Lâu Đài Người Bán Nón

Chương V

Đã thành thông lệ, mỗi buổi sáng, vào khoảng mười giờ, bà Brodie và Mary ngồi trong phòng bếp bàn về các công việc trong ngày, sau khi chủ nhà đã ra đi. Nhưng buổi sáng hôm đó, hai người không xem xét coi nên giặt hay vá quần áo nào, bộ đồ xám của ông Brodie có cần ủi không, v.v… Họ giữ im lặng, vẻ hơi ủ rũ. Bà Brodie nhấm nháp tách trà một cách buồn bã, Mary lặng lẽ nhìn qua cửa sổ.

-Hôm nay mẹ cảm thấy không còn làm nổi một công việc nào nữa.

-“Thưa mẹ, điều đó không có gì lạ. Sau một ngày như ngày hôm qua”, - Mary thở dài nói “Con tự hỏi anh ấy có mạnh mẽ không? Con hy vọng anh ấy chưa bị giày vò vì nỗi nhớ nhà!”

-Điều tệ hại nhất là Matt không bao giờ chịu được sóng gió, thằng bé đáng thương. Mẹ nhớ lại rất rõ, lúc mười hai tuổi, trên chiếc tàu ở Port Doran… nó đau dữ dội mặc dầu biển không động lắm. Nó muốn ăn trái cây tráng miệng và mẹ không ngăn cấm, cốt cho nó vui, nhưng nó ói ra hết, luôn cả buổi ăn trưa và ba giận dữ như thể là mẹ đã có lỗi trong việc con tàu lắc lư.

 

Bà dừng lại, đắm chìm trong các kỉ niệm, rồi nói tiếp:

-Mẹ rất sung sướng vì chưa có một lời nói nặng nào với nó. Bây giờ nó đã ở xa, thật xa. Không, mẹ không bao giờ nổi giận với nó, đừng nói chi đến việc đánh đòn nó.

-Thưa mẹ, bao giờ mẹ cũng yêu thương anh Matt và con nghĩ rằng mẹ sẽ nhớ anh ấy ghê gớm lắm.

-Nhớ nó hả? Dĩ nhiên là mẹ nhớ nó vô cùng. Mẹ có cảm giác một phần cơ thể của mẹ đã bị mang đi và sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng nó cũng vậy, nó cũng sẽ nhớ mẹ, mẹ hy vọng như thế.

Một ánh sáng lóe lên trong đôi mắt bà khi bà nói tiếp:

-“Dầu đã là một người đàn ông, nó vẫn khóc như một em bé khi phải nói lời từ giã với mẹ. Điều này đã an ủi mẹ và sẽ còn an ủi mẹ cho tới khi nào mẹ nhận được những lá thư. Chúa ơi! Mẹ mong đợi chúng ghê quá! Cho đến bây giờ lá thư duy nhất nó gửi cho mẹ là lá thư nó viết hồi chín tuổi, lúc đang nghỉ hè bị chứng viêm phế quản. Lá thư đó thật vui… Matt chỉ nói đến con ngựa đã cưỡi, con cá hồi đã câu được. Mẹ vẫn còn giữ trong ngăn tủ. Mẹ đã đọc lại nó!”. Bà kết luận với một sự vui thích được chút u buồn: “Mẹ sẽ tìm kiếm trong các ngăn tủ tất cả những gì của Matt, đó sẽ là một niềm an ủi lớn cho mẹ cho tới khi nào mẹ nhận được tin tức của nó”.

-Vậy, chúng ta sẽ lục lọi khắp phòng của anh ấy?

-Không, Mary, không ai được đụng đến nó. Đó là căn phòng của Matt, và chúng ta sẽ giữ nó y nguyên như vậy cho đến ngày Matt trở về… Nếu có bao giờ nó trở về!

 

Bà thú vị hớp nước trà:

-Con thật tử tế khi pha trà cho mẹ: trà đã làm mẹ thấy khỏe lại và lên tinh thần. Dù sao, ở bên Ấn Độ, Matt sẽ có trà ngon, đó là xứ trà và cũng là xứ của gia vị. Lúc nóng nực uống trà lạnh sẽ thấy thoải mái. Sao con không uống?

-Thưa mẹ, ấy là vì con cũng hơi xúc động một chút.

-Con có vẻ không được khỏe từ mấy ngày nay, con trắng bệch như một tờ giấy.

 

Trong số những đứa con của bà, Mary là đứa ít được yêu thương nhất, nhưng khi vắng mặt Matt, bà tỏ ra thân mật lại với Mary.

-Ngày hôm nay con cũng như mẹ, chúng ta sẽ không lau chùi, dọn dẹp gì cả. Chúng ta xứng đáng được nghỉ ngơi sau bao vất vả suốt mấy hôm vừa qua. Mẹ sẽ lấy lại sức bằng cách đọc sách và con đi mua hàng. Con thấy khỏe hơn khi được đi ra ngoài. Thưa mẹ, bây giờ mình cần mua gì?

 

Hai người xem xét những món nào còn thiếu và Mary ghi lên giấy. Vấn đề là phải tìm cửa hàng nào bán rẻ nhất, bởi vì nguồn tài chánh gia đình đang eo hẹp.

-Vì Matt không còn ở đây nữa, chúng ta có thể không mua các ổ bánh mì nhỏ, cha con không bao giờ đụng tới nó. Sự vắng mặt của thằng bé làm ngôi nhà trống trải quá! Mẹ thích thú biết bao khi được nuông chiều nó

- Chúng ta cũng không cần nhiều bơ nữa, anh ấy cũng thích món ấy lắm – Mary vừa gợi ý, vừa gõ nhẹ cây bút chì vào hàm răng.

- Dù sao, sáng nay cũng không cần mua món đó – Mẹ trả lời một cách khá lạnh lùng.

 

Mary sung sướng được thoát ra ngoài. Nàng cảm thấy được tự do về thể xác lẫn tinh thần, không kiềm hãm như trong nếp sống buồn chán hằng ngày. Đối với nàng, mỗi lần ra thành phố là một cuộc phiêu lưu tuyệt đẹp và say đắm: khi đến mỗi góc đường nàng đều nín thở, không dám ngước mặt lên vì vừa hy vọng lại vừa sợ hãi phải gặp Denis. Nàng chưa nhận được lá thư thứ nhì – có lẽ đây là một điều may mắn vì lúc ấy chắn chắn sẽ bị phát giác. Trực giác của nàng cho biết chàng đã trở về sau chuyến công tác và nếu chàng yêu nàng thực sự, chàng sẽ đến tìm. Sự thôi thúc mơ hồ trong lòng khiến nàng bước nhanh và tim đập rộn rã. Nàng có vẻ ngượng nghịu khi đi ngang qua trước khu đất chợ phiên. Bây giờ, nó không còn vết tích gì của các cuộc vui tuần trước, ngoài những dấu vết của việc dựng lều, trại. Đó đây chỉ còn trơ lại những đám cỏ mòn, rác rến và tro tàn. Nhưng sự dơ bẩn và sự hoang tàn của khu chợ phiên không gây cho nàng một sự xúc động hay luyến tiếc nào, bởi vì trong lòng nàng còn in đậm bởi bao kỉ niệm không nhạt phai.

 

Ước muốn được gặp Denis nổi lên mãnh liệt, làm cho đôi mắt nàng long lanh và đôi má nàng tươi mát như nụ hoa tầm xuân. Sự khát khao làm cổ họng như nghẹn lại và một nỗi chua cay đem đến cho nàng một cảm giác nghẹt thở.

 

Ra đến thành phố, nàng chưa vội đi mua hàng, thơ thẩn trước các cửa tiệm, hy vọng có một cái vỗ bất ngờ trên cánh tay. Nàng chọn những con đường càng xa càng tốt, đi hết đường này đến đường kia để may ra có thể gặp được chàng. Nhưng vô ích. Nàng đành lần lượt mua các món hàng ghi trong danh sách, và khi mua xong món chót, trán nàng nhăn lại vì bối rối và vẻ thất vọng làm khóe miệng nàng xụ xuống. Denis không yêu nàng, và chính vì thế chàng sẽ không đến tìm nàng. Nàng đã điên khi tưởng chàng sẽ tiếp tục chú ý đến. Nàng, một cô gái đáng thương, không xứng đáng chút nào với vẻ duyên dáng và thanh lịch của chàng. Trong nỗi tuyệt vọng, nàng tin chắc chàng sẽ không bao giờ trở lại, và nàng sẽ vẫn cô đơn như một con chim bị thương, yếu đuối, bay một mình.

 

Không thể nào nán lại lâu hơn, bởi vì nàng bỗng cảm thấy, với một ý thức đầy cảm động về phẩm giá của mình, rằng mình không thể để cho người ta thấy mình đi lang thang ngoài đường, tự hạ mình đi tìm kiếm một người đàn ông đã ruồng bỏ nàng. Và nàng quyết định quay trở về. Bây giờ nàng chọn những con đường yên tĩnh, vắng vẻ nhất để tránh được nhiều người càng tốt. Nàng buồn bã nghĩ rằng, vì Denis không yêu nàng, nàng cũng sẽ không chạy theo chàng.

 

Nàng hoàn toàn cam chịu. Lòng không còn ước mơ được gặp Denis nữa, nên khi thình lình trông thấy chàng trên con đường dẫn đến nhà ga, nàng ngỡ mình đã gặp một bóng ma. Đôi mắt nàng, nãy giờ vẫn cúi gầm xuống, ngước nhìn lên với một vẻ kinh ngạc, nghi ngờ. Nhưng một bóng ma không thể chạy bổ đến nàng một cách nồng nhiệt như thế, có một nụ cười quyến rũ như thế và nắm chạy lấy bàn tay nàng, siết chặt đến độ nàng nghe rõ nhịp đập nóng hổi của dòng máu luân lưu trong người chàng.

 

Đúng là Denis, nhưng chàng không có quyền tỏ ra vui vẻ và hân hoan một cách vô tư như vậy. Thế ra chàng không hiểu rằng nàng đã trải qua những ngày chờ mong đầy đau khổ, rằng chỉ mới một phút trước đây, nàng hãy còn chìm đắm trong cơn thất vọng và đã tưởng mình bị bỏ rơi ư?

- “Mary!” – Denis kêu lên, vừa bao phủ cả người nàng bằng một ánh mắt thiết tha – “ Anh mới trở về chiều hôm qua và anh đi tìm em ngay. Thật là may mắn được gặp em”

 

Nàng tha thứ cho chàng ngay lập tức. Niềm tuyệt vọng của nàng tan ra trước nhiệt tình nóng bỏng của Denis, nỗi buồn của nàng biến mất trước nụ cười dễ lây của chàng, và kỷ niệm của những giây phút thân mật giữa hai người bỗng trỗi dậy khiến nàng chợt cảm thấy rụt rè, nhút nhát.

 

Nàng đỏ mặt nhìn lại chàng tuổi trẻ hào hoa đã siết chặt nàng trong một đêm đầy bóng tối khoan dung, đã trao cho nàng nụ hôn đầu tiên và đã vuốt ve nàng một cách dịu dàng. Chàng có biết là nàng đã nhớ chàng đến mức nào không? Nàng không dám nhìn chàng.

- “Anh sung sướng vô cùng được gặp em”. Denis nói tiếp “Anh vui mừng đến nỗi có thể nhảy cỡn lên được. Em có vui được gặp lại anh không?”

- Có – Mary đáp nhỏ, vẻ bối rối.

- Anh có quá nhiều điều muốn nói với em, mà anh không dám viết trong thư, vì sợ thư bị chặn lại. Em có được thư không?

- Em không gặp lôi thôi gì, nhưng không nên viết nữa. Sẽ rất nguy hiểm cho anh. - Nàng thì thầm.

 

Những điều chàng đã nói trong thư thật quá táo bạo khiến nàng càng đỏ mặt hơn khi nghĩ đến những điều chàng không nói ra.

- “Kể từ đây, anh không cần viết thư nữa, ít nhất là trong một thời gian khá lâu”- Denis nói với một nụ cười đầy ý nghĩa – “Anh sẽ ở lại văn phòng độ hai tháng trước khi ra đi vào mùa thu. Còn về vấn đề làm ăn, em đã đem may mắn đến cho anh: số đơn đặt hàng tăng gấp đôi. Nếu em tiếp tục gây cảm hứng cho anh, chẳng bao lâu anh sẽ làm nên sự nghiệp. Tất nhiên, em sẽ bắt buộc phải gặp anh, dầu chỉ để chia tiền lời.”

 

Mary lo sợ liếc nhìn chung quanh, cảm thấy ngay trong con đường yên tĩnh này, những cặp mắt đầy ác ý đang nhìn mình, và trước sự hăng say của chàng, nàng hiểu chàng không nhận thức được tình thế.

- Denis, em không thể ở lại lâu hơn nữa… người ta có thể trông thấy chúng ta ở đây.

- Phải chăng nói chuyện với một thanh niên là tội lỗi… hơn nữa lại vào buổi sáng? – Chuyện này không có gì sai quấy cả. Nếu em không muốn, anh có thể đi theo em. – Chàng nói dịu dàng, đầy ngụ ý.

- Làm như vậy người ta còn chú ý nhiều hơn nữa… - Mary trả lời một cách nhút nhát, tin chắc rằng tất cả những cặp mắt trong thành phố đều nhìn chăm chăm vào nàng trong cuộc đi dạo này.

 

Denis âu yếm nhìn Mary rồi nhìn suốt từ đầu này đến đầu kia của con đường với một cái nhìn mà ý trung nhân của chàng xem như là của một hiệp sĩ dũng cảm đang phiêu lưu giữa vùng địch.

- “Mary yêu dấu của anh”, chàng nói tiếp bằng một giọng bông đùa, “em chưa biết rõ kẻ đang đi theo em là ai ư? ‘Foyle không bao giờ chiến bại’, đó là khẩu hiệu của anh. Nào, hãy đi với anh”.

 

Nắm chắc cánh tay người yêu, chàng dẫn nàng đi vài chục bước và trước khi nàng kịp hiểu ra, hay nghĩ đến việc phản đối, chàng đưa nàng vào quán cà phê của Bertorelli. Mary tái mặt vì sợ hãi, cảm thấy mình đã vượt qua giới hạn của sự đứng đắn, nàng trách móc nhìn Denis, kêu lên bằng một giọng bất bình:

- Ồ! Denis, sao anh dám!...

 

Tuy nhiên, nhìn khắp căn phòng không người, rất đẹp mắt với những dãy bàn bằng đá cẩm thạch, những tấm kính sáng loáng, giấy phủ tường màu sắc rực rỡ, và được Denis dẫn đến ngồi trên một băng nhỏ bọc nhung, nàng vô cùng ngạc nhiên. Trước đây nàng đã tưởng mình sẽ gặp một căn phòng nhỏ hẹp tồi tàn thích hợp với những cuộc truy hoan, mà theo những lời đồn đại nàng được nghe, luôn luôn được diễn ra trong các cửa hiệu loại này.

 

Sự ngạc nhiên càng lớn hơn khi nàng trông thấy một người đàn ông to lớn, đang tiến đến gần hai người với nụ cười rất tươi và chào họ bằng cách cúi gập người lại thật nhanh:

- Kính chào ông Foyle, rất vui mừng được thấy ông trở về.

- Chào Louis

Mary giật mình. Người chủ quán này còn có biệt danh là “con quái vật”

- Chuyến du hành thú vị không, ông Foyle? Công việc làm ăn tốt chứ?

- Tốt lắm. Vậy ông không biết rằng bây giờ tôi có thể bán bất cứ thứ gì tôi muốn sao: tôi sẽ bán một tấn mì ống trên các đường phố Aberdeen.

 

Bertorelli phá lên cười, đưa hai bàn tay ra bằng một cử chỉ đầy ý vị và cái cằm ông ta rung rinh quanh gương mặt tròn trịa, rạng rỡ.

- Điều này thật dễ dàng, ông Foyle, món mì ống của người Ý cũng ngon như món cháo yến mạch của người Anh vậy. Nhờ ăn nó mà tôi mới mập như vầy!”

 

Trong khi ông ta cười như nắc nẻ, chàng hỏi nàng một cách tế nhị:

-Em thích ăn gì, một món “macallum” nhé?

 

Nàng vừa đủ bạo dạn để gật đầu, bởi vì không thể nào phân biệt được một món bánh “macallum” với một món bánh hạnh nhân. Nàng không muốn để lộ sự dốt nát của mình trước “con quái vật” ấy.

-Tuyệt diệu, rất ngon! – Bertorelli tán thành và quay lưng đi.

-Một người rất dễ mến, thật thà như đếm, và là người tử tế nhất thế giới. – Denis nói.

-Nhưng người ta đồn về ông ấy… Mary đáp bằng một giọng run run.

-… Rằng ông ấy ăn thịt các em bé, có lẽ vậy? Toàn là những lời ác ý của những người đàn bà mê đạo hẹp hòi. Louis lớn lên ở Ý, nhưng là một người tinh tế. Ông ta gốc gác ở thành phố Pise, nơi có cái tháp nghiêng nổi tiếng… Một ngày nào đó chúng ta sẽ đi thăm nó, như chúng ta sẽ đi thăm Paris hay Rome vậy.

 

Với một vẻ kính trọng, Mary nhìn chàng tuổi trẻ gọi những người lạ bằng tên tục của họ và nói đến thủ đô Âu Châu một cách quen thuộc – không phải bằng cái giọng khoe khoang như Matt, mà với một vẻ tự tin bình thản và nàng tự bảo cuộc sống sẽ thú vị biết bao với một người đàn ông như chàng, thật âu yếm và đầy nghị lực, thật dịu dàng mà lại thật quả quyết. Nàng cảm thấy mình yêu chàng tha thiết.

 

Mary ăn món macallum, một hỗn hợp tuyệt diệu của kem lạnh và nước vắt trái dâu tan trên lưỡi với một mùi vị thơm ngon tuyệt vời. Dưới bàn, Denis dịu dàng đặt bàn chân mình dựa vào bàn chân nàng, trong khi đôi mắt chàng theo dõi sự vui thú ngây thơ của nàng với một vẻ thỏa mãn lớn lao.

 

Nàng tự hỏi, tại sao lúc nào nàng cũng cảm thấy hạnh phúc một cách tuyệt vời bên cạnh chàng? Tại sao chàng đã tỏ ra rất tử tế, độ lượng và khoan dung khác biệt với những người mà nàng đã biết?

-Em có vui không?

-Đây thật là một nơi hấp dẫn.

-Nếu không, anh đã chẳng đưa em đến đây. Nhưng dầu ở nơi nào, chúng ta cũng cảm thấy sung sướng, miễm là chúng ta được ở bên nhau!

 

Nàng đáp lại sự quan tâm của chàng bằng đôi mắt sáng long lanh; sự hăng say can đảm của chàng truyền sang cho nàng, và lần đầu tiên từ lúc gặp nhau, nàng cất lên một tiếng cười thành thật, tự nhiên và sung sướng.

-“Thế là em đã khá hơn rồi đó”, - Denis khuyến khích, “anh bắt đầu thấy lo vì em…”Và bằng một cử chỉ tự nhiên, chàng đưa tay nắm lấy những ngón tay thanh tú của nàng.

-“Anh rất mong muốn em được sung sướng. Ngay lần đầu tiên gặp em, anh đã yêu em vì nét duyên dáng của em, nhưng đó là nét duyên dáng u buồn. Anh thấy hình như em sợ mỉm cười, như thể người ta đã tước bỏ tất cả nguồn vui nơi em. Từ sau buổi tối tuyệt diệu đó, anh luôn luôn nghĩ đến em. Anh yêu em và anh hy vọng được em yêu lại. Anh sẽ không thể nào sống được nữa nếu không có em, anh ước muốn được ở bên em, được giúp em vứt bỏ nỗi buồn của em, cười vui vì bất cứ câu bông đùa ngu ngốc nào của anh”.

 

Mary im lặng, xúc động sâu xa. Rồi nàng buồn bã nói:

-Em mong muốn chúng ta có thể gặp nhau nhiều hơn. Em… nhớ anh rất nhiều, Denis, nhưng anh không hiểu cho em: cha em quá dữ tợn. Nơi cha có một cái gì rất khó hiểu. Em sợ cha, và cha… đã cấm em nói chuyện với anh.

-Vậy ra anh không xứng đáng với cha à? – Denis cau mày nói.

Mary siết chặt những ngón tay chàng một cách bối rối, như thể nàng đã làm lòng tự ái của chàng bị tổn thương:

-Ồ! Anh đừng nói vậy, anh là một con người tuyệt diệu và em yêu anh tha thiết: em có thể chết vì anh! Nhưng cha em là một con người độc đoán không thể tưởng tượng nổi… và kiêu ngạo vô song.

-Tại sao vậy? Anh đâu có làm gì cho cha phiền? Vì sao em nói cha kiêu ngạo?

-“Em không biết”- Nàng chậm chạp nói sau khi im lặng một hồi lâu. “Lúc còn nhỏ, em không bao giờ nghĩ đến điều đó; đối với em, cha em là một vị thần đầy quyền lực, mỗi lời nói của ông là một mệnh lệnh. Khi lớn lên, em cảm thấy có một điều bí mật, một điều gì đó làm cho ông trở thành một con người cách biệt hẳn với những người khác, khiến cho ông muốn nhồi nặn bọn em theo ý riêng của ông, và bây giờ em sợ rằng ông nghĩ…

Nàng ngập ngừng, ngước mắt nhìn Denis.

-Rằng cha nghĩ gì?

-“Em không chắc về điều này. Ồ! Em thật khó nói” – Và lúng túng đỏ mặt, nàng nói tiếp, giọng hổn hển: “Hình như ông tin rằng gia đình chúng em có họ hàng như thế nào đó với gia đình quý tộc Winton”.

-Với gia đình của công tước Winton? – Denis thốt lên, vẻ nghi ngờ, - Ông giải thích điều đó như thế nào?

Mary buồn bã lắc đầu

-Em không biết. Ông không bao giờ thổ lộ ra, nhưng em chắc chắn ông luôn ôm ấp ý nghĩ đó trong đầu. Tên tộc của gia đình Winton là Brodie, anh hiểu chứ - và thật là lố bịch!

-Lố bịch… phải, điều đó có vẻ lố bịch thật. Cha hy vọng sẽ được lợi lộc gì trong chuyện này?

-“Không có gì hết!” – Nàng kêu lên một cách chua chát. “Chỉ là sự thỏa mãn suông của lòng tự ái. Đôi khi cha làm cho chúng em cảm thấy cuộc sống thật đáng tởm và buồn chán; cha bắt buộc chúng em phải sống một cuộc sống không giống ai cả. Chúng em bị cách biệt trong ngôi nhà kì dị, trong đó chúng em cảm thấy mình bị đè bẹp, bị bóp nghẹt…”

 

Bị kích thích bởi nổi kinh hoàng của mình, sau cùng nàng la lên:

-Ồ! Denis, em biết rằng nói về cha em như vậy là có lỗi, nhưng em sợ cha lắm. Không bao giờ cha bằng lòng cho chúng ta đính hôn với nhau, không bao giờ!

-Anh sẽ đến gặp cha em. – Denis nghiến chặt răng nói – anh sẽ thuyết phục và sẽ được cha cho phép gặp em. Anh không sợ… anh không sợ ai hết!

 

Mary chồm người lên, kinh hãi:

-“Không, không Denis, đừng làm vậy. Cha sẽ trừng phạt cả hai chúng ta một cách ghê gớm”. Ý nghĩ cha nàng với sức mạnh khủng khiếp, đang đập chết Denis làm nàng hoảng hốt. “Anh hãy hứa với em là anh không làm như vậy”.

-Nhưng chúng ta phải gặp nhau, anh không thể không gặp em.

-Thỉnh thoảng chúng ta sẽ gặp nhau.

-Nhưng như thế không đi đến đâu hết. Em biết rằng anh muốn cưới em.

 

Denis nhìn thẳng vào đôi mắt nàng. Chàng biết rằng nàng còn rất ngây thơ, nên không dám nói nhiều hơn về vấn đề này. Thay vì nói, chàng nắm lấy bàn tay nàng, hôn lên nó và ép nó vào má mình.

-Em sẽ sớm gặp lại anh chứ? Anh thích được ở bên em dưới ánh trăng, nhìn nó phản chiếu trong mắt em và nhảy múa trên tóc em.

 

Ngẩng đầu lên, chàng say đắm nhìn bàn tay của Mary vẫn luôn luôn nằm trong bàn tay mình.

-Hai bàn tay em giống như những đóa hoa, những giọt sữa. Thật dịu dàng, thật trắng, thật yếu đuối. Chúng mát như tuyết trên khuôn mặt nóng bỏng của anh. Anh yêu thích chúng và anh yêu thích em.

 

Tâm hồn chàng tràn ngập một ước mong tha thiết: được luôn luôn có nàng ở bên cạnh. Nếu cần, chàng sẽ chiến đấu, chàng sẽ mạnh hơn những trở ngại ngăn cách hai người, mạnh hơn cả định mệnh nữa. Và bằng một giọng thay đổi, chàng nói một cách trang nghiêm.

-Em chắc chắn sẽ là vợ anh, dẫu chúng ta phải chờ đợi nhau, phải không em?

 

Denis nổi bật, lặng lẽ, giữa khung cảnh đủ màu sắc của căn phòng vắng vẻ. Chàng nhè nhẹ vuốt bàn tay nàng trong khi chờ đợi nàng trả lời. Và trong giây phút, quên hẳn sự khó khăn, sự hoàn toàn không thể nào thực hiện được ao ước trên, chỉ biết là mình yêu Denis, không còn sợ hãi nữa trước nghị lực mạnh mẽ của chàng và hoàn toàn tin tưởng nơi chàng, nàng trả lời, mắt nhìn vào mắt chàng:

-Vâng. Em sẽ là của anh…

 

Denis không cử động, không quỳ xuống trong một niềm biết ơn nồng nhiệt, nhưng một làn sóng yêu thương rạt rào được truyền từ người chàng sang người nàng qua đôi bàn tay quấn chặt vào nhau. Đôi mắt chàng sáng lên, thiết tha, âu yếm:

-“Em sẽ không hối tiếc điều này đâu”, chàng nói thì thầm, vừa nghiêng mình qua mặt nàng để hôn nhẹ lên môi nàng, “anh sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để đem hạnh phúc đến cho em. Trước kia, anh đã ích kỉ, nhưng bây giờ anh luôn luôn nghĩ đến em trước tất cả mọi sự. Vì em, anh sẽ làm việc hết mình và sẽ nhanh chóng làm nên sự nghiệp. Anh đã gửi một số tiền vào ngân hàng, và chẳng bao lâu, nếu em chịu chờ đợi anh, chúng ta sẽ làm lễ cưới và thanh thản ra đi”.

Giải pháp giản dị này làm nàng hân hoan, và nghĩ đến việc hai người có thể dễ dàng trốn đi, hoàn toàn thoát khỏi sự thống trị của cha, nàng thích thú vỗ tay, nói nhỏ:

-Có thể làm được không?

-Chúng ta sẽ làm. Anh sẽ làm việc thật nhiều để mau có phương tiện mà không cần nhờ đến gia đình Winton. Kể từ bây giờ, em đừng nói một lời nào, đừng lo âu chút nào hết. Hãy trông cậy nơi anh trong mọi chuyện và luôn luôn nhớ rằng anh luôn nhớ đến em và chiến đấu vì em. Dĩ nhiên chúng ta sẽ phải thận trọng khi gặp nhau, nhưng chắc chắn thỉnh thoảng… anh phải gặp em, dầu chỉ để ngắm từ xa hình dáng yêu kiều của em.

-Chắc chắn là thỉnh thoảng em phải gặp anh, nếu không, em sẽ đau khổ biết bao!

Nàng nói thêm một cách ngây thơ:

-Ngày thứ ba nào em cũng đi đổi sách cho mẹ và cho em ở phòng đọc sách.

-“Tôi chẳng biết điều đó sao, cô bé ranh mãnh?” Denis mỉm cười nói. “Chắc chắn chẳng bao lâu, anh sẽ biết được những ý thích của mẹ em về văn chương. À! Anh biết cái phòng đọc sách đó rồi. Anh sẽ đến đó, em yên tâm. Nhưng có thể anh có một tấm hình để nó nâng đỡ tinh thần anh trong những lúc vắng em?”

Mary cúi đầu một chút, nhận ra những thiếu thốn của mình và những điều kì cục trong gia đình mình.

-Em không có hình, cha em cấm em chụp hình.

-Sao, cha em quá lạc hậu. Phải làm gì cho ông ấy theo kịp với trào lưu. Em chưa bao giờ được chụp một tấm hình ư? Nhưng thôi kệ, vào ngày cưới, gương mặt xinh xắn của em sẽ xuất hiện trước ống kính. Em thấy cái này thế nào? Chàng hỏi và trao cho nàng một tấm hình hơi mờ của một chàng trai dễ thương, đứng với vẻ hiên ngang, đượm một nét vui vẻ không đúng chỗ, hình như là giữa những nấm mồ.

-“Denis Foyle ở vùng Chaussée des Géants, năm ngoái”. Chàng giải thích. Bà cụ bán sò ốc ở đây tiên đoán tương lai cho anh. “Bà ấy bảo anh sẽ gặp vận may… chắc bà ấy biết anh sắp gặp em”.

-Em có thể giữ bức ảnh này không? Em thấy nó tuyệt đẹp – Mary rụt rè hỏi.

-Nó là của em, của một mình em thôi, miễn là em đặt nó ở gần bên tim em.

-Em sẽ cất nó vào một nơi mà không ai có thể thấy được – Nàng trả lời hết sức đáng yêu.

-Hoàn toàn đúng như ý anh thích – Denis đáp lại với một nụ cười trêu ghẹo.

Cả hai cùng cười, và ngay lúc ấy Mary hiểu được dụng ý của chàng, thầm cảm ơn chàng đã tìm cách trấn an nàng trước ý nghĩ sắp phải chia tay. Sự can đảm của Denis khiền nàng trở nên dũng cảm, cách thức nhận định cuộc sống một cách ngay thẳng vào táo bạo của chàng đã kích thích nàng như một cơn gió mát làm hồi sinh một người tù từ lâu bị thiếu không khí. Nàng lên tinh thần, buộc miệng nói một cách thành thật:

- Bên cạnh anh, em cảm thấy sung sướng và tự do. Trước khi gặp anh, em không biết tình yêu là gì. Em không bao giờ nghĩ đến nó… em không hiểu được… nhưng giờ đây em biết rằng đối với em, tình yêu là được luôn luôn ở bên anh, được thở chung một bầu không khí với anh…

Nàng bỗng dừng lại, hổ thẹn vì đã dám thổ lộ những lời nói đó với chàng. Một ý niệm về thực tại mơ hồ trở về với nàng, và nhìn xuống mấy gói hàng, nàng nghĩ chắc mẹ đang tự hỏi vì sao nàng chưa về. Nhận ra mình đã trễ giờ quá lâu, Mary đột ngột đứng dậy và thở ra:

- Em phải đi về.

Những lời tàn nhẫn này nhắc nhở chàng đã tới giờ chia tay. Không van nài, Denis đứng dậy một cách quả quyết:

- Anh không muốn em ra đi, và anh biết em cũng vậy, nhưng bây giờ chúng ta đã thấy rõ tương lai của chúng ta. Chúng ta chỉ còn có thương yêu và chờ đợi nhau.

Vẫn chỉ luôn luôn có hai người: Bertorelli đã biến mất hẳn, chứng tỏ, dẫu bị gán cho là một con quái vật tàn bạo, ông đã không thiếu tế nhị và một sự thông cảm đối với hoàn cảnh của hai người. Họ trao đổi cho nhau một cái hôn nhẹ như cánh bướm. Ra đến cửa, hai người nhìn nhau một lần chót, thầm lặng, đầy tin tưởng.

Cái giỏ xách không còn nặng nữa, chân bước nhanh theo nhịp đập vui vẻ của con tim, đầu ngẩng cao, những sợi tóc nhẹ bay lòa xòa, Mary về đến nhà trước khi niềm sung sướng dịu lại. Khi nàng bước vào nhà bếp, bà Brodie nhìn xoi mói dò xét.

- Tại sao con đi lâu quá vậy? Phải chăng con có gặp ai? Có ai hỏi thăm thằng Matt không?

Mary đã suýt cười mẹ. Trong một giây, nàng tự hỏi bà sẽ phản ứng ra sao nếu nàng cho bà biết nàng vừa ăn một món kem tuyệt diệu, do một tên tướng cướp khét tiếng dọn ra và ngồi bên cạnh nàng là một chàng trai đã đề nghị nàng cùng đi hưởng tuần trăng mật tại Paris. May mắn thay! Nàng đã tự kiềm chế được, bởi vì nếu không, bà Brodie sẽ cho rằng nàng đã mất trí hoặc chính bà sẽ ngã ra bất tỉnh!

- Chắc không khí ngoài kia đã làm cho con khỏe khoắn – Bà mẹ nói thêm, vẻ nghi ngờ, - bởi vì mặt con đỏ ửng lên.

Dầu bà rất dễ tin, nhưng bản năng của một người mẹ không cho bà tin rằng không khí ở Levenford – vốn thường chẳng mấy trong lành – có thể đem đến một hiệu quả nhanh chóng như vậy.

- Dạ phải, con cảm thấy khỏe nhiều. – Mary thành thật trả lời, môi rung động và mắt sáng rực.

- “Trong khi con vắng mặt”, - bà Brodie nhấn mạnh, trí vẫn theo đuổi ý nghĩ mơ hồ của mình “bà nội nói đã thấy con đọc một lá thư. Mẹ hy vọng con không làm một điều xằng bậy nào để cha con rầy mắng. Đừng chống lại ông ấy. Những kẻ đã làm thử việc đó đều luôn luôn hối tiếc việc làm của họ”. Bà thở ra, bị vây bọc giữa bao kỉ niệm xa xưa: - “Rồi ông ấy sẽ khám phá ra mọi hành động của con, và hậu quả sẽ ghê gớm, rất ghê gớm”.

 

Mary cởi áo choàng ra. Trong giờ phút này, thân hình mảnh mai của nàng đã lấy lại sinh lực trẻ trung và mãnh liệt của nó. Nàng đứng thẳng người lên, vẻ tự tin và tràn đầy niềm vui. Nàng nói một cách vui vẻ.

- Thưa mẹ, mẹ đừng lo cho con: khẩu hiệu của con bây giờ là: “Mary không bao giờ chiến bại!”

 

Bà Brodie, lắc đầu và bị ám ảnh bởi một linh cảm mơ hồ, bà rời khỏi phòng như một người tiên tri điềm gở.