Bên cạnh đóa hoa lớn, những búp hoa nhỏ hơn còn chưa hé nở, đứng trên cuống hoa mọng nước chắc cứng, trong cái đài nhỏ màu xanh nâu. Búp hoa non nớt trồi lên lặng lẽ, kín đáo nhưng đầy sức lực được cuốn tròn chắc nịch và dịu dàng; bọc kín trong màu xanh sáng, và màu tím nhạt; ở đầu nhọn xinh xinh, ló ra màu tím thẫm trẻ măng. Ngay trên những búp non cuốn chặt này cũng có những đường gân và trăm ngàn đường nét để nhìn ngắm rồi.
Mỗi buổi sáng, khi cậu bé trở lại vườn từ căn nhà, từ giấc ngủ, từ cơn mơ, từ những thế giới xa lạ trong cơn mơ ngủ, khu vườn vẫn ở đó, luôn luôn mới nguyên và chờ đợi cậu. Rồi ở nơi mà hôm qua cái mũi búp hoa cứng nhọn màu xanh lơ cuốn tròn trong vỏ xanh còn đứng bất động; giờ đã lấp ló một cánh non mỏng và xanh như khí trời, như một cái lưỡi và một cái môi, đang tìm kiếm hình dáng và nét cong mà cánh hoa đã mơ ước từ lâu. Ở tận cùng nhất, nơi nụ hoa còn đang âm thầm tranh đấu để thoát ra khỏi bức màn lá xanh cuốn quanh mình, người ta đã thấy lờ mờ những cánh mỏng thanh tao màu vàng, con đường đầy gân sáng rỡ và vực thẳm linh hồn xa xăm đầy hương thơm của nụ hoa. Có lẽ đến trưa, có lẽ xế chiều, hoa hé nở, căng tấm màn lụa xanh trên khu rừng mơ mộng bằng vàng; những giấc mơ đầu tiên, những ý nghĩ, lời ca xuất hiện thầm lặng từ hố thẳm đầy ảo thuật bắt đầu hít thở khí trời.
Có một ngày, đầy hoa hình chuông màu xanh đứng chụm nhau trong cỏ. Rồi lại có một ngày, bỗng nhiên âm vang tiếng lạ và hương thơm mới trong vườn; trên đám lá đỏ đượm thắm mặt trời, phất phơ những đóa trà mi mềm mại đỏ thắm. Rồi lại có một ngày không còn đóa hoa huệ nào trong vườn nữa. Chúng đã ra đi. Không còn con đường nhỏ viền vàng nào dẫn dắt ta một cách dịu dàng vào bí mật thơm ngát. Những ngọn lá cứng ngắc đứng trơ xa lạ, lạnh lùng. Nhưng may sao, đâu đó ở các bụi cây, từng đàn, từng đàn bươm bướm dập dìu đùa cợt trên hoa ngôi sao. Những con bướm nâu đó có lưng óng ánh xà cừ, bầy bươm bướm nắc nẻ nhộn nhịp ồn ào; cánh trong như thủy tinh.
Anselm nói chuyện với bướm, với những viên sỏi trong vườn, làm bạn với bọ rầy và chim sáo. Chim kể cho cậu nghe chuyện loài chim, cây dương xỉ kín đáo chỉ cho cậu hạt giống nâu đã được gom lại dưới những ngọn lá khổng lồ. Những mảnh thủy tinh hứng cho cậu tia sáng mặt trời, chúng bỗng hóa thành lâu đài, vườn cây và các kho tàng chói lọi. Khi hoa huệ tàn thì hoa kapuziner [2] lại nở, đóa trà mi héo thì những chùm dâu sặc sỡ nhuốm màu nâu. Tất cả đều đổi thay, tất cả luôn luôn ở đó, và luôn luôn lìa xa, biến mất rồi trong khoảnh khắc lại trở về. Ngay cả những ngày hãi hùng bất thường, cơn gió lạnh lùng rít ầm ĩ trên ngọn cây thông, đám lá úa đùa xào xạc tái tê và rũ rượi khắp nơi trong vườn, vẫn mang đến cho cậu một bài ca, một nhịp sống, một câu chuyện; kể cả khi tất cả sụp xuống, tuyết rơi trước cửa sổ, khi các thiên thần bay cùng tiếng chuông bạc suốt cả buổi chiều, hành lang cùng nền nhà thơm ngát mùi trái cây phơi khô. Không bao giờ tình bạn hữu và niềm tin lại phụt tắt ở thế giới tốt lành này. Như một sự ngẫu nhiên, những chùm hoa tuyết xuất hiện sáng rỡ bên cạnh đám lá trường xuân đằng đen sì, những chú chim đầu tiên bay vút lên khoảng cao xanh mới mẻ, thì dường như mọi vật vẫn luôn luôn còn đó, đứng đó tự bao giờ.
Cho đến một hôm, búp non màu tím nhạt lấp ló từ những chồi ngọc của hoa huệ tím, vẫn luôn luôn đúng hẹn và như mong đợi.
Tất cả đều đẹp đẽ. Anselm mừng đón tất cả đầy thân thiết, tin cẩn. Nhưng giây phút lớn lao nhất, đầy mầu nhiệm hằng năm đối với cậu bé vẫn là lúc đón đóa huệ tím đầu tiên. Chính ở trong đài hoa ấy, trong giấc mơ trẻ thơ xa xưa, lần đầu tiên trong đời cậu đã đọc được quyển sách của phép nhiệm mầu - hương thơm và màu xanh rung rinh của hoa là lời mời gọi và chìa khóa của sáng tạo. Huệ tím cùng với cậu đã đi qua những năm dài trong trắng ngây thơ. Mỗi mùa hè mới, hoa không những mới nguyên mà còn như tăng vẻ bí mật và dễ cảm hơn. Những loài hoa khác cũng có miệng, cũng gửi hương và ý tưởng cho gió truyền đi, cũng quyến rũ ong và bọ rầy vào trong phòng the nhỏ bé ngọt ngào của chúng. Nhưng đối với cậu, đóa huệ tím vẫn đáng yêu hơn và quan trọng hơn tất cả. Với cậu, huệ tím là biểu tượng, là tấm gương cho tất cả những gì đáng được suy ngẫm, cho những gì tuyệt vời tuyệt tác. Khi cậu cúi nhìn vào đài hoa, theo dõi say sưa bằng ý tưởng con đường nhỏ trong sáng mơ mộng và gặp gỡ lòng hoa còn u minh giữa những hàng cây màu vàng kỳ ảo, tâm hồn cậu đã nhìn thấu vào chốn “nhập môn”, nơi mà mọi sự xuất hiện đều trở thành bí nhiệm và mọi sự “thấy” đều trở nên linh cảm. Nhiều đêm, cậu bé mơ nhiều lần về cái đài hoa đó; thấy đài hoa mở rộng vô cùng ở trước mặt như cánh cửa Thiên đường, thấy mình cưỡi ngựa hay ngồi trên thiên nga bay vào trong đó và cả thế giới cũng theo cậu nhẹ nhàng lướt, bay, trượt như bị thu hút bằng ảo thuật vào trong yết hầu mỹ miều của hoa, vào sâu xuống dưới, ở đó mọi sự chờ đợi đều được đền đáp và mọi linh cảm đều trở thành chân lý.
Mỗi sự xuất hiện trên địa cầu là một biểu tượng và mỗi biểu tượng là một cánh cửa mở ngó cho linh hồn sẵn sàng đi vào nội tâm của thế giới nơi mà người với tôi vĩnh viễn là một. Mỗi người trong đời mình đều đã gặp đâu đây trên đường đi cánh cửa mở ngỏ đó, ai cũng có một lúc nào đấy bất chợt nghĩ rằng tất cả những điều mắt thấy tai nghe đều là biểu tượng, sau biểu tượng này hiển hiện cõi tâm linh và đời sống vĩnh cửu. Nhưng ít người đã đi qua cánh cửa mở đó và chịu đánh đổi vẻ đẹp bên ngoài để lấy cái thực chất nội tâm còn lờ mờ trong tâm khảm.
Đối với Anselm, đóa hoa tím xanh lơ kia xuất hiện như một câu hỏi ám ảnh tâm trí cậu đòi hỏi phải có lời giải đáp. Nhưng rồi vạn vật muôn màu muôn vẻ đáng yêu lại lôi kéo cậu đi nơi khác, vào những cuộc tỉ tê, đùa giỡn với đá sỏi, với cỏ dại bụi cây, với côn trùng và với tất cả tình bằng hữu của cậu với thế giới bé nhỏ ấy. Có khi cậu đắm mình ngắm nghía, quan sát chính bản thân mình, trao trọn tâm tư vào những điều khác lạ của thân thể, nhắm mắt nghe những cảm xúc kỳ lạ, những kích thích và tưởng tượng trong cổ và mồm mỗi khi nuốt, hoặc khi hát hay thở, và cảm nhận được ngay cả nơi linh hồn bắt nhịp với linh hồn. Cậu quan sát một cách ngạc nhiên những hình màu đầy ý nghĩa thường xuất hiện trong bóng tối đỏ bầm khi nhắm nghiền đôi mắt, các vòng bán nguyệt màu xanh lơ hoặc đỏ thẫm có những đường nét sáng trong chen vào giữa... Đôi khi Anselm lại cảm nhận với nỗi xúc động vừa vui vừa sợ hãi sự liên hệ giữa thị giác và thính giác, giữa khứu giác và vị giác và cảm nhận trong một khoảnh khắc đẹp ngắn ngủi thanh âm, lời và các vần chữ thân thuộc với nhau, sự đồng loại giữa màu đỏ với màu xanh, giữa cứng và mềm, hoặc cậu kinh ngạc khi ngửi một ngọn rau hay một rễ cây xanh được bóc ra, hương vị sao mà giống nhau đến thế, có khi chúng lại tan hòa vào nhau và trở thành vị duy nhất một cách diệu kỳ.
Mọi trẻ thơ đều cảm thấy như vậy dù cho cường độ nhạy cảm khác nhau. Ở rất nhiều trẻ thơ, những lắng nghe, khám phá đó thường biến mất như chưa bao giờ hiện hữu, trước khi đứa trẻ đọc được vần chữ đầu tiên. Nhưng một số đứa trẻ, vẻ bí nhiệm của tuổi thơ vẫn còn lẩn quẩn và chúng vẫn mang theo dư âm của nó cho đến lúc tóc nhuốm màu sương, trong những ngày muộn màng mệt mỏi của cuộc đời. Mọi trẻ thơ, khi chúng thấy cuộc sống giấu đầy bí mật, đều bận tâm với một điều quan trọng nhất: bản thân mình và mối quan hệ đầy bí ẩn giữa mình và thế giới xung quanh. Kẻ đi tìm và nhà hiền triết thường quay về mối bận tâm này sau những năm chín muồi suy tư, còn phần đông thì quên lãng và rời bỏ rất sớm thế giới nội tâm kia vĩnh viễn, để suốt đời lang thang trong những sai lầm hỗn tạp đầy những lo âu, ước muốn và mục đích, trong đó không có cái gì hiện hữu trong nội tâm sâu kín của họ, không gì có thể dẫn dắt họ tìm đến cõi lòng sâu xa nhất và trở lại quê nhà được.
Những mùa hè và mùa thu trẻ dại của Anselm cứ đến dịu dàng và đi nhẹ nhàng. Hoa tuyết chuông, hoa tím, hoa đinh tử; hoa huệ, hoa hồng... thay nhau nở rồi tàn, rồi lại nở, vẫn đẹp đẽ và phong phú như tự bao giờ. Anselm sống với hoa, chim; hoa tâm sự với cậu, cây và suối lắng nghe cậu, và cậu thường đem những chữ tập viết đầu tiên, những âu lo đầu tiên giãi bày với khu vườn, với mẹ, với những viên đá sặc sỡ ở bồn hoa.
Rồi có một mùa xuân, mùa xuân ấy không rộn rã và đượm mùi như các mùa xuân trước, chim sáo hót véo von nhưng lời ca không phải bài hát cũ, hoa huệ tím nở nhưng không còn những giấc mơ, hình dáng thần thoại với con đường viền vàng của đài hoa. Những trái dâu đó tươi cười núp sau đám lá xanh và bươm bướm vẫn bay rộn ràng lấp lánh trên những tán hoa cao... Nhưng tất cả không còn như trước, cậu bé bận tâm với nhiều chuyện khác. Ngay với mẹ, cậu cũng đã nhiều lần gây gổ. Chính cậu cũng không hiểu duyên cớ tại sao, có điều gì làm cậu đau đớn trong lòng, có một điều gì đấy luôn luôn quấy rầy cậu. Chỉ biết là thế giới đã đổi thay, tình bằng hữu từ trước đến nay đã rơi rụng và để lại cậu trơ trọi một mình.
Một năm trôi qua, rồi một năm nữa, Anselm không còn là một chú bé con. Những viên sỏi sặc sỡ ở bồn hoa trở nên buồn chán, những đóa hoa như hóa câm và đám bọ rầy bị cậu lấy kim xâu bỏ vào hộp: linh hồn cậu đang bước vào con đường dài và chông gai. Những tình cảm thuở trước đã không còn nữa.
Chàng trẻ tuổi vội vã lăn xả vào đời, cuộc đời như mới bắt đầu từ đây. Đã qua rồi và chìm trong lãng quên cái thế giới biểu tượng ngày xưa, những ước mơ mới mẻ và con đường mới lạ quyến rũ cậu đi xa. Có chăng là một chút trẻ dại còn thoang thoảng như một làn hương trong ánh mắt xanh và phất phơ trong mớ tóc mềm mại của chàng, nhưng chàng không thích điều đó. Chàng cắt tóc ngắn đi và sửa ánh mắt cho có vẻ bạo tợn, sành sỏi hơn lên. Chàng thay đổi nhanh chóng theo năm tháng. Khi là một người học trò và bạn tốt, khi trơ trọi và rụt rè, khi vùi đầu trong vở đến khuya, lúc lại điên cuồng ồn ào trong những quán rượu. Chàng phải rời quê nhà và chỉ gặp lại quê cũ trong những lần hiếm hoi về thăm nhà ngắn ngủi. Về nhà với mẹ, chàng bây giờ là một chàng trai trưởng thành, ăn diện thanh lịch. Chàng thường mang theo bạn bè, sách vở, luôn luôn có những thứ khác lạ. Khi chàng đi qua khu vườn cũ, khu vườn thu lại bé nhỏ và bặt tiếng trước tia nhìn lơ đãng của chàng. Chàng không bao giờ nhìn thấy nữa những câu chuyện ở đường gân sặc sỡ của các viên sỏi và lá cây. Chàng không bao giờ nhìn ra thượng đế và sự vĩnh cửu ở vẻ bí mật của đóa hoa huệ tím nữa.
Anselm là học trò, rồi sinh viên, chàng trở về quê với mũ đỏ, rồi mũ vàng, với vành râu mép lơ thơ và rồi với một bộ râu. Chàng mang sách ngoại ngữ về, có lần mang theo một con chó. Và trong cặp da treo ở ngực, khi thì đầy ắp những bài thơ mới viết, khi thì mấy tờ giấy chép những câu danh ngôn xưa, tranh họa và thư từ của các cô gái đẹp. Chàng trở về quê sau một thời gian sống ở ngoại quốc và lênh đênh trên những con tàu ngoài biển khơi. Chàng trở về là một học giả trẻ, mang mũ đen và bao tay màu sẫm. Những người láng giềng cũ ngả mũ khi gặp chàng và gọi chàng là “ông giáo sư” dù chàng chưa phải là giáo sư. Chàng trở về, mặc áo tang, đi lặng lẽ và nghiêm trang sau chiếc xe tang mẹ chàng yên ngủ trong chiếc quan tài kết hoa. Và từ đó, những lần chàng trở về càng hiếm hơn.
Bấy giờ Anselm sống ở đô thị, dạy sinh viên và được xem là học giả nổi tiếng. Chàng sống cũng giống mọi người trên thế gian, cũng đi, cũng dạo chơi, cũng ngồi, cũng đứng, trong y phục trang nhã, nghiêm nghị hay thân mật với đôi mắt nhanh nhẹn và đôi khi hơi mệt mỏi. Chàng đã là một nhà nghiên cứu, một nhân vật đúng như chàng mong muốn. Lúc bấy giờ, tâm trạng chàng giống như những năm cuối thời trẻ thơ. Chàng bỗng thấy thời gian trôi quá nhanh còn mình vẫn đứng trơ trọi và không thỏa mãn ở thế gian, thế gian mà chàng luôn luôn mải mê theo đuổi. Chàng nhận thấy làm giáo sư không phải là hạnh phúc thực sự, được dân chúng, sinh viên chào đón kính trọng cũng không phải là một hứng thú sung mãn. Tất cả điều đó sẽ tàn úa và biến thành cát bụi, hạnh phúc xa vời trong tương lai còn con đường đi đến đó xem ra nóng nực, bụi bặm và tầm thường.
Anselm hay đến chơi nhà một người bạn có cô em gái thu hút chàng. Bây giờ chàng không dễ dàng chạy theo một khuôn mặt đẹp nữa, chàng nghĩ hạnh phúc phải đến với mình một cách đặc biệt hơn và không nằm sau mỗi cánh cửa. Chàng rất thích cô em gái của người bạn, thậm chí chàng nghĩ mình yêu nàng thật tình. Nhưng nàng là một cô gái đặc biệt, mỗi bước đi, mỗi lời nói của nàng đều được tô điểm một vẻ riêng và thật không dễ dàng đến được với nàng, bắt đúng nhịp với nàng. Anselm thường băn khoăn về cô bạn gái. Chàng đi đi lại lại một mình trong nhà, nghe tiếng bước chân của mình, lòng ngổn ngang những ý nghĩ. Nàng lớn tuổi hơn mình, nàng rất kỳ cục và chắc sẽ rất khó khăn nếu vừa sống với nàng vừa muốn theo đuổi tham vọng. Nàng không bao giờ muốn nghe nói đến chữ “tham vọng”. Nàng không khỏe mạnh lắm và không thể chịu đựng khách khứa, tiệc tùng. Nàng thích sống với hoa, âm nhạc, với một quyển sách bên mình trong sự yên tĩnh cô đơn, chờ đợi xem có ai đến với mình không và để mặc thế giới trôi xuôi. Đôi khi nàng rất mỏng manh, dễ cảm đến nỗi một chút xa lạ cũng khiến cho nàng đau đớn và chảy nước mắt. Rồi sau đó nàng lại rực rỡ một cách trầm tĩnh và thanh thoát với vẻ hạnh phúc riêng tư. Những ai biết điều đó đều cảm thấy thật khó để trao tặng cho người đàn bà đẹp hiếm có này một điều gì hoặc để có một ý nghĩa nào đó đối với nàng. Anselm tin nàng yêu mình, nhưng đôi khi chàng lại thấy hình như nàng chẳng yêu ai mà dịu dàng và thân mật với tất cả. Nàng không để ý một thứ gì trên thế gian, chỉ muốn được yên tĩnh. Còn chàng, thì lại muốn đòi hỏi ở đời sống một thứ khác nữa và nếu như chàng lấy vợ thì tiếng rộn rã, sự hiếu khách phải có ở trong nhà mới được.
Một hôm chàng nói với nàng: “Iris, Iris thân yêu, nếu thế giới khác đi, nếu không có gì khác ngoài thế giới đẹp đẽ và dịu dàng với hoa, tư tưởng và âm nhạc của em, thì tôi không ao ước gì hơn là được sống suốt đời bên em, nghe em kể chuyện. Riêng tên của em thôi cũng đủ làm tôi dễ chịu, Iris là một tên tuyệt diệu, hình như tên đó nhắc nhở tôi một điều gì”.
Iris đáp: “Anh biết hoa huệ tím mang tên Iris chứ?”
“Có,” chàng kêu lên trong cảm giác lo sợ; “tôi biết và điều đó cũng đã đẹp rồi. Nhưng mỗi khi tôi nói tên em thì dường như tên em muốn nhắc cho tôi một điều gì đó, hình như nó gắn liền với kỷ niệm sâu xa và trọng đại đối với tôi, nhưng tôi không biết và không tìm ra được”.
Iris mỉm cười với chàng, trong lúc chàng đứng trơ ra đó và lấy tay lau trán.
“Mỗi lần em đều cảm thấy như thế,” nàng nói bằng giọng nhẹ như chim, “khi em ngứi một bông hoa. Mỗi lần tim em đều cho rằng gắn liền với hương thơm kia luôn luôn có một kỷ vật để nhớ đến, một cái gì đẹp và quý báu tuyệt trần, kỷ vật đó trước đây là của em và bị đánh mất đi. Với âm nhạc và đôi khi với thơ văn cũng thế, ở đó đột nhiên lóe sáng một vật gì trong chớp mắt, ví như khi người ta thấy lại được quê hương đã mất bỗng nhiên hiện ra trong thung lũng dưới chân mình và rồi giây phút đó biến mất đi và bị quên lãng. Anselm thân mến! Em tin rằng chúng ta hiện hữu ở trên quả đất này có ý nghĩa cho sự hồi tưởng, tìm kiếm và lắng nghe những hình dáng màu sắc âm thanh đã mất, và quê hương thật sự của chúng ta chính là ở đằng sau đó”.
“Em nói hay quá!” Anselm nói và cảm thấy trong lồng ngực nhói lên một rung động gần như đau đớn, như có một cây kim chỉ nam được giấu kín bỗng bật ra chỉ ngay vào mục tiêu xa xăm nào đó. Mục tiêu này hoàn toàn khác với mục tiêu mà chàng nhắm cho đời mình, điều đó làm chàng đau đớn. Chàng tự hỏi mình có nên phung phí cả cuộc đời trong những giấc mộng với những chuyện thần thoại đẹp đẽ kia không?
Bẵng đi một dạo, một hôm, Anselm trở về từ một cuộc viễn du cô đơn; thấy gian phòng trống trải chào đón mình lạnh lẽo và ngột ngạt, chàng liền đi đến thăm bạn và nghĩ sẽ cầu hôn nàng Iris xinh đẹp.
Chàng nói với nàng: “Iris ơi! Tôi không muốn tiếp tục sống thế này nữa. Em luôn là người bạn tốt của tôi, tôi phải nói với em tất cả. Tôi phải có vợ nếu không thì cuộc sống sẽ trống rỗng và vô nghĩa. Và tôi có thể ao ước một người vợ nào khác hơn là em, đóa hoa yêu quý? Em có bằng lòng không hở Iris? Em sẽ có tất cả các loài hoa có thể tìm được trên thế gian, em sẽ có một khu vườn đẹp nhất thế gian. Em có muốn đến với tôi không?”
Iris im lặng nhìn rất lâu vào mắt chàng. Nàng không mỉm cười và không đó mặt, rồi trả lời bằng giọng chắc chắn:
“Anselm à, em không ngạc nhiên về câu hỏi của anh, em yêu anh dù không bao giờ nghĩ sẽ trở thành vợ anh. Nhưng nghe đây, người bạn của em, em sẽ có những đòi hỏi to lớn với ai muốn lấy em làm vợ. Em có những đòi hỏi lớn hơn những người đàn bà khác. Anh muốn hiến dâng cho em nhiều hoa và có ý tốt với em. Nhưng em có thể sống không có hoa và không có âm nhạc, em có thể làm điều đó và không đòi hỏi nhiều thứ khác nếu cần phải thế. Chỉ có một điều em không thể và không muốn thiếu đi: Đấy là em không thể sống một ngày mà thứ âm nhạc trong con tim của em không phải là điều chính yếu. Nếu em sống với một người chồng thì người đó phải là người có âm nhạc nội tâm hòa hợp tốt đẹp và thanh thoát với tiết tấu âm thanh của em, và hơn nữa âm nhạc của người ấy phải là ước muốn duy nhất của đời chàng. Anh có thể làm được như vậy không hỡi bạn của em? Có lẽ rồi anh sẽ không được nổi tiếng và không có danh vọng nữa, nhà của anh sẽ yên tĩnh và các nếp nhăn ở trên trán anh mà em đã thấy từ bao năm qua phải được rửa trôi đi. Ồ Anselm ơi! Không được đâu. Hãy xem, con người anh vẫn như thế, vẫn là người cứ phải học cho đến khi những nếp nhăn ở trán cày sâu thêm, vẫn là người luôn tạo ra những lo âu mới. Còn em và tâm tư của em, anh có yêu thích và thấy hay hay đấy, nhưng anh và nhiều người khác cũng chỉ xem như một trò chơi thanh nhã. Anh nghe em đây: tất cả những gì anh coi là trò chơi thì với em chính là cuộc sống. Anh cũng phải coi đó là cuộc sống của anh. Còn tất cả những gì anh đã phải cực nhọc và lo âu làm nên thì đối với em cái đấy là trò chơi, và theo em chắng đáng giá gì cho cuọc sống của chúng ta. Em sẽ không thay đổi đâu, Anselm à, bởi vì em sống theo quy luật của trái tim mình. Nhưng anh có thể thay đổi không? Và anh sẽ phải thay đổi, nếu muốn lấy em làm vợ”.
Bị đánh trúng tâm lý, Anselm im lặng trước ý muốn của nàng, ý muốn mà chàng đã cho là yếu ớt và đùa bỡn. Chàng câm nín bóp nát một bông hoa trong bàn tay run rẩy của mình. Iris dịu dàng lấy bông hoa ở tay chàng ra, cứ chỉ này như một lời trách móc đâm thẳng vào tim chàng. Nàng bỗng mỉm cười một cách rạng rỡ và đáng yêu, như khi bất ngờ tìm ra trong bóng tối một lời giải đáp.
Nàng nói nhỏ nhẹ và mặt hơi đỏ lên: “Em có một ý kiến, có lẽ anh sẽ thấy nó kỳ cục và cho đó là một ý tưởng điên rồ, nhưng không điên rồ chút nào đâu. Anh muốn nghe chăng? Và anh có muốn chấp thuận nó để nó quyết định cho chúng ta chăng?”
Anselm chăm chú nhìn cô bạn gái mà chẳng hiểu gì cả. Nụ cười mỉm của nàng buộc chàng đồng ý.
“Em muốn giao cho anh một công việc”, nàng nói và bỗng trở nên nghiêm trang.
“Này, em hãy nói đi, đó là quyền của em” Anselm trả lời.
Nàng nói: “Đây là điều quan trọng của em và là lời nói cuối cùng của em. Anh có muốn đón nhận nó như nó đến từ linh hồn của em và không mặc cả so đo, dù cho anh không hiểu ngay điều đó không?”
Anselm hứa. Bây giờ nàng vừa nói vừa đứng dậy và đưa tay cho chàng.
“Nhiều lần anh đã nói với em là mỗi khi nói tên em, anh đều cảm thấy nhớ đến một điều gì đó đã bị lãng quên nhưng đối với anh là rất trọng đại và thần thánh. Đó là một dấu hiệu, Anselm à; và điều đó đã thôi thúc anh đến với em. Em cũng tin là anh đã đánh mất và quên đi một điều gì quan trọng và thần thánh trong tâm hồn mình, điều đó cần phải được đánh thức lại, trước khi anh có thể tìm ra hạnh phúc và đạt tới định mệnh của anh: Hãy đi và hãy nhìn cho đến khi tìm lại được trong ký ức điều đó, điều mà anh nhớ đến mỗi khi anh gọi tên em. Ngày nào anh tìm ra được thì ngày ấy em sẽ là vợ anh, sẽ đi với anh đến nơi nào anh muốn và sẽ không có ước muốn nào nữa ngoài ước muốn của anh”.
Chàng Anselm bối rối, bàng hoàng muốn ngắt lời nàng và trách rằng lời yêu cầu thật điên rồ, nhưng ánh mắt trong sáng của nàng nhắc nhở lời chàng đã hứa nên chàng phải im lặng. Với cặp mắt mỏi mệt và chịu thua, chàng nắm lấy tay nàng, đưa lên môi hôn và từ giã.
Trong đời chàng đã nhận nhiều bổn phận, và đã giải quyết chúng, nhưng không bổn phận nào kỳ lạ, quan trọng mà lại làm chàng nản chí như bổn phận này. Ngày ngày, chàng đi lang thang và ngẫm nghĩ về nó đến mệt đừ, có lúc chàng tuyệt vọng và giận dữ cho rằng đây là tính khùng của đàn bà, định từ bỏ không nghĩ đến nữa. Nhưng rồi trong thâm tâm chàng, có điều gì, như một nỗi đau bí ẩn và mỏng manh, một nhắc nhở không lời rất dịu dàng phản đối lại ý nghĩ đó. Giọng nói nhỏ nhẹ, giọng nói đi từ thâm tâm của chính chàng, đã đồng tình với Iris và cũng đòi hỏi như nàng vậy.
Công việc đó quả thật là khó khăn. Chàng phải nhớ lại điều mà từ lâu đã quên khuấy đi, phải gỡ cho ra sợi dây vàng duy nhất khỏi tấm lưới nhện của những năm dài đã chìm vào lãng quên. Chàng phải vớt bắt bằng hai tay và phải đem lại cho người yêu một thứ gì, mà có lẽ chỉ là một tiếng chim kêu đã thoáng đi, một thoáng bay của cảm hứng hay u sầu khi nghe một bản nhạc, một thứ gì còn mỏng manh hơn; phôi pha hơn, vô hình hơn tư tưởng, hư vô hơn giấc mộng ban đêm, và lãng đãng vô định còn hơn sương mù buổi sáng.
Khi chàng toan từ bỏ tất cả vì chán nản và cáu kỉnh, thôi không tìm kiếm nữa, thì dường như vô tình có cái gì thổi nhẹ vào chàng như một hơi thở từ những khu vườn xa xôi. Chàng thì thầm với mình tên Iris, mười lần và nhiều hơn, nhỏ nhẹ và đùa cợt như khi người ta thứ âm thanh trên một phím đàn căng dây. “Iris,” chàng thì thào, “Iris,” với một cơn đau nhẹ, chàng cảm thấy trong thâm tâm có điều gì đang chuyển động, y như trong một căn nhà cũ bị bỏ hoang, cánh cửa vô cớ bỗng mở ra và tấm song kêu kẽo kẹt. Chàng nhớ lại những hoài niệm xa xôi và bỗng có những khám phá kỳ lạ và kinh ngạc. Kho kỷ niệm hóa ra bé nhỏ hơn chàng tưởng: năm tháng đi qua trống rỗng như những trang giấy không có chữ viết. Chàng thấy mình phải cố gắng lắm mới tưởng tượng lại rõ rệt hình ảnh của mẹ, đã hoàn toàn quên không nhớ cô gái mình theo đuổi tán tỉnh say mê một năm tròn hồi còn thư sinh tên là gì. Chàng sực nhớ đến con chó mình mua trong một phút bốc đồng hồi còn sinh viên, chú ta đã sống với chàng một quãng thời gian dài. Vậy mà phải mất mấy ngày chàng mới nhớ lại tên con chó.
Lòng đầy buồn bã, chàng trai tội nghiệp thấy rằng quãng đời mình đã đi qua điêu tàn và trống rỗng biết bao, quãng đời đó không phụ thuộc vào chàng nữa mà xa lạ và không liên hệ gì với chàng. Ví như điều mà xa xưa kia ta đã thuộc nằm lòng nhưng bây giờ phải vất vả ráp lại từng mảnh vụn vô vị. Chàng bắt đầu viết, chàng muốn quay trở về từng năm, từng năm một, viết lại những quãng thời gian quan trọng của đời mình, để được nắm lại chúng trong tay. Nhưng chỗ nào là những mảnh đời quan trọng nhất? Lúc chàng trở thành giáo sư chăng? Lúc chàng là ông tiến sĩ, là cậu học sinh, là chàng sinh viên chăng, hay trong quãng thời gian cô gái này cô gái nọ đã làm chàng vừa lòng? Hãi hùng, chàng ngước nhìn lên: Đó là đời sống chăng? Đời sống chỉ có thế thôi sao? Chàng đập tay vào trán và cười dữ dội.
Thời gian vẫn trôi qua, chưa bao giờ thời gian lại qua mau và tàn nhẫn đến thế. Một năm đã hết và chàng thấy mình vẫn chẳng khác gì lúc giã từ Iris. Nhưng những người khác đều thấy và biết là chàng đã thay đổi rất nhiều. Chàng trở nên vừa già hơn vừa trẻ hơn. Đối với bạn bè, chàng hầu như thành xa lạ, người ta thấy chàng lơ đãng; hay cáu và kỳ cục, lâu dần chàng được mệnh danh là một quái nhân. Thật đáng tiếc cho chàng, nhưng thế đấy. Đã có lần chàng quên cả công việc của mình, học trò đợi chàng vô ích cả buổi. Lại có khi chàng lếch thếch trên đường phố, lần theo những ngôi nhà và quét bụi đường bằng cái quần rách rưới lê thê. Nhiều người cho là chàng đã bắt đầu uống rượu. Có lúc chàng bỗng ngưng lại chốc lát giữa bài giảng, lục lọi trong trí nhớ một điều gì, rồi mỉm cười một cách trẻ thơ và nhiệt thành - điều mà người ta không bao giờ thấy ở chàng - rồi lại tiếp tục giảng bằng giọng ấm áp và cảm động.
Chàng không biết rằng từ lâu, một ý nghĩ mới đã đến với chàng trong chuyến thám hiểm vô vọng theo những hương thơm và dấu vết đã bị thổi mất của những năm tháng xa xưa. Chàng nhận thấy đằng sau những điều chàng gọi là kỷ niệm còn những kỷ niệm khác nữa, ví như trên bức tường đầy tranh vẽ đôi khi còn có bức tranh xưa hơn, bị vẽ chồng lên, nằm ngủ đằng sau bức vẽ khác. Có khi chàng muốn soát ký ức để nhớ về một điều gì, ví dụ tên một thành phố, ở đó kẻ du khách là chàng đã dừng lại đôi ngày, hay nhớ ngày sinh nhật của một người bạn... Trong khi đào bới và lục lọi dĩ vãng như một đống tro tàn, chàng bỗng sực nhớ một điều hoàn toàn khác hắn. Một hơi thở nhẹ bao trùm lấy chàng, như một làn gió tháng Tư, hay một ngày mù sương tháng Chín, chàng ngửi thấy một hương thơm, nếm một mùi vị và cảm thấy cảm giác dịu dàng ở đâu đây, trên da trong mắt, trong tim và dần dần điều đó trở nên rõ rệt: Phải là vào một ngày nào đó xa xưa, trời xanh và ấm hay mát và xám, tinh hoa của ngày ấy đã được giữ lại trong tim chàng và vẫn còn treo lơ lửng như một kỷ niệm lờ mờ trong tâm tư. Chàng không thể tìm lại được cái ngày mùa xuân hay ngày đông giá ấy trong quá khứ; ngày mà chàng đã ngửi và đã cảm nhận một cách rõ rệt, chúng không có tên và không có số, có lẽ trong thời sinh viên, có lẽ lúc chàng đang còn nằm trong nôi. Nhưng thoáng hương xưa đã thoảng về, chàng cảm thấy trong lòng có điều gì sống động mà chàng không biết và không thể gọi tên hay xác định được. Chàng có cảm tưởng rằng mình sẽ tìm lại được những kỷ niệm ấy, tuy vẫn nghi ngờ về điều đó.
Anselm đã tìm thấy nhiều điều trong cuộc lang thang vô định qua những ngõ thẳm của ký ức. Có điều làm cho chàng cảm động và xao xuyến, cũng có điều làm chàng kinh hãi, lo sợ, nhưng có một điều chàng đã không tìm ra được, đấy là cái tên Iris có ý nghĩa gì đối với chàng.
Trong cơn giày vò vì không thể tìm ra được điều đó, chàng về thăm lại quê cũ, thấy lại những khu rừng và các con đường, những cầu gỗ và hàng rào. Chàng đứng trong khu vườn của thời thơ dại, cảm nhận sóng lòng rào rạt, quá khứ bao trùm chàng như giấc mộng. Buồn bã và yên lặng, chàng rời chốn cũ về thành phố. Chàng cáo bệnh và không tiếp một ai.
Nhưng có một người tìm đến. Đó là người bạn chàng đã không gặp nữa từ ngày xin cưới Iris. Người bạn thấy Anselm ngồi cô đơn trong căn phòng vắng ngắt của chàng.
“Dậy đi!” Người bạn nói, “Iris muốn gặp anh đấy!”
Anselm nhổm bật dậy:
“Iris hả! Chuyện gì xảy ra với nàng vậy? Đấy tôi biết mà, biết mà!”
Người bạn giục: “Ừ! Đi với tôi! Iris sắp chết rồi, nàng bị bệnh từ lâu rồi”.
Iris nằm trong giường bệnh, nhẹ và gầy như một đứa trẻ, mỉm cười rạng rỡ với đôi mắt mở lớn. Nàng đưa bàn tay trẻ thơ trắng và mảnh cho Anselm nắm, bàn tay nằm trong tay chàng như một bông hoa, vẻ mặt nàng đã biến sắc, nàng nói:
“Anselm ơi! Anh có giận em không? Em đã đem đến cho anh một sứ mệnh rất khó khăn, và em biết là anh vẫn trung thành với nó. Hãy tiếp tục tìm kiếm và hãy đi con đường đó cho đến khi anh đến đích. Anh đã nghĩ vì em mà đi con đường đó, nhưng anh đi cho chính anh đấy, anh biết không?”
“Anh linh cảm điều đó,” Anselm nói, “và bây giờ thì anh biết rồi. Đó là một con đường dài, Iris à, và anh đã toan trở gót từ lâu, nhưng anh không còn đường lùi nữa. Anh không biết rồi sẽ ra sao”.
Nàng nhìn thắng vào đôi mắt buồn rầu của Anselm, mỉm cười trong sáng và an ủi. Anselm cúi xuống bàn tay mỏng manh và khóc rất lâu đến nỗi bàn tay nàng ướt đẫm nước mắt của chàng.
“Anh sẽ phải ra sao,” nàng nói bằng giọng mơ hồ như một tia sáng kỷ niệm, “anh phải ra sao, điều đó anh phải tự hỏi mình. Trong đời anh, anh đã tìm kiếm nhiều rồi. Anh đã tìm kiếm danh vọng, hạnh phúc, tri thức và anh đã kiếm em, Iris bé nhỏ của anh. Tất cả điều đó chỉ là những hình ảnh đẹp và chúng lìa bỏ anh như em phải lìa bỏ anh bây giờ. Chính em cũng đã ở trong tâm trạng này. Luôn luôn em đã tìm kiếm và luôn luôn chúng là những hình ảnh đẹp đáng yêu và rồi chúng lại rơi rụng và héo tàn. Bây giờ em không biết một hình ảnh nào nữa, em không tìm kiếm gì nữa, em đang trở về quê nhà và chỉ cần bước một bước nữa thôi là em ở Quê Hương. Anselm ơi, anh sẽ cũng đi đến đó và sẽ không còn những vết nhăn trên trán nữa”.
Nàng xanh lướt đến nỗi Anselm kêu lên tuyệt vọng: “Iris ơi, hãy đợi một chút đừng vội đi ngay. Hãy để lại cho anh một dấu gì để em khỏi mất đi hoàn toàn trong anh!”
Iris gật đầu, nàng đưa tay lấy trong cốc thủy tinh ở bàn bên; đưa cho Anselm một đóa huệ tím mới chớm nở.
“Anh hãy giữ lấy đóa hoa của em, hoa huệ tím, và đừng quên em, hãy tìm hoa huệ tím rồi anh sẽ đến được với em”.
Anselm nức nở đón đóa hoa và từ giã trong nước mắt. Mấy hôm sau, người bạn nhắn tin, chàng đến trang hoàng quan tài nàng bằng hoa và đưa nàng về với đất.
Tất cả sụp đổ sau lưng Anselm, chàng tưởng không thể dệt tiếp được sợi dây vàng kia nữa. Chàng từ bỏ tất cả, rời thành phố, sở làm và đi biệt tích. Người ta thỉnh thoảng thấy chàng có lần xuất hiện nơi quê cũ, đứng tựa người vào hàng rào khu vườn xưa nhưng khi mọi người đến hỏi và lo lắng cho chàng thì chàng lại bỏ đi và biến mất.
Chỉ có hoa huệ tím là đáng yêu đối với chàng. Chàng thường cúi cong người trên đóa hoa, bất cứ ở đâu khi thấy hoa. Khi chàng đưa mắt nhìn lâu vào đài hoa, thì tựa hồ như hương thơm và linh cảm về tất cả những gì quá khứ và tương lai đang bay lại gần nhau từ cái nền hoa màu xanh nhạt ấy, cho đến khi chàng buồn rầu bỏ đi, bởi vì điều chàng muốn biết đã không đến. Điều đó chẳng khác gì chàng đang rình rập ở một cánh cửa hé mở nào đó, thấy điều bí ẩn mình tìm kiếm đang nấp sau cánh cửa, nhưng khi chàng cho rằng điều đó sắp hiện hữu thì cánh cửa đóng sập lại và ngọn gió trần gian lại trải lạnh trên nỗi cô đơn của chàng.
Trong giấc mơ, Anselm thấy mẹ nói chuyện với mình, chưa bao giờ chàng cảm thấy hình dáng và nét mặt mẹ lại gần gũi và rõ rệt đến thế. Iris cũng hiện ra nói chuyện với chàng. Khi chàng tỉnh giấc, dư âm vẫn còn đọng lại làm cho suốt ngày hôm sau chàng bần thần suy ngẫm. Chàng không còn có một nơi cố định nào, đi lang thang trên các miền quê xa lạ, ngủ ở các nhà hoang, trong rừng, ăn bánh mì hay dâu dại, uống rượu hoặc sương đọng trên lá các bụi cây. Đối với nhiều người, chàng là một kẻ điên, người khác thì cho chàng là một tên ảo thuật, nhiều kẻ hãi sợ chàng, nhiều người chế nhạo chàng, có người lại yêu chàng. Chàng học những điều mà chưa bao giờ chàng có thể: sống chung với trẻ con và chơi những trò chơi kỳ lạ của chúng, như nói chuyện với một cành cây gãy hay với một viên đá nhỏ. Đông và hè lướt qua bên chàng; còn chàng thì cứ nhìn vào các đài hoa, vào suối với hồ.
Đôi khi chàng tự nói với mình: “Hình ảnh, tất cả chỉ là hình ảnh”. Nhưng tận trong thâm tâm, chàng cảm nhận được một thực thể, thực thể này không phải là hình ảnh mà chàng theo dõi, đôi khi cái thực thể trong lòng chàng biết lên tiếng nói, là giọng nói của Iris và của mẹ chàng. Đó là niềm an ủi và sự hy vọng.
Có những phép mầu đến với chàng nhưng không làm chàng ngạc nhiên. Một ngày mùa đông, chàng băng qua một hố băng. Trong tuyết trắng bỗng có một bông hoa huệ tím đứng đơn độc và mảnh mai, đang đâm ra một chồi hoa đẹp lẻ loi. Chàng cúi xuống hoa và mỉm cười, bấy giờ chàng đã nhận ra điều Iris luôn luôn nhắc nhở chàng. Chàng nhận ra giấc mộng trẻ thơ của mình, thấy con đường màu xanh nhạt có những đường gân sáng dẫn vào nơi bí ẩn, trái tim của hoa giữa những chiếc đũa bằng vàng. Chàng biết đấy là nơi chàng tìm kiếm, là cái bản thể thực sự chứ không còn là hình ảnh nữa.
Thế rồi những lời nhắn nhủ trỗi lên, vang vọng trong tim chàng. Những giấc mơ đến đưa chàng đi, chàng bước vào một túp lều, trong đó có nhiều trẻ con, chúng đưa sữa cho chàng uống và chàng chơi đùa với chúng, chúng kể chàng nghe câu chuyện trong rừng, nơi những người làm than đã xảy ra một phép lạ. Rằng ở đó người ta thấy cánh cửa các linh hồn mở ra, cánh cửa ngàn năm chỉ mở một lần mà thôi. Chàng lắng nghe, gật đầu đồng tình với hình ảnh đáng yêu đó. Chàng tiếp tục đi, một con chim hót trước mặt chàng trong bụi liễu, giọng hót ngọt ngào hiếm có như giọng nàng Iris. Chàng đi theo chim; con chim cứ tiếp tục bay và nhảy hót, qua ngọn suối, và đi sâu vào các khu rừng.
Khi con chim bặt tiếng, Anselm không nghe cũng không thấy chim đâu nữa, chàng dừng lại nhìn quanh. Chàng thấy mình đang đứng trong một thung lũng sâu, một lạch suối chảy nhẹ dưới những tán lá xanh rộng. Vạn vật đều yên lặng đợi chờ. Nhưng trong lồng ngực của chàng, tiếng chim vẫn tiếp tục hót giọng yêu thương và thúc giục chàng tiếp tục đi. Rồi chàng đứng trước một bức tường chồng chất đá và phủ đầy rêu, giữa bức tường nứt ra một khe hở chật hẹp dẫn vào bên trong ngọn núi.
Một lão già đang ngồi trước cửa hang, đứng dậy khi thấy Anselm đi đến và kêu lên: “Hãy lui, người kia, hãy lui đi! Đây là cánh cửa ma, chưa có kẻ nào trở lại khi đi vào trong”.
Anselm ngẩng đầu nhìn vào miệng hang. Chàng thấy một con đường mòn màu xanh hút sâu vào trong núi, hai bên vệ đường những cột bằng vàng đứng chen nhau, con đường mòn thoải xuống, hướng về bên trong như vào trong đài một bông hoa khổng lồ.
Trong lồng ngực Anselm, tiếng chim vẫn hót lánh lót. Chàng bước qua người gác cổng, vào sâu trong miệng hang, đi qua dãy cột vàng vào tận trong chỗ bí ẩn màu xanh lơ sâu thẳm.
Đây chính là hoa huệ tím, chàng đang thâm nhập vào trái tim của Iris, đây chính là đóa hoa huệ tím trong khu vườn của mẹ. Trong đài hoa màu tím biếc đó, chàng đang bước vào lơ lửng như bay lượn. Trong khi chàng yên lặng tiến đến khoảng u minh bằng vàng ấy, đột nhiên tất cả những kỷ niệm, những ký ức đều hiển hiện trong chàng, chàng sờ thấy tay mình; bàn tay nhỏ và mềm, những tiếng nói yêu thương vang vọng gần gũi và tín cẩn trong tai chàng. Chúng vang vọng như thế, những cột vàng óng ánh ấy, y hệt như ngày xưa; như trong những mùa xuân của thời thơ dại.
Giấc mộng của chàng cũng đã quay về, giấc mộng chàng đã mơ hồi còn là chú bé con: Mơ rằng chàng đang bước xuống đài hoa và sau lưng chàng thế giới của tất cả các hình ảnh cũng bước theo, trượt theo và chìm sâu vào trong sự bí nhiệm nằm sau tất cả các hình hài.
Nhẹ nhàng, Anselm bắt đầu cất tiếng hát, và con đường chàng đi êm ái chìm dần vào chốn Quê Hương.
Chú thích:
[1] Schwertlilir (tiếng Đức): Hoa huệ có hình như lưỡi kiếm, màu tím nhạt, nên gọi là huệ tím.
[2] Kapuziner: Một loài hoa cỏ có màu đỏ.