy thì không thể đi xa được. Ở nơi khoảng khoát, tâm trí người ta sẽ thoải mái hơn. Mary tự hỏi lúc này Denis đang làm gì… dĩ nhiên là chàng đang sửa soạn đi xem hội chợ. Tại sao tất cả mọi người đều có thể đến đó, ngoại trừ mình? Đây là một sự bất công, bởi vì đó là một cuộc giải trí do một hiệp hội có uy tín nhất trong thành phố tổ chức.
Tựa mình vào cổng, Mary thưởng thức vẻ đẹp của bầu trời, ngây ngất hít các mùi hương của hoàng hôn. Cô thấy cuộc sống như bừng dậy. Những con chim én bay lượn chung quanh ba cây phong ở cánh đồng cỏ trước mặt; xa hơn một chút, một con chim sẻ kêu gọi cô với một vẻ đầy khuyến khích: “Hãy đến đây, hãy đến đây!” Thật là xấu hổ khi phải giam mình tại nhà trong một đêm đẹp như thế này… Mary tiến ra đường, tự bảo mình chỉ đi dạo một chút thôi, rồi sẽ trở về chơi cờ “đam” với Nessie. Nàng đi thơ thẩn trên con đường vắng tanh. Denis đang chờ nàng ở hội chợ. Chàng đã yêu cầu nàng đến, và Mary như một người điên, đã nhận lời. Thật đáng ân hận biết bao nếu không đến đó được!
Mary cảm thấy mình đã đến đầu đường quá nhanh… và đã đến lúc phải quay về. Nhưng nếu lý trí nghiêm khắc ra lệnh như vậy thì một sức mạnh khác, mãnh liệt hơn, ngăn nàng lại. Thế là nàng vẫn tiếp tục bước tới. Tim đập thình thịch, và chân cũng bước thoăn thoắt theo nhịp đập con tim. Rồi, xuyên qua màn đêm, tiếng nhạc vọng đến yếu ớt nhưng đầy quyến rũ. Mary càng bước nhanh hơn, gần như chạy. Nàng tự bảo:
-Ồ! Phải rồi, mình phải gặp anh ấy.
Thế rồi nàng bay về phía trước.
Chú thích:
[i] Disreaeli (Benjamin), Lord Beaconsfield (1804-1881): Tiểu thuyết gia và chính trị người Anh, sinh tại Luân đôn, từng là chủ tịch Đảng Bảo thủ, và là thủ tướng năm 1968. Ông được tặng tước Lord Beaconsfield.
[ii] Zoulou: một dân tộc ở Nam Phi. Người Zoulou chống lại người Anh suốt một khoảng thời gian khá lâu.
[iii] Paddy: Biệt danh người Anh dùng để chỉ một cách khinh bỉ những người Ái Nhĩ Lan.
[iv] Achille: Nhân vật thần thoại Hy Lạp, mình đồng da sắt trừ ở gót chân, nơi bà mẹ nắm nhúng ông vào nước sông Styx ở Địa ngục để trở thành bất khả xâm phạm. Trong trân chiến thành Troie, Achille tha hồ xông xáo chém giết. Nhưng tướng Paris phía địch biết được, bắn ngay vào gót chân Achille và hạ được ông.