THIÊN THỨ NĂM: NHÀ CHÍNH TRỊ TÀI NĂNG
Nhà chính trị ắt phải hiểu được duy trì thế quân bình, để tất cả những cái chính cái phụ đều phát triển khi thời cơ chưa đến nhất định phải nhẫn nại.
Bởi thế dẫu Tôn Quyền có xưng đế hay không, chỉ cần Tào Ngụy vẫn còn, chính sách liên minh Đông Ngô khống chế Tào Ngụy vẫn rất quan trọng.
Năm Kiến Hưng Nguyên niên, tức là năm 223 sau Công Nguyên, cũng là năm Hoàng Sơ thứ 4, Lưu Bị từ trần, Gia Cát Lượng bốn mươi ba tuổi một mình điều hành nước Thục với sứ mệnh lớn lao khôi phục nhà Hán. Là hậu duệ của phái Thanh Lưu, lý tưởng chính trị khó thành đạt với trách nhiệm mà ông không thể từ chối.
Lưu Thiện lên ngôi không lâu, các quận phía cực nam của Ích Châu đã không ngừng truyền đi tin tức các thủ lĩnh dân tộc thiểu số khởi binh làm loạn.
Tôn Quyền ở phía đông, tuy sau khi Lưu Bị mất, lập tức phái Tín đô uý Phùng Hy đến viếng tang, nói là nối lại hòa hiếu, thực ra là đến thám thính tình thế của nước Thục. Các cường hào làm phản ở phía nam cũng có không ít liên hệ với Tôn Quyền, Tôn Quyền nói chung vẫn hưởng ứng còn phong cho quan chức. Hiển nhiên về tinh thần cấp cho không ít sự giúp đỡ khiến chính quyền mới ở Thành Đô càng bị thêm áp lực.
Tôn Quyền sau khi chiếm lại Kinh Châu ốn đưa Lưu Chương trước là Ích Châu mục đang ở Công An về Tỉ Qui, vẫn gọi là Ích Châu mục để đợi thời thay thế cho chính quyền Thành Đô hiện có. Tuy Lưu Chương đã mất khi Lưu Bị đông chinh, song sau khi Lưu Bị bại trận, Tôn Quyền lại lấy con Lưu Chương là Lưu Siển làm Ích Châu thứ sử đến đóng ở biên giới Giao Châu và Ích Châu để làm đầu cầu liên hệ giữa Tôn Quyền với tộc thủ lĩnh dân thiểu số Ích Châu phản loạn. Rõ ràng Tôn Quyền vẫn có thái độ không hữu hảo với Thục Hán.
Chính quyền Tào Ngụy ở phương bắc, khi tin tức Lưu Bị từ trần truyền đến, bèn tỏ thái độ đối địch mạnh mẽ, mở hội lớn ăn mừng không ngớt, chỉ có Hoàng Quyền một mình sầu ộn lộ rõ ra mặt. Tào Phi cũng thể tất cho, chưa trách cứ gì. Song Tào Phi nghe nói Tôn Quyền với Thục Hán vẫn có quan hệ qua lại rất không vui. Sứ giả Phùng Hy trước đến Thục Hán dự tang lễ, lại gọi về Lạc Dương để thuyết minh, được Tào Phi trực tiếp hỏi han và giữ ở lại, Phùng Hy sau này chết ở đấy. Tào Phi lại hạ lệnh cho mấy vị danh sĩ của Ngụy quốc trao đổi ý kiến chính trị với Gia Cát Lượng, bao gồm Tư đồ Hoa Hân, Tư không Vương Lãng, Thượng thư Trần Quần, Thái sử Hứa Chi, Phó tạ Gia Cát Chương, ốn Gia Cát Lượng hiểu rõ thời thế, thuận theo thiên mệnh nhân tâm, đem thân qui hàng, làm phên giậu cho Ngụy quốc.
Gia Cát Lượng đối với những lá thư ấy, chẳng hề dao động, lại viết một bức thư công khai trả lời, bày tỏ quan điểm, lập trường của mình trước tình thế chính trị đương thời. Đấy là bài văn chính luận, tỏ thái độ chống đối với Tào Ngụy khôi phục nhà Hán, toàn văn như sau:
“Hạng Vũ ngày xưa, đã phản lại nguyên lý chính trị, có được chính quyền bằng mọi cách, bởi thế tuy chiếm được đại bộ phận vùng đất Hoa Hạ, có được thanh thế của hoàng đế song cuối cùng vẫn thân bại danh liệt, có thể coi là tấm gương soi cho hậu thế.
Chính quyền Tào Ngụy, chưa thấu tỏ sự thực lịch sử, vẫn giẫm lên vết chân Hạng Vũ, phi pháp đoạt lấy chính quyền, tức là cầu may mà có nhất thời, cũng sẽ rước họa về sau vậy. Các vị tiên sinh là những kỳ lão của xã hội, lại vì chính quyền Ngụy mà viết thư cho tôi, đúng như cuối đời Đông Hán Trần Sùng, Trương Tủng lại ca tụng công lao của Vương Mãng, tiếp tay cho việc Vương Mãng thóai vị, thực là những kẻ đầu sỏ tội lỗi đã phá hoại luân lý chính trị.
Năm xưa vua Hán là Quang Vũ đế, kế tục cơ nghiệp cũ của nhà Hán, thúc đẩy chính quyền hợp pháp, bởi thế chỉ với vài nghìn binh mã, đã phá được bốn mươi vạn đại quân Vương Mãng ở Cổn Dương. Kiên trì chính nghĩa, thảo phạt tà đạo không ở số quân nhiều hay ít. Tào Tháo tuy nhiều mưu lược tự dẫn đại quân đến cứu Trương Cáp ở Dương Bình, vẫn khó tránh mất Hán Trung vào tay tiên đế. Tin rằng cái chết của Tào Tháo là sự trừng phạt của thiên mệnh. Song Tào Phi dâm dật không biết tỉnh ngộ, làm việc thóan vị xấu xa mà các ông lại thuyết lý, tuyên dương cho ông ta. Khiến cho những luân lý chính trị của những thánh vương truyền lại như vua Nghiêu, vua Thuấn, Văn Vương đều hoen ố, thực khiến những kẻ quân tử không chịu nổi”.
Bài văn này đã khẳng định lập trường chính trị của Gia Cát Lượng, không bởi tình thế chính trị dao động mà biến đổi. Thực ra Gia Cát Lượng đã biểu hiện lập trường cứng rắn, thậm chí tiếc cho những học sĩ lão thần ấy đã a dua, song chủ yếu là ổn định lòng tin chính trị của thần dân Thục Hán, ở tình thế khó khăn trong ngoài, kiên định lập trường chính trị cho trận tuyến của mình.
Trong Tam quốc diễn nghĩa có tình tiết Gia Cát Lượng mắng chết Vương Mãng trước trận. Đoạn đối thoại ở đó căn cứ vào đoạn văn này, trong thực tế thì không có chuyện đó chỉ là lời tô vẽ của nhà viết tiểu thuyết mà thôi.
2. Sửa đổi hiệp ước, ổn định phía đông.
Đối với sự phản loạn ở Nam Trung, dẫn theo nhiều vấn đề nội chính, chẳng phải chỉ dựa vào quân đội mà có thể giải quyết được. Huống chi Lưu Bị vừa thất bại trong cuộc đông chinh, tinh thần binh lính rệu rã cần một thời gian nghỉ ngơi chỉnh đốn lại, cho nên chưa tức thì thảo phạt được. Gia Cát Lượng hạ lệnh cho Lý Nghiêm thông qua các mối quan hệ vỗ về thủ lĩnh của dân tộc thiểu số ở đấy, lại cho quân đóng đồn ở nơi hiểm yếu, tăng cường phòng thủ, ngăn cản phản loạn lan ra Thục Trung đợi thời cơ thuận lợi sẽ giải quyết sau.
Công việc rất khẩn cấp lúc ấy vẫn là tình thế ba chân đỉnh, làm sao định vị được.
Với lập trường cơ bản mà nói, Tào Ngụy có thực lực rất lớn, chẳng thể hòa giải được, về lĩnh vực thống trị mà nói, Thục Hán tuy nhỏ, nếu nghĩ cứng rắn đối đầu với hai kẻ địch rất lớn, dứt khóat là sách lược mù quáng. Quốc sách cơ bản của Long Trung Sách là liên Ngô chế Tào, về khách quan là điều tất yếu. Bởi thế với tình hình trước mắt, mau chóng hòa giải giữa Ngô và Thục là nhiệm vụ rất khẩn trương.
Song sự việc không giản đơn, nói hòa giải là hòa giải ngay được, kể từ Quan Vũ để mất Kinh Châu, Lưu Bị đông chinh thất bại ở Hồ Đình đến nay, quan hệ rất căng thẳng giữa Ngô và Thục, nói hòa giải đâu có dễ.
Thực ra, sau khi Lưu Bị mất, mối lo lắng của Gia Cát Lượng là thái độ của Tôn Quyền. Khi Lưu Bị đóng quân ở thành Bạch Đế, Tôn Quyền từng phái sứ giả thăm hỏi, tìm kiếm hòa giải, song chủ yếu bởi áp lực của Tào Phi từ phương bắc xui khiến. Đến khi Đông Ngô giành được một chút thắng lợi, lại công khai biểu lộ phục tùng Tào Ngụy, biến số của thái độ Tôn Quyền rất lớn. Gia Cát Lượng để Lý Nghiêm ở Công An, chủ yếu phòng ngự Tôn Quyền. Bởi thế khi Lưu Thiện lên ngôi, Gia Cát Lượng đợi đến cuối năm, vào tháng 11, lấy Thượng thư Đặng Chi làm Trung lang tướng, tích cực chủ động triển khai nối lại công tác ngoại giao liên minh giữa Ngô và Thục.
Đặng Chi tên chữ là Bá Miêu, người Tân Dã, là hậu duệ của Đặng Vũ, một công thần đời Quang Vũ đế. Thời Lưu Yên, Đặng Chi từ Kinh Châu vào Ích Châu tìm kiếm cơ hội, song chưa được trọng dụng, chỉ làm một chức quan nhỏ trông coi kho lương ở Bì Huyện.
Song Đặng Chi không nhụt chí, ông tự mình thiết kế biện pháp quản lý lương thực hợp lý, rất tiện lợi cho nhân dân, tuy không được cấp trên xem trọng, Đặng Chi vẫn vui vẻ thực hiện công việc.
Sau khi Lưu Bị đến Ích Châu đi tuần tra các quận huyện, có lần đến Bì Huyện, thấy cách quản lý của Đặng Chi khá kỳ lạ, cùng đàm đạo hồi lâu thấy là người có tài, bèn thăng cấp làm Huyện lệnh ở đấy, không lâu lại đề bạt làm Thái thú ở Quảng Hán, mỗi lần đến địa phương nào, Đặng Chi đều có phong cách đặc biệt, bởi thanh liêm mà đạt được kết quả. Bởi thế sau khi Lưu Bị xưng đế, Gia Cát Lượng lấy làm Thượng thư ở phủ Thừa tướng, đặc biệt với Đặng Chi là từ địa phương lên Trung ương được sắp xếp ngay làm Thượng thư.
ốn thuyết phục được Tôn Quyền vốn cứng rắn, ắt phải dựa vào một sứ giả có hiểu biết và thông minh. Gia Cát Lượng đang tìm người thích hợp không khỏi tư lự, tạm thời vẫn chưa nghĩ ra được ai là hơn.
Đang lúc ấy, Đặng Chi chủ động đến gặp Gia Cát Lượng, nói rằng: “Nay chúa thượng còn ít tuổi, mới lên ngôi, nên lập tức phái sứ giả đến Đông Ngô giao hảo”.
Gia Cát Lượng nghe rồi, gật đầu cười mà rằng: “Ta đã ngẫm nghĩ rất lâu rồi, mà vẫn chưa chọn được người thích hợp, nay bỗng nhiên lại tìm được rồi”.
Đặng Chi hỏi thế nào là người thích hợp?
Gia Cát Lượng nói: “Chính là Sứ quân vậy”. (Đặng Chi là Thái thú nên gọi là Sứ quân).
Đúng như Gia Cát Lượng đã thấy, Đặng Chi với việc nối lại quan hệ Ngô - Thục đã sớm có suy nghĩ sâu xa, dùng ông ta vào việc đàm phán ngoại giao phức tạp cần phải tùy cơ ứng biến này, là thích hợp hơn cả.
Sau khi Đặng Chi đến Đông Ngô, Tôn Quyền quả nhiên trong lòng đang hồ nghi, chưa tiếp kiến ông ta ngay được. Đặng Chi đợi đã mấy ngày, chẳng có kết quả bèn chủ động dâng thư lên Tôn Quyền: “Thần nay đến Đông Ngô, cũng là bởi Đông Ngô mà đến, chẳng phải chỉ bởi nước Thục mà đến!”.
Tôn Quyền vốn làm việc khẩn trương, sau khi gặp Đặng Chi, bèn lập tức biểu lộ cách nghĩ của ông ta về vấn đề này.
Tôn Quyền nói: “Tôi rất ốn nối lại quan hệ cũ với nước Thục, chỉ lo lắng vua nước Thục còn nhỏ, nước bé thế yếu, sợ sớm tối bị Tào Nguỵ thôn tính, đến lúc ấy ta cũng khó giữ mình, cho nên kế sách lớn liên minh với Thục hay Ngụy vẫn còn chưa quyết”.
Đăng Chi nghe rồi, bởi đã có dự liệu nên đáp rằng: “Ngô Thục có đất bốn châu (Kinh, Dương, Lương, Ích), đại vương là anh hùng của đời này mà Gia Cát Lượng cũng là người tuấn kiệt. Nước Thục có địa hình hiểm trở dễ giữ mà khó đánh vào. Nước Ngô cũng có Tam Giang (Ngô Tùng, Tiền Đường, Trường Giang), là bức bình phong thiên nhiên, ốn tấn công đâu có dễ. Nếu như cộng những điều kiện hai bên, môi hở răng lạnh, tiến thì có thể nuốt được thiên hạ, thóai thì cũng giữ được thế ba chân đỉnh, đấy chẳng là lẽ rất tự nhiên ư? Đại vương nếu nghĩ quy phục Tào Ngụy, Tào Phi sớm ộn sẽ cưỡng bức ngài đến Lạc Dương, đến lúc ấy ắt thành mối lo. Ví như đại vương kiên trì không đi, Tào Phi sẽ yêu cầu đại vương đưa Thái tử làm con tin, nếu không nghe theo Tào Phi sẽ lập tức lấy lý do thảo phạt phản nghịch mà dẫn quân đánh Đông Ngô. Lúc đó nếu như nước Thục cũng nhân cơ hội thuận dòng mà xuống, thì đất Giang Nam không thuộc đại vương nữa”.
Tôn Quyền ngồi nghe im lặng không nói.
Đích xác Tào Phi yêu cầu Thái tử Tôn Đăng đến Lạc Dương làm con tin, đã không chỉ một lần. Điều kiện này chẳng những Tôn Quyền không thể đáp ứng hơn nữa quần thần Đông Ngô cũng cho rằng đấy là điều đại sỉ nhục, dẫu phải liều mạng cũng chẳng thế nghe theo. Nghĩ đến đó, Tôn Quyền không khỏi than rằng: “Ông nói rất phải!”
Thế rồi lập tức hạ lệnh cắt đứt quan hệ với Tào Ngụy, nối lại hòa hiếu với Thục Hán, Đặng Chi cũng lập tức dâng lên hai trăm ngựa tốt, một nghìn thếp gấm, cùng không ít đặc sản nước Thục, nói chung đã hoàn thành được sứ mệnh.
3. Trương Ôn tỏ ra kiêu ngạo, Tần Mật ứng đối trổ tài
Mùa hạ năm thứ hai, Tôn Quyền phái Trung lang tướng vào Thục đáp lễ, trước lúc lên đường Tôn Quyền dặn dò Trương Ôn rằng: “Ta vốn chẳng ốn phiền ông phải đi xa, song sợ thừa tướng Gia Cát Lượng chẳng hiểu cho nguyên nhân ta với Tào Phi trước đây có qua lại, cho nên phiên ông đi lần này, hi vọng sẽ thuận lợi hoàn thành nhiệm vụ”.
Trương Ôn đáp rằng: “Gia Cát Lượng hiểu biết sâu xa, nhất định có thể hiểu biết được lẽ co duỗi của đại vương, thần đóan rằng ông ta sẽ chẳng nghi ngờ gì”.
Thế rồi Trương Ôn đến nước Thục cứ làm theo chỉ thị của Tôn Quyền, ca tụng sự tốt đẹp của chính quyền nước Thục, cùng tình cảm giao hảo vốn có đã lâu, Gia Cát Lượng thấy Trương Ôn hiểu biết rộng, giỏi ăn nói cũng rất tán thưởng.
Trương Ôn là học giả của Đông Ngô, từng làm Thái phó cho Thái tử Đông Ngô, vẫn xem thường các văn quan võ tướng, lại thấy Thục Hán ở nơi xa xôi, xem ra cũng chả có văn hóa bao nhiêu. Bởi thế ngoài sự tôn trọng Gia Cát Lượng, đối với các quan lại Thành Đô, thường tự xem mình là hơn, lại còn có vẻ ngạo mạn nữa.
Tam quốc chí có chép: “Trương ôn đi sứ nước Thục ứngđối giỏi giang, khiến hậu chủ và Gia Cát Thừa tướng đều phải cảm mến tài năng, Trương Ôn lại có vẻ tự đắc ra mặt.
Trước lúc chia tay, Gia Cát Lượng đặc biệt dẫn trăm quan văn vũ Thành Đô, bày yến tiệc ở Trường Đình đưa chân. Mọi người đều đã đến, chỉ còn quan biệt giá Tần Mật chưa đến, Gia Cát Lượng lập tức phái người đi mời, khiến Trương Ôn rất ngạc nhiên.
Ông ta không thể không hỏi Gia Cát Lượng rằng: “Vị quan Biệt giá này là người như thế nào?”
Gia Cát Lượng nói: “Đấy là Đại học sĩ Tần Mật”.
Trương Ôn thấy Gia Cát Lượng xem trọng Tần Mật như thế rất không vừa ý. Tần Mật tên chữ là Tử Sắc người Quảng Hán, lúc trẻ đã có tài học, lại có tính đạm bạc thường không ốn ra làm quan. Lưu Bị sau khi bình định Ích Châu tha thiết mời Tần Mật làm Tòng sự tế tửu. Lưu Bị khởi binh đánh Ngô, ngoài Triệu Vân ra, chỉ có Tần Mật dám trực tiếp can gián, bị xem là nhiều loạn lòng quân, tống ngục trị tội. May mà Gia Cát Lượng cốgắng bênh vực, mới được tha tội, khi Gia Cát Lượnglàm thừa tướng, bởi Tần Mật rộng học lại chính trực, đặc biệt bổ nhiệm làm Biệt giá, tiếp đó lại phong làm Tả trung lang tướng, lại kiêm Trường thủy hiệu uý.
Hôm đó, Tần Mật chậm trễ đến sau. Trương Ôn cho rằng ông ta ra vẻ ta đây, có ý làm khó ông ta tại trận.
Trương Ôn nói: “Tiên sinh được gọi là đại học sĩ, phải chăng thật có thực học?”.
Tần Mật nghiêm sắc mặt nói rằng: “Nước Thục đến nhi đồng cũng có học vấn, hà tất phải hỏi đến ta?”
Trương Ôn lại hỏi rằng: “Vậy xin hỏi trời có đầu không?”
Tần Mật nói: “Có chứ”
Trương Ôn: “Ở phương nào?”
Tần Mật: “Ở phương tây, có thơ rằng “Lại ngỏanh về tây” từ đấy suy ra đầu trời ở phương tây.” (ngầm nói Tây Thục)
Trương Ôn: “Trời có tai không?”
Tần Mật: “Có chứ, trời ở cao mà nghe được cả dưới thấp. Có thơ rằng: “Tiếng gà gáy sáng, thấu trời xanh”, nếu không có tai làm sao nghe được”.
Trương Ôn: “Trời có chân không?”
Tần Mật: “Có thơ rằng “Trời đi chập chững, giống như trẻ thơ”, nếu không có chân sao lại bước được’".
Trương Ôn: “Trời có họ không?”
Tần Mật: “Có!”
Trương Ôn: “Họ gì?”
Tần Mật: “Họ Lưu”
Trương Ôn: “Sao lại biết vậy?”
Tần Mật: “Thiên tử họ Lưu, từ đó có thể thấy vậy”.
Trương Ôn: “Mặt trời chẳng phải lên từ phía đông ư?” (ám chỉ Đông Ngô)
Tần Mật: “Tuy lên ở phía đông lại rơi về phía tây”. (Ám chỉ Tây Thục)
Trương Ôn và Tần Mật người tung kẻ hứng đối đáp đâu ra đấy đều khiến tất cả kính phục.