- Tôi quay lại hang núi, - Henry nói.
- Để làm gì? - Huđơ hỏi.
- Tôi có cảm giác như... như đó là em trai tôi. - Henry đáp, giọng hồi hộp.
Cho rằng rất có thể là như thế, tất cả chúng tôi cùng quay lại để xem có đúng hay không. Lúc đầu, vì vừa ở ngoài nắng lóa và quen nhìn tuyết trắng, chúng tôi không nhìn thấy gì trong hang mờ tối. Nhưng một chốc sau, khi đã quen với bóng tôi, chúng tôi thận trọng đi về phía xác chết.
Henry quỳ xuống, nhìn chăm chú vào mặt người chết.
- Lạy Chúa! - Ông kêu lên nhẹ nhõm. - Đây không phải là Georg!
Tôi cũng đi đến và quan sát kĩ lưỡng. Đó là một người đàn ông cao, đã đứng tuổi, có khuôn mặt thanh tú và chiếc mũi khoằm, bộ ria mép dài đen và mái tóc đen điểm bạc. Da của ông ta rất vàng và dán chặt vào khuôn mặt đã khô héo. Trên người ông không có một thứ quần áo nào, ngoài chiếc quần đang mục nát và đã rách bươm từ lâu. Cổ ông ta mang một cây thánh giá bằng ngà voi.
- Đây có thể là ai được nhỉ? - Tôi ngạc nhiên thốt lên.
- Không lẽ ông không đoán ra à? - Huđơ hỏi.
Tôi lắc đầu.
- Còn ai vào đây nữa, nếu không phải là Hoxe Xenvextra!
Không thể thế được! - Tôi thì thầm bằng giọng đứt quãng vì hồi hộp. - Ông ta chết cách đây đã ba trăm năm!
- Thì có gì đáng lạ? - Huđơ bình thản đáp. - Giữa cái lạnh thế này, ông ta có thể yên tâm ngồi như vậy thêm ba nghìn năm nữa. ƠŒ nhiệt độ như ở đây, máu và thịt có thể giữ tươi suốt đời, như thịt bò ướp Tân Tây Lan vậy. Ánh sáng mặt trời không lọt được vào đây, cũng chẳng có con thú nào tới tìm mồi, bởi vì ở đây chẳng hề có sinh vật nào sinh sống. Không còn nghi ngờ gì nữa, người nô lệ mà Xivenxtr nhắc đến trong thư, đã cởi quần áo và để xác ông ta lại đây, vì hắn không còn đủ sức để chôn cất. Ông hãy nhìn đây! - Huđơ cúi xuống nhặt một mẩu xương được mài nhọn có hình thù khá kì dị.- Đây là cái mà ông ta dùng để vẽ tấm bản đồ.
Chúng tôi quá ngạc nhiên vì sự khám phá này, đến nỗi quên cả những nỗi bất hạnh đang phải chịu. Tất cả những điều ấy có vẻ như hoàn toàn phi liù. Chúng tôi đứng lặng, chăm chú nhìn mẩu xương và cái xác của ông già Bồ Đào Nha.
- Hãy nhìn kia, - Cuối cùng Henry lên tiếng, chỉ vào một vết thương nhỏ in mờ mờ trên tay trái của Xinvextơra. - Ông ta lấy máu từ đây để viết thư. Trong đời mình, đã có ai từng thấy một cảnh như thế này chưa?
Bây giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa: Trước mắt chúng tôi là Hoxe Xenvextra. Thú thật rằng tôi cảm thấy rờn rợn trong người.
Vâng, trước mặt chúng tôi đang ngồi cái con người cách đây gần mười thế hệ đã vẽ bản đồ dẫn chúng tôi hôm nay vào hang núi này. Tôi đang giữ trong tay mình mẩu xương thô kệch mà ông ta đã dùng để viết bức thư lúc hấp hối, nhìn thấy chiếc thánh giá mà khi chết, ông ta đã đưa lên đôi môi giá lạnh của mình.
Nhìn xác chết, tôi hình dung khá rõ trong đầu đoạn kết của tấn bi kịch.- Hình dung thấy một người du khách đang chết dần trong cảnh cô đơn vì đói và lạnh, nhưng lại muốn truyền cho người khác biết điều bí mật vĩ đại của mình. Thậm chí, tôi còn có cảm giác như trong nét mặt khắc khổ của ông ta, tôi nhìn thấy đôi nét giống với người bà con xa xôi của mình, tức là ông bạn Xinvextơra tội nghiệp của tôi, người đã chết trên tay tôi cách đây hai mươi năm. Cũng có thể đấy chỉ là do tôi tưởng tượng ra. Nhưng dù sao thì con người ấy vẫn đang ngồi kia trước mặt chúng tôi, như một lời cảnh cáo đáng sợ cho tất cả những ai coi thường thần số mệnh, dám hé bức màn bí mật của tạo hóa. Hàng nghìn năm sẽ trôi qua, nhưng ông ta vẫn tiếp tục ngồi đấy với dấu ấn của Thần chết trên mặt để làm kinh hoàng những người du khách ngẫu nhiên, như chúng tôi, dám đến hang núi này để quấy rầy sự yên tĩnh của ông ta. Mặc dù đang sắp chết, vì đói và rét, cảnh tượng này đã làm chúng tôi xúc động đến tận đáy sâu của tâm hồn.
- Ta đi khỏi đây thôi, - Henry khẽ nói. - A mà khoan! Chúng ta sẽ để lại cho ông ấy một người bạn cùng cảnh ngộ bất hạnh để san bớt sự đơn độc.
Rồi ông bế xác Venfogen đến đặt cạnh nhà quý tộc già Xinvextơra. Sau đó ông cúi xuống giật mạnh chiếc dây đã bị mục cùng chiếc thánh giá treo trên cổ ông ta. Henry không tháo cởi vì ngón tay ông lạnh cóng. Tôi nghĩ rằng ông còn giữ chiếc thánh giá ấy đến bây giờ. Còn tôi thì lấy mẩu xương đã được dùng thay bút. Bây giờ nó hiện đang nằm trước mặt tôi, trên bàn làm việc. Thỉnh thoảng tôi vẫn dùng nó để kí tên mình.
Để lại người da trắng dũng cảm của thời xa xưa và anh chàng người Gốttentốt tội nghiệp canh giữ sự im lặng vĩnh cửu của băng tuyết nguyên thủy, rồi hoàn toàn kiệt sức, chúng tôi rời hang núi bước ra một khoảng trống bằng phẳng phủ đầy tuyết óng ánh dưới mặt trời rực rỡ, và đi tiếp. Sâu trong lòng, mỗi người chúng tôi đều nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa chúng tôi cũng sẽ gặp một số phận như thế.
Đi được gần nửa dặm, chúng tôi lại gặp một khoảng trống bằng phẳng khác và phát hiện thấy đỉnh núi cao nhất không nằm ở chính giữa như chúng tôi đã tưởng khi còn ở phía sa mạc. Vì sương mù buổi sáng quá dày, chúng tôi không thể nhìn thấy những gì ở phía dưới. Nhưng chẳng bao lâu sau sương mù tan, và chúng tôi nhìn thấy một bãi cỏ xanh ngay sát phần núi bị tuyết bao phủ. Bãi cỏ ở phía dưới, cách chúng tôi gần bốn trăm mét và có một con suối nhỏ chảy qua. Nhưng đấy chưa phải là tất cả: trên bờ suối, độ mươi, mười lăm con sơn dương loại lớn đang nằm sưởi dưới ánh mặt trời. ƠŒ một khoảng xa như thế, tất nhiên chúng tôi không thể xác định chúng thuộc nhóm nào.
Thật khó mà diễn tả hết sự vui mừng của chúng tôi khi nhìn thấy chúng. Đó là thức ăn của chúng tôi, thức ăn không hạn chế số lượng, đành rằng trước hết cần phải bắn chúng chết đã.
Đàn sơn dương ở cách xa chúng tôi ít nhất cũng năm trăm mét, nghĩa là quá xa, thậm chí đối cả với một người bắn giỏi, mà mạng sống của chúng tôi lại phụ thuộc vào phát súng đầu tiên này.
Chúng tôi vội vàng hội ý với nhau. Không thể nghĩ tới việc bò lại gần hơn, vì gió thổi về phía đàn sơn dương và chúng sẽ đánh hơi biết. Vả lại, dù thận trọng đến đâu, chúng tôi cũng không thể giấu mình nổi giữa nền tuyết trắng xóa.
- Thế thì đành phải bắn từ đây thôi, Henry nói. - Có điều nên chọn loại súng nào, “winchester” hay “Express”. Ông nghĩ thế nào, ông Quotécmên?
Đó là một vấn đề quan trọng và không dễ giải quyết. Loại súng “winchester” có hộp đạn (chúng tôi có hai khẩu, Ambov giữ một khẩu, khẩu kia của Venfogen giờ cũng do Ambov giữ nốt), có thể bắn xa một nghìn mét; còn loại “Express” hai nòng chỉ bắn được hơn ba trăm năm mươi mét. Xa hơn hơi mạo hiểm, vì có thể không trúng đích. Nhưng nếu trúng, con vật dễ bị chết hơn. Tôi đắn đo và cuối cùng quyết định phải liều bắn bằng súng “Express”. - Mỗi người sẽ bắn con trước mặt mình, - Tôi nói, - Nên ngắm vào ngực hoặc cao hơn một tí. Còn cậu, Ambov, cậu sẽ ra hiệu để chúng tôi bóp cò cùng một lúc.
Tiếp đến là im lặng. Cả ba chúng tôi cùng cố ngắm bắn thật trúng, vì biết rõ cùng với phát súng ấy, số phận chúng tôi sẽ được quyết định.
- Một hai... bắn! - Ambov ra lệnh bằng tiếng Dulux, và hầu như cùng một lúc cả ba khẩu cùng nổ vang.
Trong mấy giây, trước mặt chúng tôi treo lửng lơ ba đám khói xanh, và tiếng súng nổ nối nhau vọng lại rất lâu, phá tan sự yên tĩnh của tuyết trắng. Rồi khói tan - Ôi, sung sướng thay! - Chúng tôi nhìn thấy một con sơn dương đực to lớn đang nằm ngửa, đạp đạp chân trong cơn hấp hối. Bây giờ thì không còn lo chết đói nữa. Chúng tôi đã được cứu sống! Mặc dù hoàn toàn kiệt sức, chúng tôi cùng kêu to sung sướng và lao về phía dưới theo dốc núi phủ tuyết. Mười phút sau, trước mặt chúng tôi đã thấy tim và gan con vật. Nhưng bây giờ lại nẩy ra một vấn đề mới: Không có củi để nhóm lửa nướng thịt! Chúng tôi thất vọng, nhìn nhau một cách buồn bã.
- Đứng trước cái sống và cái chết, - Huđơ nói - con người không nên kén chọn quá. Chúng ta sẽ ăn thịt sống!
Trong hoàn cảnh của chúng tôi quả không còn lối thoát nào khác. Cái đói dày vò chúng tôi đến mức đề nghị ấy không làm ai ghê tởm, điều nhất định sẽ xảy ra trong những trường hợp khác.
Chúng tôi vùi tim và thận sơn dương trong tuyết một chốc để chúng nguội hẳn, rồi đem rửa sạch trong nước suối lạnh băng và bắt đầu ăn.
Bây giờ, khi viết những dòng này, tôi cảm thấy đó là một điều kinh khủng, nhưng phải thú thật rằng, lúc ấy tôi cảm thấy mình chưa bao giờ được ăn một cái gì ngon như thế. Chỉ cần mười lăm phút sau, chúng tôi đã trở thành những người khác hẳn, đến mức khó nhận ra: ai cũng tươi tỉnh, sức lực được hồi phục và máu trong cơ thể đã bắt đầu đập mạnh trở lại. Tuy nhiên, biết rằng đang đói mà ăn quá nhiều sẽ gây ra những hậu quả gì, chúng tôi tỏ ra rất thận trọng, chỉ ăn vừa đủ và biết dừng lại đúng lúc, khi còn cảm thấy đói.
- Lạy chúa! - Henry kêu lên. - Con vật này đã cứu ta thoát chết. Ông Quotécmên, đây là con gì đấy nhỉ?
Tôi đứng dậy đi lại gần con vật để nhìn kĩ và còn chưa tin hẳn rằng đấy là sơn dương.
Nó to không kém con lừa, lông dày màu nâu với những đường vằn đỏ mờ mờ, sừng lớn và cong về phía sau. Tôi chưa bao giờ gặp loài vật nào như thế này, nhưng về sau tôi biết dân bản xứ gọi nó là “inco”. Đây là một loài hiếm thấy thuộc họ sơn dương, chỉ có ở những vùng núi rất cao, nơi không một giống vật nào khác sinh sống. Con vật của chúng tôi bị bắn ngay vào ngực. Khó mà nói ai bắn, nhưng tôi nghĩ rằng Huđơ, nhớ lại phát súng kì diệu đã giết chết con hươu cao cổ ngày nào, chắc đang thầm cho rằng mình đã lập nên chiến công này. Tất nhiên không ai tranh cãi với ông ta về điều ấy.
Vì mải ăn, chúng tôi không chú ý mình đang ở đâu. Nhưng sau khi đã làm thỏa mãn cái đói khủng khiếp, chúng tôi bắt đầu quan sát xung quanh và sai Ambov chọn cắt những phần thịt ngon nhất để mang theo. Lúc ấy đã là tám giờ sáng, không khí trong suốt, sạch sẽ và có cảm giác như mặt trời đã hút hết làn sương buổi sáng dày đặc vào lòng mình. Tôi bất lực không thể nào miêu tả nổi bức tranh hùng vĩ đang trải ra trước chúng tôi. Phía sau, cao trên đầu chúng tôi là đỉnh phủ tuyết của núi Vú nữ hoàng Xava, còn phía dưới, cách chỗ chúng tôi đứng khoảng một nghìn năm trăm mét, kéo dài hàng mấy dặm là cánh đồng quê tuyệt diệu. Ngay trước mặt là một dòng sông rộng uốn mình giữa những ngọn đồi, những cánh đồng và những khu rừng rậm màu xanh thẫm. Phía trái dòng sông là những đồng cỏ rộng mênh mông tầm mắt không bao quát hết, nơi thấp thoáng những đàn súc vật mà từ xa chúng tôi không phân biệt nổi là đã được con người thuần hóa hay còn hoang dại. Phía chân trời xa có những ngọn núi xanh nhấp nhô. Bên phải, địa hình bằng phẳng hơn. Những ngọn đồi giống nhau nằm xen kẽ với những vệt cánh đồng kéo dài đã được canh tác. ƠŒ đấy có những nhóm nhỏ gồm những ngôi nhà đơn sơ có mái hình tròn gộp lại. Những đỉnh núi trông như đỉnh Anpơ, đứng lặng trong vẻ trang nghiêm lộng lẫy được trang điểm bằng những vòng tuyết trắng dưới ánh mặt trời tươi vui rực rỡ. Tất cả toát lên một niềm hạnh phúc đầy sức sống.
Chúng tôi rất lấy làm ngạc nhiên khi cả vùng đất đang trải ra trước mặt nằm ở độ cao ít nhất là một nghìn mét so với sa mạc mà chúng tôi đã vượt qua, và tất cả các con sông đều chảy từ phía nam sang phía bắc. Trước đây, lúc phải chịu những thử thách ghê gớm, chúng tôi đã biết được rằng suốt cả dải bờ phía nam của dãy núi không hề có một giọt nước nào, trong khi đó thì ở phía bắc, như chúng tôi bây giờ được thấy, lại có rất nhiều khe suối, phần lớn đổ vào dòng sông rộng đang ngoằn ngoèo uốn khúc đưa nước vào sâu trong nội địa.
Chúng tôi ngồi, im lặng chiêm ngưỡng cảnh đẹp kì diệu. Henry là người đầu tiên phá tan sự im lặng đó.
- Này, ông Quotécmên, - ông nói với tôi, - Đa Xenvextơra có đánh dấu Con đường Vĩ đại của vua Xolomon trên bản đồ không?
Tôi gật đầu, vẫn tiếp tục ngắm nhìn phong cảnh.
- Nếu vậy ông hãy nhìn đây. - Henry đưa tay chỉ chếch về bên phải một ít. - Nó kia!
Tôi và Huđơ nhìn theo và thấy ở cách không xa chúng tôi có một con đường lớn mà lúc đầu chún tôi không nhận ra, vì đi đến đồng bằng, nó quay ngang và khuất sau những ngọn đồi nhấp nhô. Kể cũng lạ là điều ấy không làm chúng tôi ngạc nhiên lắm, có thể vì sau tất cả những cái được chứng kiến, chúng tôi đã để mất hết khả năng ngạc nhiên chăng? Thậm chí chúng tôi cũng chẳng thấy rằng đó là điều không thể giải thích nổi. Rằng ở một đất nước còn hoang dã không ai biết đến lại có thể có một con đường ghép đá bằng phẳng như những con đường cổ La Mã. Lúc ấy chúng tôi coi đó như một điều hoàn toàn bình thường.
- Tôi nghĩ con đường phải đi ngang gần đâu đây ở bên phải chúng ta, - Huđơ nói, - Ta thử tìm xem sao.
Đó là một lời khuyên khá thông minh, và xuống suối rửa ráy xong, chúng tôi lại đi tiếp. Thời gian đầu chúng tôi phải đi trên những tảng đá lớn và những bãi trống phủ đầy tuyết, cuối cùng, sau khi đã đi được chừng một dặm, chúng tôi lên đến đỉnh một ngọn đồi nhỏ và nhìn thấy con đường nằm ngay dưới chân mình.
Đó là một con đường rải đá tuyệt diệu ăn sâu vào núi, rộng ít nhất cũng phải mười lăm mét, chắc được chăm sóc cẩn thận vì còn rất tốt. Lúc đầu chúng tôi tưởng nó bắt đầu ngay từ chỗ chúng tôi đứng, như khi đi xuống, quay lại nhìn về phía núi Vú nữ hoàng Xava, chúng tôi thấy nó còn ngoằn ngoèo vươn lên cao, nhưng lại bỗng biến mất cách chúng tôi độ một trăm bước. Tiếp đó, tất cả bề mặt của chân núi được phủ bằng đá tảng và tuyết như trước.
- Theo ông thì thế này là thế nào? - Henry hỏi tôi. - Con đường biến đi đâu?
Tôi lắc đầu không giải thích nổi.
- Tất cả rất dễ hiểu! - Huđơ nói. Tôi tin chắc đã có thời con đường này chạy vượt qua núi, xuyên qua sa mạc. Nhưng dần dần, vì núi lửa hoạt động, các nham thạch phun ra làm lấp một số đoạn trên núi, còn ở sa mạc thì bị
- Ý kiến này nghe hoàn toàn có lý. - Ít ra là chúng tôi không cãi lại Huđơ, và lại tiếp tục xuống núi. So với khi leo lên, bây giờ đi xuống mới khác hẳn làm sao. Bây giờ chúng tôi no, và đi trên con đường tuyệt diệu này quả không còn gì thích bằng, trong khi leo lên thì phải kéo lê từng bước một, ngập sâu trong tuyết, hoàn toàn kiệt sức vì lạnh và đói. Nếu không phải đau sót nhớ lại số phận đáng buồn của Venfogen và cái hang núi ảm đạm, thì có thể nói chúng tôi cảm thấy hầu như hoàn toàn hạnh phúc, mặc dù đang đi vào một đất nước đầy bí ẩn và không loại trừ cả nguy hiểm.
Càng đi xuống, không khí càng trở nên mát mẻ, dễ chịu, và miền đất đang trải ra trước mặt càng làm chúng tôi ngạc nhiên thêm bằng vẻ đẹp của mình. Còn về bản thân con đường thì phải nói rằng trong đời tôi chưa bao giờ được thấy một công trình xây dựng nào tương tự, tuy Henry có khẳng định rằng con đường vượt qua núi Xengotad ở Thuỵ Sĩ rất giống nó.
Ngày xưa, những người thiết kế con đường này đã không để lại bất kì một trở ngại hoặc vật cản nào nằm chắn ngang nó. ƠŒ một chỗ khi gặp một khe núi chiều rộng gần một trăm mét, chiều sâu không ít hơn ba mươi mét, chúng tôi thấy con đường được ghép bằng những tảng đá khổng lồ bào nhẵn, phía dưới có làm vòm mái để thông nước. Con đường cứ thế vượt qua sông một cách vững tin và đầy kiêu hãnh. ƠŒ một chỗ khác, nó ngoằn ngoèo lượn theo bờ vực sâu hơn một trăm năm mươi mét. ƠŒ chỗ thứ ba, nó chui qua một đường hầm dài mười mét được đục xuyên một mỏm đá nằm chắn ngang. Chúng tôi nhận thấy trên bức tường đường hầm có chạm trổ rất nhiều hình nổi, phần lớn miêu tả các chiến binh mặc áo giáp sắt đang điều khiển cỗ xe ngựa. Có một hình nổi đặc biệt xinh đẹp: phía trước miêu tả một trận đánh, còn phía xa là những người thua trận đang bị bắt làm tù binh.
Henry ngắm nhìn tác phẩm nghệ thuật này của thời cổ đại một cách rất chăm chú.
- Tất nhiên có thể gọi đây là Con đường vĩ đại của vua Xolomon, - ông nói, - Nhưng theo nhận xét khiêm tốn của tôi thì chắc chắn những người Ai Cập đã kịp đến trước Xolomon, vì bức tranh này rất giống các tác phẩm nghệ thuật của thời Ai Cập cổ.
Đến trưa, chúng tôi đã đi được khá xa về phía dưới, đến chỗ bắt đầu có cây. Lúc đầu chỉ gặp các bụi cây thưa, nhỏ, nhưng càng đi xa, cây cối càng trở nên rậm rạp và xanh tốt. Cuối cùng là một rừng cây thưa mà con đường xuyên qua. Cây ở đây có lá óng ánh bạc như những cây vẫn thấy ở dốc núi Bàn Ăn ở Keptao. Điều này làm tôi rất ngạc nhiên vì tôi đã đi nhiều nhưng chưa bao giờ thấy ở đâu có giống cây này, trừ ở Keptao.
- Ôi! - Huđơ kêu lên một cách sung sướng khi nhìn những tán lá lấp lánh. - Củi ở đây nhiều quá! Đề nghị dừng lại và chuẩn bị nấu ăn. Cái dạ dày của tôi đã từ chối không còn muốn tiêu hóa món thịt sống nữa rồi!
Không ai phản đối, và thế là chúng tôi rẽ sang lề đường, đi về hướng có con suối nhỏ đang róc rách bên cạnh, nhặt cành cây khô, và chỉ mấy phút sau đã nhóm được một đống lửa tuyệt diệu. Chọn cắt từ số thịt mang theo mấy miếng to ngon, và bắt chước những người Caphơ, xâu vào đầu que nhọn, chúng tôi đem nướng chín rồi ăn một cách rất ngon lành.
Ăn no, chúng tôi châm tẩu hút rồi khoan khoái nằm nghỉ, tận hưởng những giây phút thần tiên sau chừng ấy đau đớn và gian khổ. Bờ suối mà chúng tôi đang nằm nghỉ được phủ một lớp dương xỉ cao dày, đây đó nhô lên những túm lông trắng của những cây măng tây dại, mịn như chỉ thêu đăng ten.
Con suối chảy róc rách vui vẻ. Ngọn gió dịu dàng khẽ lay động những tán lá màu bạc. Xung quanh là tiếng hót của bầy chim cu, và những con chim có bộ lông sặc sỡ đậu trên cây, óng ánh như những viên đá quý. Đây quả đúng là thiên đường! Ý nghĩ rằng những nỗi bất hạnh và những mối nguy hiểm liên tiếp ập đến mà chúng tôi gặp dọc đường đi, đã lùi lại phía sau, và rằng chúng tôi đã đi đến miền đất hứa mong đợi, vì cuối cùng là cảnh thiên nhiên kì diệu đã làm chúng tôi ngây ngất, đến nỗi mọi người bỗng đứng im lặng trong chốc lát.
Henry và Ambov ngồi cạnh nhau đang trò chuyện bằng thứ tiếng Anh sai bét và bằng thứ tiếng Dulux cũng sai không kém. Tôi nằm trên tấm thảm dương xỉ thoảng hương thơm nheo mắt ngắm nhìn họ. Bỗng nhận thấy Huđơ biến đâu mất. Tôi đưa mắt nhìn quanh và thấy ông ta, người chỉ mặc chiếc áo sơ mi đang ngồi bên bờ suối, nơi ông ta đã kịp tắm. Thói quen ưa sạch sẽ ở ông thuyền trưởng mạnh đến nỗi đáng lẽ nằm nghỉ, ông ta đã say sưa chăm chút trang điểm cho mình.
Ông ta đã kịp giặt sạch chiếc cổ áo hồ cứng, cẩn thận giữ và phủi sạch chiếc áo khoác, áo Gile, chiếc quần dài đã bị rách, và buồn bã lắc đầu ngắm nhìn vô số các chỗ sờn rách trên đấy. Sau đó, cẩn thận xếp quần áo vào một chỗ, Huđơ lấy một túm dương xỉ lau sạch đôi giày cáu bẩn. Sau khi bôi lên giày một lớp mỡ mà ông ta đã cất giấu khi chúng tôi bắn chết con incô, Huđơ bắt đầu đánh bóng cho đến lúc đôi giầy trở nên tử tế trở lại. Tiếp đến, ngắm nhìn kĩ đôi giầy của mình qua chiếc kính một mắt, ông xỏ nó vào chân, và lại tiếp tục làm cái công việc trang điểm công phu ấy. Lôi ra từ chiếc túi nhỏ luôn đeo bên mình chiếc lược có gắn liền với một chiếc gương bé xíu, thuyền trưởng Huđơ chăm chú ngắm nghía khuôn mặt mình. Có lẽ ông ta cảm thấy không hài lòng và sau đó bắt đầu cẩn thận chải và vuốt vuốt mái tóc. Soi gương một lần nữa, hình như vẫn chưa thật hài lòng lắm, ông ta sờ vào chiếc cằm mọc đầy râu tua tủa vì đã mười ngày nay chưa cạo.
“Không, - Tôi nghĩ, - Không thể như thế được. Không lẽ ông ta định cạo râu chắc?”.
Nhưng tôi đã không nhầm. Huđơ cầm lấy mẩu mỡ mà ông ta vừa bôi giày, đem rửa sạch trong nước suối. Sau đấy ông ta lại lục tìm trong chiếc túi và lôi ra một chiếc dao cạo nhỏ mà người ta vẫn hay dùng khi đi biển. Lau kĩ hai má và cằm bằng mỡ, Huđơ bắt đầu cạo râu. Hình như việc ấy có làm ông ta đau, vì tôi thấy thỉnh thoảng ông ta lại xuýt xoa rên rỉ. Còn tôi thì vừa nhìn, vừa phải bò ra cười khi thấy ông ta vật lộn một cách vất vả với đám râu cứng mọc tua tủa ra các phía ấy.
Cuối cùng, Huđơ khi đã cạo nhẵn nửa má và cằm bên phải, tôi bỗng thấy một cái gì đó như tia chớp vụt bay qua đầu ông ta.
Huđơ văng một câu tục khủng khiếp rồi nhảy chồm dậy (tôi nghĩ rằng nếu lưỡi dao sắc, có lẽ ông ta đã cứa đứt cổ mình). Tôi cũng chồm dậy nhưng không văng tục, và nhìn thấy một tốp người đang đứng cách tôi hai mươi bước, và cách Huđơ mười bước. Họ là những người rất cao lớn, có nước da màu đồng hun. Một vài người trên đầu đeo vòng có cắm những chiếc lông chim màu đen, còn trên vai là chiếc áo choàng da báo. Đó là tất cả những gì tôi kịp nhìn thấy vào lúc ấy.
Đứng hẳn về phía trước là một chàng trai khoảng mười bảy tuổi, tay còn giơ cao, giống một bức tượng người ném đĩa cổ đại. Có lẽ anh ta là người đã ném con dao trông như tia chớp đã bay qua đầu ông thuyền trưởng.
Khi tôi quan sát họ, từ đám người thổ dân bước ra một ông già với dáng điệu uy nghi của một chiến binh, rồi cầm tay chàng trai, nói với anh ta một điều gì đó. Sau đấy, cả bọn tiến về phía chúng tôi. Henry, Huđơ và Ambov vội cầm súng giơ lên một cách đe dọa, nhưng những người thổ dân hoàn toàn không để ý tới điều ấy, và vẫn tiếp tục tiến lại gần. Tôi hiểu ngay rằng họ chưa hề biết súng đạn là gì, nếu không họ đã chẳng tỏ ra khinh thường như vậy.
- Hãy bỏ ngay súng xuống! - Tôi kêu to với những người bạn đường của tôi. Lập tức tôi hiểu rằng chúng tôi cần phải cho những người thổ dân biết chúng tôi tới đây với mục đích hòa bình, để bằng cách ấy chiếm được sự cảm tình của họ. Đó là cách duy nhất có thể bảo vệ được mạng sống của chúng tôi. Các bạn tôi liền bỏ súng xuống, tôi bước lên phía trước và quay về phía ông già vừa ngăn chàng trai lại.
- Chào các ông! - Tôi nói bằng tiếng Dulux, mặc dù không biết ông ta nghe hiểu loại tiếng nào.
Tôi rất ngạc nhiên khi thấy ông hiểu tôi.
- Chào các ông! Ông ta đáp, không phải bằng tiếng Dulux chính cống, mà bằng một thổ ngữ nào đó rất gần, đến nỗi tôi và Ambov hiểu ngay lời ông ta.
Sau này chúng tôi biết rằng họ nói bằng tiếng Dulux cổ. Sự khác nhau giữa tiếng Dulux cổ và hiện đại cũng giống như sự khác nhau giữa tiếng Anh thời Sôxơ(Nhà thơ Anh nổi tiếng (1340-1440), người sáng lập ra tiếng Anh văn học) và tiếng Anh thế kỷ thứ mười chín.
- Các ông từ đâu tới đây? - Người chiến binh già hỏi chúng tôi. - Các ông là ai? Và tại sao ba trong số các ông có khuôn mặt trắng, còn khuôn mặt người thứ tư lại giống chúng tôi? - Ông ta hỏi thêm. Tay chỉ về phía Ambov.
Tôi nhìn anh chàng Dulux của chúng tôi và chợt nghĩ ông già nói đúng. Nét mặt và khổ người to lớn của anh ta cũng giống người thổ dân. Nhưng lúc ấy tôi chẳng còn lòng dạ nào mà nghĩ tới điều đó.
- Chúng tôi là những người lạ, tới đây với mục đích hòa bình, - Tôi đáp, cố nói một cách chậm chạp để ông ta có thể hiểu. - Còn người này, - Tôi nói thêm, tay chỉ Ambov, - là người hầu của chúng tôi.
- Ông nói dối, - Ông già không tin. - Không một người nào vượt qua được dãy núi này, nơi không có một sinh vật nào sống nổi. Ông nói dối như thế cũng vô ích, vì người lạ không được phép đặt chân đến Đất nước của những người Cucuan. Tất cả các ông sẽ phải chết. Luật của vua là thế. Hỡi những người da trắng, hãy chuẩn bị để đón chờ cái chết!
Xin thú thực rằng những lời ấy đã làm tôi ít nhiều hoảng sợ, nhất là khi tôi thấy tất cả bọn họ đều đưa tay lên thắt lưng, nơi có treo một cái gì đó trông giống như con dao to nặng.
- Con khỉ già nói gì thế? - Huđơ hỏi tôi.
- Ông ta nói rằng họ sẽ giết chúng ta, - tôi cau có đáp.
- Ôi, lạy chúa! - Huđơ rên rỉ, và giống như mọi lần khi quá hồi hộp, ông ta đưa tay vào miệng rút bộ răng giả của mình ra.
Sau đó ông ta lại nhanh chóng lắp vào, chậc chậc lưỡi.
Rõ ràng đó là một việc làm rất thành công của Huđơ, vì trông thấy thế, những người Cucuan kiêu hãnh rú lên hoảng sợ, và lùi lại phía sau mấy mét.
- Gì thế nhỉ? Chuyện gì đã xẩy ra? - Tôi ngơ ngác hỏi Henry.
- Đó là hàm răng giả của Huđơ đã làm họ hoảng sợ - Henry hồi hộp khẽ bảo tôi. - Ông ta rút hàm răng ra, và thế là họ sợ. Quẳng nó đi Huđơ, quẳng nó đi, nhanh lên!
Ông thuyền trưởng vội vàng nghe theo và khéo léo giấu hai hàm răng giả của mình vào ống áo sơ mi.
Sau đó sự tò mò đã lấn át nỗi sợ, và những người thổ dân lại chậm chạp, rón rén tiến về phía chúng tôi. Hình như họ đã quên đi cái ý định tốt đẹp của họ là cắt đứt cuống họng của đám người lạ mặt.
- Hãy nói cho chúng tôi biết, hỡi những người da trắng, - Ông già kêu lên một cách long trọng, tay chỉ Huđơ đang mặc độc chiếc áo sơ mi, một nửa mặt cạo nhẵn thín. - Hãy nói cho chúng tôi biết vì sao con người to béo kia, vai khoác áo, đôi chân để truồng, tóc chỉ mọc một nửa trên khuôn mặt trắng, còn nửa kia thì không mọc, và ở một mắt của ông ta lại có thêm một mắt nữa, trong suốt và lấp lánh? Và vì sao răng của ông ta lại có thể chui ra khỏi miệng và tự quay lại chỗ cũ?
- Hãy mở miệng ra! - Tôi khẽ bảo Huđơ.
Ông thuyền trưởng liền mở miệng, mà mắt vẫn nhìn ông già, dẩu môi gầm gừ như một con chó giận dữ, rồi hé cho ông ta xem hai hàm lợi đỏ hồng không có một chiếc răng nào, giống hệt miệng một con voi con mới đẻ.
Đám thổ dân ồ lên một tiếng ngạc nhiên.
- Răng của ông ta trốn đi đâu? - Họ hoảng sợ kêu lên. - Chúng tôi vừa được tận mắt nhìn thấy chúng cơ mà!
Ném về phía đám người man rợ một cái nhìn đầy khinh bỉ, Huđơ quay mặt sang bên, cho tay vào miệng, rồi quay lại há to miệng, và ôi, thật kì diệu, những người thổ dân lại nhìn thấy hai hàm răng tuyệt đẹp của ông ta.
Lúc này chàng trai đã ném vào Huđơ liền sụp lạy xuống đất, rú lên một tiếng dài hoảng sợ. Còn ông già thì hai đầu gối run lên bần bật.
- Bây giờ thì tôi hiểu rằng các ông là những vị thần, - Ông ta ấp úng nói, - Bởi không một ai do người phụ nữ sinh ra có tóc chỉ mọc trên nửa mặt, và một con mắt tròn trong suốt và cả hai hàm răng biết tự tháo ra lắp vào như thế! Hãy tha thứ cho chúng tôi thưa các vị thần bất tử!
Không cần nói, các bạn cũng biết tôi sung sướng chừng nào khi nghe những lời ấy. Lập tức chớp lấy cơ hội thuận lợi này, tôi mỉm cười một cách độ lượng rồi kiêu hãnh tuyên bố:
- Chúng tôi sẵn sàng tha thứ cho các ông. Bây giờ các ông cần biết sự thật sau đây: Chúng tôi tới đây từ thế giới khác, từ ngôi sao to sáng nhất ban đêm vẫn chiếu trên bầu trời, mặc dù bề ngoài chúng tôi là người như các ông.
- Ôi! Ôi! - Những người thổ dân đồng thanh kêu lên vì kinh ngạc.
- Vâng, chúng tôi tới đây từ những vì sao, - Tôi nói tiếp với nụ cười phúc hậu; - chính tôi cũng lấy làm ngạc nhiên vì sự dối trá của mình. - Chúng tôi xuống trái đất để thăm các ông và ban hạnh phúc cho đất nước các ông bằng sự có mặt của mình. Các ông thấy đấy, để tới đây, tôi thậm chí còn học thuộc cả tiếng các ông...
- Vâng, quả đúng thế! Đúng thế! - Tất cả đám thổ dân đồng thanh đáp.
- Ôi! Thưa ông chủ của tôi, - ông già ngắt lời tôi. - Có điều ông học không được tốt lắm!
Tôi nhìn ông ta với vẻ giận dữ, đến mức ông ta phải hoảng sợ và lập tức im lặng.
- Còn bây giờ thì, thưa các bạn của tôi, - Tôi nói tiếp, - chắc các bạn đang nghĩ rằng sau một hành trình dài và vất vả như thế mà chúng tôi lại được các bạn đón tiếp chẳng ra gì, nên chúng tôi đang muốn trả thù và sẽ giết chết con người đã dám giơ tay ném dao vào vị thần có hàm răng biết di động...
- Xin hãy tha thứ cho hắn, thưa các ông chủ của tôi, - ông già nói chen vào bằng giọng cầu khẩn. - Hắn là con trai của đức vua chúng tôi. Còn tôi là chú hắn. Nếu có điều gì xẩy ra với hắn, thì máu của hắn sẽ đổ lên đầu tôi, vì tôi chịu trách nhiệm về hắn.
- Chú có thể tin chắc là như thế, - chàng trai khẽ nói, rõ ràng và giận dữ.
- Có thể các ông nghĩ chúng tôi không đủ khả năng trả thù chăng? - Tôi nói tiếp, không hề chú ý đến lời hắn nói. - Hãy chờ đấy, rồi các ông sẽ thấy. Ê, tên nô lệ và là con chó kia, - tôi nói với Ambov bằng giọng giận dữ nhất mà tôi có thể có. - Hãy đưa chiếc ống phù thủy biết nói lại đây cho ta! - Và tôi khéo léo nháy mắt, chỉ khẩu súng Express.
Ambov hiểu ngay ý tôi và đưa khẩu súng. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy trên khuôn mặt kiêu hãnh của anh ta có một cái gì đấy trông như nụ cười.
- Đây, nó đây, thưa ông chủ của tất cả các ông chủ! - Anh ta cúi gập người xuống, cung kính nói.
Trước đấy tôi nhìn thấy một con sơn dương nhỏ đứng trên núi đá cách chúng tôi gần một trăm mét và tôi quyết định bắn nó.
- Các ông có thấy con vật kia không? - Tôi chỉ con sơn dương, nói với đám thổ dân. - Liệu con người do phụ nữ sinh ra có thể giết được nó chỉ bằng một tiếng động hay không?
- Không thể được, thưa ông chủ của tôi, - ông già đáp.
- Thế mà tôi làm được, - tôi nói giọng bình thản.
Ông già mỉm cười:
- Thậm chí cả ông, thưa ông chủ, cũng không thể làm được điều ấy.
Tôi nâng súng lên và bắt đầu ngắm. Con sơn dương này rất bé, nên dễ dàng bắn trượt ở một khoảng cách xa thế này, nhưng tôi biết rằng bằng bất cứ giá nào, tôi cũng phải bắn trúng. Con vật đứng yên hầu như không động đậy. Tôi nín thở bóp cò.
Bum!- súng nổ giòn, con sơn dương nhảy tung lên rồi ngã xuống chết ngay tại chỗ. Những người thổ dân rú lên kinh sợ.
- Nếu các ông muốn lấy thịt, - tôi lãnh đạm nói, - thì hãy mang nó đến đây!
Ông già ra hiệu, một người trong đám thổ dân chạy về phía sau núi và chẳng bao lâu sau quay lại với con vật đã bị giết chết. Tôi hài lòng nhận thấy viên đạn bắn trúng vào chỗ tôi ngắm, tức là cao hơn ngực một tí. Những người thổ dân đứng quan sát con vật tội nghiệp và chăm chú nhìn vào lỗ hổng do viên đạn xuyên qua với vẻ ngạc nhiên và lo sợ đầy mê tín.
- Các ông thấy chưa? - Tôi nói với họ, - tôi đã nói là làm được.
Không có ai trả lời.
- Nếu các ông còn nghi ngờ vào sức mạnh của chúng tôi, - tôi nói tiếp, - thì xin mời một người nào đó trong các ông đứng trên tảng đá, và tôi sẽ làm với anh ta như với con sơn dương này.
Nhưng không ai muốn thử điều ấy. Tiếp đến là mấy phút im lặng, rồi anh con trai của vua nói:
- Hay chú thử lên đứng trên tảng đá xem? Phép phù thủy chỉ giết được con vật chứ không phải con người.
Nhưng lời đề nghị của thằng cháu rõ ràng không được ông già thích lắm, thậm chí ông ta còn tỏ ra khó chịu.
- Không, không! - Ông ta vội kêu lên. - Đôi mắt già của tôi nhìn thấy thế là đủ. - Rồi quay sang đám tuỳ tùng, ông ta nói. - Những người này là quỷ thần, phải dẫn họ tới trình đức vua. Còn nếu ai trong số các anh muốn thử phép lạ của người lạ mặt, thì có thể đi lên đứng trên núi đá để chiếc ống thần có thể nói chuyện.
Nhưng cả lần này cũng không có ai muốn nghe ống thần nói chuyện.
- Không cần để phí vô ích sức mạnh thần thánh của những người từ các vì sao xuống đây đối với cơ thể đáng khinh của chúng tôi, - một người trong đám thổ dân nói. - Chúng tôi nhìn như thế là quá đủ. Tất cả những thầy phù thủy của chúng ta không thể cho xem một cái gì tương tự.
- Anh nói thế rất đúng, - ông già thở dài nhẹ nhõm, nói, - Quả là như thế thật. Hãy lắng nghe chúng tôi, hỡi những con người của các vì sao, những người có chiếc mắt lấp lánh và hàm răng biết tự tháo ra lắp vào, những người biết điều khiển sấm sét và làm chết con vật từ xa! Tôi là Inphadux, con trai của Capha, người đã từng làm vua của đất nước Cucuan. Còn chàng trai này là Xcraga.
- Cái thằng Xcraga này suýt nữa cho tôi sang thế giới bên kia, - Huđơ khẽ thì thầm (ƠŒ đây tác giả chơi chữ, không dịch được: Scrag tiếng Anh nghĩa là vặn cổ hay giết chết. Con trai của vua được gọi là Xcraga).
- Xcraga, - Inphadux trịnh trọng nói tiếp, - là con trai của Tuala. Vua Tuala vĩ đại là chồng của một nghìn bà vợ, là ông chủ và là người cầm đầu của dân tộc Cucuan, là người bảo vệ Con đường vĩ đại, là mối lo sợ của kẻ thù, là người thông minh biết hết mọi bí mật của trời đất và phép lạ, là thủ lĩnh của một trăm nghìn chiến binh, Tuala chột mắt, Tuala Đen, Tuala đáng sợ!
- Nếu thế thì hãy dẫn chúng tôi tới gặp Tuala. - Tôi nói, giọng kiêu hãnh. - Chúng tôi không muốn nói chuyện với những người dưới quyền và người hầu của ông ta.
- Đề nghị của ông sẽ được thực hiện, thưa các ông chủ, chúng tôi sẽ dẫn ông tới gặp vua, nhưng đường tới đó rất xa. Chúng tôi đến đây để đi săn và đang ở cách xa vua ba ngày đường. Xin các ông hãy chờ đợi, ba ngày nữa các ông sẽ thấy đức vua Tuala vĩ đại.
- Được, - Tôi nói vẻ dễ dãi. Chúng tôi chẳng cần vội, bởi vì chúng tôi là các thần bất tử. Chúng tôi đã sẵn sàng. Hãy dẫn chúng tôi đi. Nhưng hãy nghe đây, Inphadux và cả anh nữa, Xcraga! Đừng có giở trò lừa dối chúng tôi! đừng hòng đưa chúng tôi vào cạm bẫy! Trước khi bộ óc bẩn thỉu của các người kịp nghĩ làm những việc gì đấy không tốt, chúng tôi đã biết hết và sẽ trả thù, bởi vì chúng tôi có phép thần biết đọc ý nghĩ của người khác. Ánh sáng tỏa ra từ con mắt trong suốt của vị thần có đôi chân trần truồng và khuôn mặt tóc chỉ mọc một nửa kia, sẽ giết chết các ngươi ngay tại chỗ, và sẽ mang tai họa cho đất nước các ngươi. Hai hàm răng biết tự tháo ra và lắp vào của thần sẽ cắm ngập vào cơ thể của các ngươi và không chỉ nghiền nát các ngươi, mà cả vợ con các ngươi, và những chiếc ống phù thủy sẽ xuyên thủng qua cơ thể của các ngươi thành những lổ hổng lớn.
Bài nói hùng hồn này của tôi đã gây được một ấn tượng thật mạnh, mặc dù chưa hẳn đã cần phải làm thế, vì những người bạn mới của chúng tôi không cần dọa cũng đã hết sức sợ hãi trước những phép lạ mà chúng tôi vừa cho họ biết.
Người chiến binh già sụp lậy trước chúng tôi và nói: “Kuum, Kuum!”. Sau này tôi hiểu rằng hai tiếng ấy là lời chào mà theo phong tục Dulux, chỉ được nói với nhà vua hoặc họ hàng nhà vua. Sau đó, ông ta nói điều gì đấy với đám người thổ dân. Những người này lập tức giành lấy tất cả mọi đồ vật của chúng tôi, trừ những khẩu súng mà họ không dám động tới, thậm chí họ còn cầm cả quần áo của Huđơ, mà nếu bạn đọc còn nhớ, trước đấy đã được gấp xếp cẩn thận bên bờ suối. Thấy thế, ông thuyền trưởng muốn giành lại, và thế là một cuộc giằng co gay gắt đã xẩy ra giữa những người thổ dân và Huđơ.
- Xin ông chủ của chúng tôi và là vị thần có con mắt trong suốt không phải bận tâm đến đồ vật của mình. Những người nô lệ của người sẽ mang chúng hộ.
- Nhưng tôi muốn mặc quần của tôi! - Huđơ nửa kêu, nửa khóc bằng tiếng Anh. Ambov dịch lời của ông ta.
- Thưa ông chủ của tôi! - Inphadux nói. - Không lẽ ông muốn giấu đôi chân trắng tuyệt vời của mình không cho những người nô lệ hèn hạ nhìn thấy! (Huđơ tóc đen, nhưng da của ông ta trắng một cách lạ lùng). Chúng tôi đã làm gì để ông ta nổi giận? Thưa ông chủ, ông mặc quần để làm gì?
Nhìn Huđơ, tôi những muốn phá lên cười to. Trong lúc ấy, một người trong đám thổ dân đã kịp giành lấy chiếc quần và bỏ chạy.
- Quỷ tha ma bắt hắn đi! - Huđơ gào lên.- Thằng mọi đen lếu láo kia đã đánh cắp quần của tôi!
- Này ông Huđơ, Henry nói, ông xuất hiện ở đất nước này với một vai trò nhất định, và ông phải đóng màn kịch này đến cùng. Chừng nào còn ở đây, ông sẽ chẳng được mặc quần nữa. Từ nay ông chỉ được diện bằng cái áo sơ mi, đôi giày và chiếc kính một mắt.
- Vâng, tôi nói thêm, và bằng nửa bộ râu. Nếu ông xuất hiện trước những người Cucuan với dạng khác, họ sẽ cho chúng ta là những người nói dối. Tôi rất tiếc rằng ông buộc phải ăn mặc thế này, những điều tôi nói là hoàn toàn nghiêm túc, ông Huđơ ạ. Ông không còn lối thoát nào khác. Nếu để họ nghi ngờ dù chỉ chút ít, tính mạng của chúng ta sẽ chẳng còn đáng giá một đồng xu nhỏ.
- Ông nghĩ thế thật à? - Huđơ giận dữ hỏi.
- Vâng, tất nhiên! “Đôi chân trắng tuyệt vời” và chiếc kính một mắt của ông đã cứu sống chúng ta. Ông Henry hoàn toàn đúng khi nói ông cần sắm vai của mình đến cùng. Ông phải tạ ơn chúa, rằng ông đã kịp đi giày, và ở đây trời ấm.
Huđơ thở dài ngao ngán và không nói gì thêm. Chỉ hai tuần sau ông ta mới quen được cái kiểu ăn mặc lạ lùng ấy.