Chuyện nghiên Tức Mặc lầu là chuyện gần đây; chuyện một người ham có ngọc, mà còn ham làm chính trị chánh trị luỵ thân - thân đã tan nát mà ngọc cũng mất theo, làm chánh trị dở, báo hại nước nhà mang hoạ lây. Đến như bảy cây ngọc chế thành bảy cây Như Ý, rõ lại công khéo tạo thành là công khéo sáng chế của người ngoại bang, còn ngọc nguyên khối, bảy cây to tát biến thành bảy món đồ chơi trân ngoạn, rõ là gốc của Việt Nam, do một vua bất tài, Lê Chiêu Thống, ôm chạy sang Tàu, khóc lóc xin binh về đánh với Tây Sơn, đánh không lại, bỏ xác tha hương, tội hối lộ ngọc tốt đổi binh bất tài luôn, binh Tàu đại bại, nhưng ngọc hối lộ cho Kiền Long, nay tôi được cầm trên tay nhớ chuyện xưa, bất nhẫn vì trên đầu trên cổ thuở nay đều là quân ăn hại báo đời, nước Việt vốn không lớn, vì sao có ngọc để chúng đoạt quá nhiều; và ngọc là quý, quý chỗ nào, mà vẫn bị quân gian ăn cắp.
Mảng nói dông dài mà chưa vào đề hư hay không xin hỏi?
Tôi viết bài nầy, không có ý khoe; khoe chỗ nào? Gần suốt một đời, ngu và hư hơn người thì có và động động biết được một chút gì là vội nói ra cho hết thảy cùng biết, người có trí đâu có làm như vậy.
Trước đây, có người công du dễ dàng, xuất ngoại như mình an cơm bữa mình nửa năm chưa vô thăm mì Chợ Lớn một lần, mà họ tuần nầy sang Mỹ, mua cái bốp đầm cho mụ xã, tháng sau bay qua Pháp ôm kẹo về và xì líp lậu cho nhà đoan nó bắt nó la tùm lum, hỏi họ thấy nhiều hiểu xa, sao không thuật lại cho những người nằm nhà cũng nghe với? Tại họ khôn và ích kỷ.
Chuyến đi Đài Bắc năm 1963 của tôi kể cũng là một dịp may khó gặp hai lần trong một đời người. Nói có vong linh ông Trần Thành làm chứng. Lúc đó, ông là Phó Tổng thống nước Trung Hoa Dân quốc ông đã mất từ lâu.
Đầu năm 1963, ông qua viếng trả lễ nước Việt mình, và một bữa sáng nọ ông và đoàn tuỳ tùng ghé viếng Viện bảo tàng sau khi dạo chơi vườn bách thảo. Không biết cái gì khiến, ông vui miệng, mời tôi hãy qua cho biết Đài Bắc và Đài Loan. Tuy nghe mời mọc, cũng vui tai, nhưng tôi cám ơn ông chiếu lệ, cũng không mừng gì mấy, vì từ cái mời đến cái thực hành còn xa, nghĩ mình phận mỏng, bấy lâu thất vọng đã nhiều chừng nào việc tới sẽ hay. Vài tháng sau, hãng máy bay cứ thúc giục mãi, và cho hay vé khứ hồi đã sẵn, phái kíp dùng kẻo quá hạn. Mà cơ khổ, sự lên đường nào phải tự tôi định được. Một thứ “thầy thông” trước làm cho Tây nay lỡ độ đường, vô làm kiếm cơm, quyền quản thủ công nhựt Viện bảo tàng nầy, mà sức mấy. Tuy vậy, chiều ý hãng máy bay và để tránh bất cập, tôi cũng đến toà đài sứ Trung Hoa, lúc đó còn ở chỗ cũ nơi đường Pasteur hỏi cho biết nếu được đi, chẳng hay có được lãnh chút ít tiền trợ cấp chi chăng, tỷ như liền lộ phí, tiền ăn, tiền ở là bao, xin vui lòng cho biết, để cụ bị thêm. Ông tuỳ viên văn hoá tiếp tôi niềm nở, nghe tôi hỏi, nhoẻn miệng cười, và đáp tỉnh khô: “Thưa, nước chúng tôi không có thông lệ đó Chúng tôi không cấp phát số tiền nào hết, “tiên sinh” là khách quý của ông Phó Tổng thống của chúng tôi nên chúng tôi “bao” hết. Ông ăn mì chúng tôi trả tiền mì. Ông đi coi hát chúng tôi trả tiền coi hát. Vậy thôi! Cái gì chúng tôi cũng đài thọ hết. Ông nên đi chơi một chuyến đi! Đi! Đi mà! Xin đừng có sợ!
Xin đừng có sợ! Câu khuyến khích thiệt là gọn ghẻ, rặt Ba Tàu, và thiết thực không chỗ chê. Tôi còn nán lại nêu vài việc khó, vốn tịt mù tiếng Ăng lê còn như tiếng Tàu, chữ Hán, tiếng phổ thông, tiếng Quan thoại, tiếng Quảng Đông, hầm bà làng, tôi đều Uất Trì Cung. Bấy lâu nếu có viết lách, nghiên cứu, diễn thuyết, đều qua chứ Pháp, tiếng Pháp, ọ e vậy mà?
Ông tuỳ viên văn hoá, người phốp pháp vững như bê tông, an ủi tôi bằng một nụ cười ngoại giao và ân cần dặn đi dặn lại: “Đừng có sợ! Bên Đài Bắc, thiếu gì sinh viên của quý quốc”, chúng nó sẽ mừng mà làm thông dịch viên không mất tiền.
Thế rồi lời hứa biến thành sự thật, cuộc công du mười lăm ngày qua Đài Loan, Nhật Bản (từ 11-9-1963 đến 26-9-1963), tôi đã thưởng thức, cũng như ai. Những điều nghe thấy, tôi sẽ thuật trong một phần khác, trong phần nầy, tôi xin kể sơ các thủ tục của chánh phủ thời đó, không tốn tiền nhưng vẫn cho máy chạy như thường lệ, muốn hiểu rằng khó hay không, cũng tuỳ, nhưng nay nghĩ lại thấy tiếc, vì khó như vậy vẫn còn dễ chịu. Và hôm nay chỉ dành cho ngọc:
Ngày thứ hai 9 tháng 9 năm 1963 - Bữa nay chạy chân không bén đất. Được giấy chánh phủ cấp cho nghỉ mười lãm ngày để viếng Đài Loan và Nhật Bản. 8 giờ sáng lên bộ Ngoại giao lãnh giấy thông hành. 9 giờ đến xin chữ ký chiếu hộ của toà đại sứ Trung Hoa. 10 giờ ghé toà đại sứ Nhựt xin phê thông hành qua viếng đất hoa anh đào trong chuyến hay trở về. 10 giờ 30 phút đến viện hối đoái xin đổi tiền nhưng chưa được vì trong hồ sơ còn thiếu vé máy bay. Chạy lại hãng Air France, thì vé còn nằm tại hãng C.A.T. Mất hết một buổi sáng. Chiều 2 giờ 30 phút đến C.A.T, thì tuy vé cho đi Đài Bắc, thủ tục đâ làm xong, nhưng ở đây hẹn ngày mai sẽ trở lại nhận và có luôn vé Đài Bắc qua Tokyo về Sài Gòn. 15 giờ xuống viện hối đoái, ở đây nhận lá đơn và hẹn mai 15 giờ sẽ cho phép đóng tiền đổi bạc.
Thứ ba 10 tháng 9 năm 1963 - Đúng 15 giờ xuống viện hối đoái đóng tiền. Xin chuyển được: 280$ S giá 74,90, là 20.580$ + 412$VN.
Cho chuyển thêm: 40 US với giá 75,50, là 29450 = 80$ VN.
(Như vậy trong đơn tôi xin chuyển 300$ US, nay bớt đi 20$ US).
Thế cũng tạm được, vững bụng vì ãn mì đã có chánh phủ Trung Hoa bao!
Duy nhớ lại khi qua tới đất Nhựt, trong túi vỏn vẹn có 320 đô la Mỹ, mời làm sao phỉ tình ao ước ở chơi một tuần, mà trong bụng thì thèm muốn đủ thứ, không chừa trận mưa rào gái Phù tang đối với lòng như đất hạn khô của đứa trai hư lỡ mùa xứ Việt: Chánh phủ lúc ấy thường dặn, trên đài phát thanh cũng như trên các báo mỗi lần xuất ngoại thần dân con cháu Rồng Tiên phải giữ thể thống và phải cư xử cho đường hoàng. Muốn đường hoàng tưởng nên cấp tiền bỏ lúc cho khá khá, để giữ thể diện, miễn đừng chợ đen chợ đỏ, là đường hoàng lẩm rồi. Khắt khe làm chi với những kẻ giàu thiện chí tội nghiệp: Tôi chỉ mê đồ xưa chớ có mê gì khác nữa đâu?
Thú tư 11 tháng 9 năm 1963 - Bữa nay là ngày lên đường, mà lúc 8 giờ còn phải xuống hãng C.A.T. lấy vé máy bay. Vừa ký xong, thấy còn chút giờ dư bèn trở lại Viện bảo tàng ký tên giấy tờ làm tròn phận sự giờ nào hay giờ nấy. 10 giờ về nhà, không dám ăn cơm no để lát nữa nhẹ bụng dễ bay, leo lên xe ca đưa lên Tân sơn Nhứt, dọc đường trời xán một đám mưa khá lớn, như gội cho thật sạch lớp bụi trần, trước khi viếng đất thiêng có nhiều chùa chiền mà mình chỉ nghe biết tiếng. 14 giờ 35 phút, máy bay cất cánh, bay một hơi thẳng thét đến phi trường Hương Cảng, thì kim đồng hồ chỉ đúng 16 giờ 50. Xuống sân bay thì may quá đã có bạn hẹn trước nên đón sẵn, chờ thủ tục khám hành lý xong rồi lên xe của nhà hàng Golden Gale đưa thẳng về khách sạn cùng một tên Golden Gale, thì nơi đây có dành sẵn một phòng thênh thang số 302, nếu phải xuất tiền túi, thì ắt không dám ở phòng nầy vì sang trọng quá có cửa sổ dòm ra đường cái, nhưng chỗ ăn chỗ ở đều do hãng Air - France đài thọ. Và muốn hư cho hư luôn, còn gì sang bằng tối hôm ấy, định xuất tiền túi đi dùng cơm tối với một bạn Pháp có nhà ở Hương Cảng, ông dắt tôi đi thưởng thức một bữa cơm Nga có hai người Nga chính cống đứng hầu bàn, cơm rồi vừa móc ví té ra ông bạn đè tay giành trả tiền, cái số “ăn cơm bá tánh” của lá tử vi là vậy!
Hôm nay nhớ và nhắc bữa cơm Nga, xuýt quên vấn đề ngọc. Kể về ngọc tôi đã thấy từ Âu sang Â, để đi đến bảy cây ngọc Như Ý của Bác vật quán Đài Bắc, thiết tương nên để cho tôi hư luôn và kể lê thê theo tánh cũ, ngọc mắt thấy từ Paris qua Istanbul, cựu đô xứ Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng rằng kể viển vông là nói cho vui, kỳ thật, muốn nói về ngọc phải nói dông dài, bàn qua bàn lại nhiều lần, nhiều thứ mới xứng với giá tiền đã xuất ra do các công tử hay vương khách từ ngàn xưa để mua lòng các hoa khôi hoặc mỹ nhân, thường chê cơm chê cá và chỉ sống bằng những cục đá gì ước nặng không bằng một cắc bạc chì mà kể về giá trị, lúc trả tiền mới thấy nặng, nặng gấp mấy trăm lần tờ giấy một ghim của nước cộng hoà hồi đó. Kể về ngọc, bà công tước Pháp A. de Noailles hạ có ba chữ “Inutiles mais irremplacbles”, muốn dịch cho sát ý đủ nghĩa, e đầu phải nổ, cái gì mà đại chi vô ích (inutiles), mais (nhưng mà) thiết yếu vô song (irremplacables), dịch mãi không trôi đành để đó, về ngọc, người nào dư ăn dư để, trước đây, đều có. Duy ngọc hữu danh, được tiếng nhắc đời, mới đáng gọi là ngọc. Ngọc của mỹ nhân đeo tay đeo cổ, khi không muốn đeo, bán ra tiền, bất quá gánh một gánh bạc Việt Nam ngày nay đổi được một hột lớn bằng vóc một đậu xanh, đã gọi là đáng giá. Nhưng nên kể là ngọc giá liên thành, xưa ngọc Biện Hoà, do Lạn Tương Như tranh đấu với Tần Thuỷ Hoàng, đem về trả vua Triệu, mới đáng gọi là ngọc.
Tức Mặc Hầu, là ngọc, tuy vẫn là một nghiên mực. Bảy cây Như Ý Đài Bắc là ngọc. Duy trên hoàn cầu, nhiều nước giàu hơn Pháp, nhưng không nước nào có nhiều ngọc có danh tiếng trong lịch sử, bằng Pháp. Nhưng nước Pháp là mất nước nhiều mâu thuẫn, và kỹ càng quá đến thành mất vẻ thật, hay là quá dè dặt, sợ quân gian nó cuỗm, hay đó là một cách tuyên truyền khéo mà tôi chưa nghĩ tới, tỷ như tại Viện bảo tàng Le Louvre, mà tôi đã viếng nhiều lần (năm 1963) ngoái một số cẩm thạch, ngọc thạch, vân thạch, miêu nhãn thạch, đó đều là ngọc thiệt, còn tại sao về các ngọc kim cương, như viên xoàn “le Régent” (Nhỉếp chánh vương), viên kim cương trước gần trên mão đế Nã phá luân, viên ngọc xoàn nạm trên chuôi kiếm đế Charles X, các ngọc ấy, tôi rõ lại, những danh ngọc thật đều nằm êm dưới hầm kiên cố của một ngân hàng dấu tên trong một hầm sâu bất khả xâm phạm, vùi dưới mấy chục thước đất (thuở binh Hitler qua không lấy được), còn những kim cương những hột xoàn chưng bày trong tủ kệ ni hành lang gọi Galerie dapollon của viện Louvre, tuy nơi bảng đề: Le Régent. La Coưronne de Napoléon, Lépée de Charles X: những quốc gia chi bảo ấy, sau tôi biết được, đều toàn là ngọc giả nhái y ngọc thật, vì Pháp sợ bày ngọc thật bị mất cấp nên đề phòng giấu thật sâu, xứng với câu Tàu: “Nhược thâm trân tàng”.
Năm 1963, trọn tháng sáu và tháng bảy, tôi ở Paris để nghiên cứu đồ cổ. Hễ ngày nào tôi không đi viếng lâu đài cổ tích vùng sông Loire, thì tôi đều có mặt tại viện Louvre, vì tôi có vẻ vào cửa khỏi tiền. Một hôm tôi được dự một cuộc triển lãm bảo ngọc của hoàng triều nước Thuỵ Điển (les pierres précieuses de la Couronne de Suède). Vua nước ấy ý muốn trưng bày bảo ngọc thận, nhưng chánh phủ Pháp và ban quản trị viện Louvre lại đề nghị tối hơn nên chưng những ngọc nhái kiểu (reproduction) và những nữ trang ký kiểu là đủ rồi, vì như vậy rủi mất cắp cũng không sao, vì theo ý viện, trong hàng quan khách đến xem triển lãm, có số muôn số vạn, nếu có quân gian hạng quốc tế trà trộn và đánh cắp thì tai hại biết mấy. Nhưng quốc vương Thuỵ Điển không đồng ý kiến ấy và sau rốt, chánh phủ Pháp phải chiều lòng, cho chưng bày bảo ngọc thận, nhưng viện Louvre phải xuất tiền đóng bảo hiểm rất cao.
Mỗi gian phòng trưng bày, phải tăng gia canh gác. Các tủ kính đều có phòng bị, kiếng bắn đạn súng lục không thủng v.v... Rốt cuộc, tôi thấy họ làm như vậy cũng một cách quảng cáo khéo cho cuộc triển lãm, chớ từ bữa khai mạc đến ngày bế mạc, không mất trộm món nào, hoặc bọn cướp quốc tế tưởng là đồ giả như mọi khi, hoặc họ chê nên không lấy. Chỉ tốn tiền bảo hiểm, và sau nầy thuế dân thêm nặng. Ai không biết đề phòng là tốt, nhưng cũng phải biết tuỳ thời tuỳ địa thế, bằng không thì sự cẩn thận kia chỉ làm thêm tốn kém cho công quỹ. Nói việc trong nước, một anh chuyên làm những mẻ to nơi đô hội có khác nhiều bọn đá cá lăn dưa chợ Cầu ông Lãnh, chợ Bà Hom: Chuyện cũ xin nhắc lại đây để suy gẫm việc đời. Tại Viện bảo tàng trong vườn bách thảo lúc tôi còn coi sóc, trong viện có nhận lãnh, do Pháp quốc giao trả, một bộ môn ngọc báu, trân châu và nữ trang thượng cổ, gọi báu vật Ốc-eo (le trésor d' Oc-eo). Dưới mắt chuyên gia châu Âu đó là những vật đại quý, ngày xưa tìm được tại nơi gò Ốc-eo, thuộc vùng núi Ba Thê, tỉnh Rạch Giá, năm có giặc kỳ đệ nhị chiến tranh bên Pháp, chánh phủ Pháp chở bộ môn Ốc-eo về cất giữ bên ấy, và sau đó giặc yên rồi, chánh phủ Pháp phái cô Jeannine Auboyer, chức là nữ quản thủ Viện bảo tàng Guimet, hộ tống bộ môn Ốc-eo sang đây trả cho Viện bảo tàng Sài Gòn, có lẽ nay còn cất kỹ lưỡng tủ sắt của viện, vì không đủ phương tiện chưng bày ra ngoài. Nội vấn đề trình bày bộ môn nầy, lúc tôi còn làm ở viện, cũng là nan giải. Khi trường Viễn Đông Bác cổ còn ở Hà nội, ông Malleret viện trưởng, đề nghị và ra lịnh cho Viện bảo tàng Sài Gòn phải xin chánh phủ Nam phần chế tạo một tủ kính đủ đảm bảo, tủ bằng sắt và kính phải thật chắc thật dày, súng bắn không thủng, như vậy mới nên trưng bày, bằng không phải giấu trong tủ sắt như hiện hữu, khi nào có khách quan trọng sẽ lấy ra cho xem.
Nhưng một cái tủ như vậy, lúc ấy không ai giải quyết xong. Xin Mỹ, Mỹ không trả lời. Hỏi Pháp, Pháp cù cưa rồi nín. Bóng đổ thầy, thầy đổ bóng, không ai chịu tốn tiền cho chánh phủ Miền Nam. Theo tôi, một phần cũng tại ông Malleret quá quan trọng hoá vấn đề và nhát cho chúng tôi sợ việc không thể có, tại xứ nầy.
Về báu vật Ốc-eo, người Âu Mỹ xem là quý báu, có một không hai, chớ theo tôi, hầu hết quân ăn trộm đất Sài Gòn nầy, đều chê và không màng đến đâu vì đối với họ, những vàng vụn và đá hột “lục cục lòn hòn” ấy giá trị còn thua xa các nữ trang lòe loẹt chứa nơi các tủ tiệm bán vàng Sài Gòn - Chợ Lớn nhiều. Vả lại, các vật nầy, ăn cắp ra được, biết có ai biểu biết về giá trị chăng, thêm bị bất bớ khó lòng. Ấy tâm lý của bọn giang hồ bản xứ vẫn mộc mạc như vậy, hiểu theo ông viện trường trường Bác cổ là quá đề cao bọn trộm lôcanh mà vàng bày nơi các hiệu kim hoàn Hóc Môn, Bà Điểm lại hấp dẫn hơn, mà cho đến nay họ còn chưa đánh cắp thay. Nghiên cứu kỹ lại, thì những viên ngọc Ốc-eo, thuở xưa lối thế kỷ thứ nhứt sau Gia-tô, khi tìm được thế nào thì để y như vậy mà nhận vào mặt cà rá, mặt nhẫn v.v, vẫn chưa chịu và cũng chưa biết cách trau chuốt, như giồi cạnh cho thêm chớp sáng, mài mặt tỷ như kiểu kinh đô Amsterdam (Hoà Lan) cho thêm đẹp thêm nhiều hào quang, nói tóm lại, những hột kim cương không trau giồi, những hột mã não kệch cợm Ốc-eo không có chút hấp dẫn nào đối với dân quê ta mà hòng sợ họ làm như bọn cướp quốc tế làm bên Âu, bên Mỹ. Hột sa-phia (saphir) tân thời, hột xoàn tân chế rẻ tiền, đói với Tây phương là vật bỏ đi, thế mà họ lại thích hơn.
Nhắc lại tại viện Le Louvre năm đó, tôi đã được xem mãn nhãn nào gương soi báu, chế tạo vào thế kỷ XVI, chung quanh gương có nạm những châu báu như: quart hyalin violet (tử phương tinh), améthyste violet (tử thạch anh), toàn là ngọc lạ của đời ấy. Tôi cũng thấy nơi nầy, một đấu để uống rượu làm bằng cẩm thạch, dáng lớn bằng trái dưa hấu bực trung, bổ hai ra và móc ruột sạch, ngoài chạm gân nổi, trong chạm ruột dưa còn sói lại, màu hồng hồng như dưa thiệt, thêm có gân xanh xanh của ngọc khi ẩn khi hiện ở ngoài, nghe nói cái đấu nầy là của dòng Capet truyền tử lưu tôn đã nhiều đời, xuống đến vua Louis XVI, bị cách mạng lôi lên chém đầu trên đoạn đầu đài năm 1793 mà đấu ngọc không mất. Chiếc đấu ngọc vô giá còn được an toàn cho đến nay, và buổi tôi thấy năm 1963, còn khoe sắc đẹp óng ánh màu ngọc trong tủ quý của Galerie d'apollon nầy, ai dám nói vật cũng như người, há lại không có hồn và có số kiếp như nhau. Đền đài thuở ấy bị đốt phá, của cải trong cung điện bị phát mãi, ông hoàng bà chúa bị giết, cách mạng năm 1789 bên Pháp trả giá bằng bao nhiêu xương máu, thế mà đấu ngọc còn tồn tại. Ngày nay người Pháp đã tỉnh ngộ, thì bao nhiêu quốc bảo đều chạy sang nước hiếu cổ là Anh quốc, nay tiếc đã muộn, nhưng gương ấy sao ta vẫn hờ hững xem thường? Tức Mặc Hầu là Bảy cây ngọc Như Ý, đã vuột khỏi tay ta, thật uổng. Nội cái hành lang Galerie d'apollon nầy cũng đủ là một kỳ quan, các nước khác không đâu có: Giàu như nước Mỹ, sang như nước Anh, cũng không có một pho kiến trúc cân xứng và tuyệt mỹ như hành lang nầy. Khảo theo sách, thấy nói phòng đo được 60,39 mét bề dọc, 9,40 mét bề ngang và cao đến 11 mét, mạ vàng lộng lẫy trong phòng thênh thang trống rộng, không có một cây cột nào làm vướng mắt, muôn vàn ánh sáng chiếu vào, thiệt là vừa khéo vừa sang vô cùng. Sách nói phòng nầy dựng lên từ đời vua Henri IV, đến năm 1661 bị hoả hoạn cháy hư, qua trào vua Louis XIV, giao cho kiến trúc sư Lebrun kiến thiết lại như cũ.
Năm ấy tôi xem hết gần đủ các châu ngọc của các cựu hoàng nước Pháp, rồi ngày 18-6-1963 đáp tàu hoả sang viếng Viện bảo tàng Le Cinquanlenaire ở kinh đô nước Bỉ là Bruxelles, ngày 27-6 đáp tàu bay qua viếng xứ Thổ Nhĩ Kỳ nơi thành Constantinople nay đổi tên mới là Istanbul Đây là nơi phát tích văn minh Byzance, có từ năm 330 sau Tây lịch đến năm 1461 thì ngã đổ, phế hưng mấy độ, suy vong nhưng chưa tàn. Thành Istanbul ngày nay còn nhiều toà kiến trúc đẹp và sang không đâu có, vách cung điện toàn bằng đá hoa (marbre) khéo như gấm dệt, mỗi lần phiến đá đậu bông giống nhau như tranh vẽ, và vẫn làu làu thi đua cùng tuế nguyệt trêu gan. Cung điện Huế tuy vẫn khéo, nhưng bằng gỗ, tuổi có hạn, sáu bảy trăm năm là mục nái nát không biết bảo tồn, duy cung điện như Istanbul nầy, toàn bằng đá, thật là thiên niên trường cửu. Về ngọc tôi thấy nơi đây phần nhiều là những ống bằng hổ phách (ambre) dài đến cả gang tay. Nước bóng ngời vàng sậm và trong vứt, những ống ấy là chuôi ống điếu theo kiểu chuối đót hút thuốc lào bên ta, và đó là chuôi điếu của các hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ đời trước sưu tập lại. Thuở nay, sách Trung Hoa dạy rằng mủ nhựa cây tùng chữ gọi “bạch tông chỉ”, khi mủ ở thân cây tiết ra, còn mới, thì trị được những bệnh đường tiểu (bạch trượt, lậu mủ), hoặc dùng thoa vào cung đàn nhị đàn vĩ cầm cho rít cho kêu, mủ nhựa ấy khi nào tích tụ dưới đất được một trăm năm thì hoá ra phục linh là một vị thuốc đắt tiền và khó kiếm và khi mủ được một ngàn năm thì ra ngọc hổ phách. Hổ phách vào lửa, lâu cháy, cứng nhưng giòn, nước ta có hổ phách nhưng nhỏ chột, chỉ làm bông tai, núi áo và chuỗi hạt là cùng, đời đàng cựu có nhiều và nay đã biến mất duy xứ Thổ Nhĩ Kỳ còn khá nhiều, nhất là những hổ phách cổ của vua chúa thì lớn và đẹp không đâu bì. Thổ Nhĩ Kỳ là nước sản xuất cây thầu làm ra á phiện, và nội cái cách họ hút thuốc cũng khác hơn nhiều giống dân trên trái đất. Narguilc hay Narghileh là một thứ ống điếu của dân nầy bày ra, dưới có một bầu chứa nước thơm để lọc khói thuốc cho bớt chất nhựa, bầu thường lấy bầu bằng sứ Tàu quý để tạo cho thêm sang, và bầu có một cái cần co giãn được hình như một con rắn co ngón tay cái, nơi chót cần có tháp cái chuôi ngọc để kéo hơi thuốc cho thêm sang. Nhắm cho thuở cựu trào bên xứ ta, có mấy cụ thượng, mấy quan huyện quan phủ, khi hút thuốc có thằng điếu đảy châm thuốc, mồi thuốc, têm trầu và dâng cái ống nhổ cho quan phóng phẹt nhổ nước miếng dơ vào, như vậy tưởng cũng đủ sang “cái sang khiến mất nước”, nhưng cái sang lỗi thời ấy chỉ được năm phần, chớ mấy ông vua cổ thời xứ Thổ Nhĩ Kỳ, xét theo di tích để lại mới là sang gấp mười, có cung phi mỹ nữ đấm bóp, khi xơi thuốc, có quan cận thần châm lửa, và vua Thổ chỉ nằm dài trên sập ngự rộng thênh thang, hút narguilé trầm ngâm, thiệt là “ngoạ triều”? Tại Istanbul, trong một buổi thần tiên ấy, tôi được viếng cố cung của các vua Hồi giáo nầy, thấy tận mắt chiếc võng ngự Thổ chúa, không phái bằng dây tơ điều buộc chỉ ngũ sắc, như bên ta, nhưng đó là một chiếc nôi toàn vàng đỏ hực, lớn bằng hai cái ghế bành tượng “Thái sử y” của Tàu, trong có lót nệm êm ái và hai bên, mặt trong như mặt ngoài, đều nạm cả mấy ngàn hột ngọc nhỏ quý giá, đủ màu sắc. Chiếc võng ấy treo trên một cái giá vững chắc, cũng bằng kim khí và hai sợi lòi tói treo võng cũng bằng vàng nốt, ước sức cân ắt nặng trên trăm kílô (ngày nay võng ấy có còn chăng?). Nhưng lạ mất nhứt, là thâm cung, chỗ các phi tần ở cung nầy, nền lót toàn vân thạch (marbre) trong, trên mặt đá chạm hình mây nổi tản vân, nhưng lạ thay, ngày nay nền đá cứng ấy, chỗ mòn chỗ khuyết, có chỗ lỳ lệt đến trôi mất các lần chạm sâu cả năm sáu ly Tây, bây giờ mặt bằng phẳng trơn láng như mặt ván gõ bên ta, nhứt là nơi bệ cửa bước ra bước vào, thì thật là mòn lẵng mòn lì, không còn thấy một nét chạm nào nữa, hỏi người dẫn đạo thì mới rõ đó là tại cung phi từ đời nầy qua đời nọ, gót kim liên bộ bộ, mà dẫu cho đá cứng cũng phái mòn. Bàn chân của Từ Đạm được nhắc đời bằng câu “khen cho đá cũng bền gan thật”, nhưng gót sen của cung phi nước Thổ Nhĩ Kỳ đời trước, nào có thua, mà mấy có thơ. Chưn cẳng đàn bà độc địa đến thế, thiệt là: “Khuynh thành nhất tiếu môi son, kim liên bộ bộ ăn mòn đá xanh”. Nhưng mục đích của tôi không phải đến đây để xem chân em cẳng gái Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi đến đây, quyết thâu thập vào tầm mắt những bóng vang châu ngọc, những dư ánh của bảo vật xứ đàn bà che mắt một “ngàn lẻ một đêm”.
Tại Viện bảo tàng vang danh khắp hoàn cầu là nơi chứa đồ céladon (gốm men ngọc), Pháp gọi Museé du Topkapi (vốn là nhà trù, bếp của vua Thổ đời trước) nay vẫn giữ y như cũ, vách gạch để trần, không phong tô, tuy vậy mà em rất mỹ thuật, vì viên gạch vuông phương, lằn chỉ hồ ngay ngắn, chỗ nào cũng đều đều như nhau, cũng chữ “công” như nhau, trông rất ngộ nghĩnh. Trên đỉnh cao chót vót, ngay trung tâm, có chừa một lỗ trống, xưa cho khói bay ra, nay để vậy cho thêm ánh sáng, thấy trống phọc một lỗ tròn và lớn, kinh tâm độ có mấy thước bề rộng mà vì sao hôm tôi ở đó, trời mưa thật lớn, mà không có một hột mưa nào lọt vào trong, nghĩ mãi không ra. Viện Topkapi chứa gốm men ngọc nhiều đến số muôn, gốm đời Tống, đời Nguyên, đời Minh có đủ, luôn cả đồ sứ đời Thanh đến Kiền Long, nhưng cách trình bày đáng cải cách lại, vì gốm nhiều quá và họ không khứng loại ra bớt, treo tất cả lên trên vách, lên đến tận chót vót trên cao, khiến cho khi xem, mảng ngước mất xem mãi giờ nầy qua giờ kia, khách đến chơi, vừa mỏi cổ vừa chán ngán, ra về người nào cũng vướng một bệnh chung là chóng mặt nhức đầu, đi xem Viện bảo tàng mà như vậy thì còn thú chỗ nào?
Nói về ngọc ngà châu báu của vua Thổ xưa, thì ở đây nhiều đến ngợp thở. Trong tủ sấp hàng dài, ngọc thôi là ngọc: ngọc bản xứ như hổ phách saphir, ngọc xứ lạ cống sứ vào đây, bạch ngọc, bích ngọc, hồng ngọc, đủ màu đủ thức quả là đúng câu “kim ngọc mãn đường”.
Tôi không dám kéo dài câu chuyện Tây du và xin tóm tắt là tôi đã xem đầy mắt những cổ ngọc và báu vật các nước bên trời trây, rồi cách mấy tháng sau tôi được qua viếng Đài Bắc theo đường Hương Cảng, để rồi kế đó viếng thăm châu ngọc đất Phù Tang.
Trong các xứ đã trải qua, phải nhìn nhận “cảng thơm” (Kongkong) mới thật là thị trường quốc tế về ngọc thạch và cẩm thạch. Tôi nói bắt quàng làm vậy, không phải lạc đề đâu. Quả tại chợ bán ngọc ở Hồng kông, trong đêm 11-9-1963, tôi viếng nhiều hiệu buôn ngọc, có nhà treo bảng Trung Hoa dân quốc bán ngọc, kể về số lượng thì nhiều thật, nhưng kể về giá trị, thì rất tầm thường, nhưng ngang nhà nầy, cùng một con đường, có một hàng lớn, chủ nhân là người đạo Hồi, bán giá phải chăng và suốt một dãy phố dài, nhà nào cũng chưng dọn rất sang, nhưng ngọc họ bày đều tầm thường, loại ngọc mới, duy nơi một hiệu lớn có treo cờ đỏ sao vàng thì ngọc ở đây có phần dễ chịu hơn ngọc đã thấy ở các nhà con cháu ông Tưởng.
Hương Cảng là một đô hội quốc tế nên không lạ gì, cùng một con đường hai dãy phố mà hai nhà đối diện treo hai cây cờ khác nhau, một quốc gia, một hồng kỳ có đủ sao vàng và lưỡi liềm cây búa. Nhà treo cờ đỏ mới thật là nhà buôn ngọc danh bất hư truyền.
Tôi đứng trong nhà nầy mà khiến tần ngần nghĩ ngợi xa gần. Tôi nhớ lại năm trước đây, hồi ông Ngô đang lên như diều gặp gió, một hôm trên dinh kêu dây nói lại Viện bảo tàng đòi tôi gập, lên giảo nghiệm ngọc của bà cố vấn mua từ Hương Cảng nầy đem về. Có tám con ngựa bằng ngọc thạch xinh tốt, có ly rượu bằng ngọc lưu ly trong vắt, có sư tử bằng hổ phách đỏ bầm có đấu rượu bằng hồng mã não, các món nầy đã quá quen với tôi, khi tôi nhìn qua một loạt thì đã biết rồi, nhưng tôi giả bộ lừng khừng và thối lạc rằng tôi chỉ chuyên về đồ sành cũ và đồ sứ men lam Huế, không dám xen qua nghề biết ngọc. Cũng vì bộ tịch tôi hôm ẩy khó thương, cho nên có trục trặc khi có giấy Toà đại sứ Trung Hoa đề nghị cho tôi công du Đài Bắc, có người sau đó trách tôi quả là ngu dại nên không biết hôm ấy cầu thân với bà cố, nhưng ít ngày sau, khi dinh bị hoả tiễn đốt cháy một góc, các ngọc kia một mớ cũng cháy theo và chảy ra thành hai cục, nó là ngọc giả, khi ấy trên dính mới cho rằng tôi là thiệt thà, có học mà ít nói, và nhờ có người nhắc khéo việc ấy, mà cuộc sang viếng Đài Bắc được trơn tru. Nay chủ nhân nhà nầy, đứng trước tôi đây, là người theo chủ nghĩa vô sản, nhưng tại sao lại lựa nghề buôn ngọc, ngày thường chỉ giao thiệp với hạng có tiền và thuộc hữu sản. Nhưng trước khi bước vào nhà, ông bạn của tôi đã giới thiệu tôi đi viếng Nhật Bản và không nói tôi qua đất Tưởng thống chế. Chủ nhân niềm nở lấy ngọc trong tủ ra cho tôi xem, ngọc nào tôi cũng ưng ý và cũng ham. Sau khi ở đây ra về, ông bạn tôi cắt nghĩa lý lịch của ngọc nhà ấy, thì toàn là ngọc cổ hoặc của cung viện Mãn Thanh cũ, hoặc của các phú hộ trên lục địa Trung Quốc, khi đổi chủ nghĩa, thì ôm hết về Cảng Thơm và bán lại nhà nầy. Hèn chi ngọc không cổ hơn và tinh luyện hơn ngọc nhà bên kia, vì ngọc tiệm Cộng Hoà Dân Quốc bên kia đường là ngọc tân, do các nhà chuyên môn ở Hương Cảng mua cẩm thạch nguyên khối ở Tân Cương, Miến Điện đem về chế tạo ra mới nên chưa lạc tinh, còn ngọc nhà bên nầy như đã nói, hiệu cờ đỏ, là ngọc xưa, ngọc cổ nên quý và lạc tinh (patiné) đã nhiều. (Nhưng cũng nhiều tiền, mắc giá hơn).
Trong lúc tôi lựa chọn, tôi để ý thấy chủ nhân cố đứng áng không cho tôi xem vài món ngọc còn để trong tủ sâu. Tôi lại càng tò mò và đòi xem các món kia. Chủ nhân cười xã giao và nói tỉnh bơ: “Thấy tiên sinh thành thạo nên không muốn cho xem. Nó là cổ ngọc, và tôi cần bán những ngọc nầy trước”. Té ra chủ nhân cũng còn giữ tánh của buôn hữu sản; bán ngọc non tuổi cho người mới biết chơi ngọc, và chừa ngọc tốt để chờ người mắt xanh và mài dao bén để thiến ví tiền của bọn si mê cổ ngọc. Một số lớn ngọc thạch bày nơi đây đều cổ, và món nào cũng đề giá rất cao, mắc gấp mười, ngọc nơi nhà bên kia đường, tỷ dụ một con tước nhỏ, bên kia đề giá 200 đô la, thì nhà nầy ghi giá đến 2.000 đô la, nhớ lại trong túi vỏn vẹn có 320 đô la cho nên tôi nào dám rớ, hỏi giá cho biết vậy thôi. Khi từ giã bước ra cửa, tôi có quan niệm tốt, rằng ngọc đẹp ngọc xinh ngọc thật, vẫn còn khá nhiều, nhưng nếu muốn mua thì phải có mắt và có tiền khá rộng. Đánh một vòng gần khắp các hiệu buôn châu báu ở Đài Bắc, quan niệm ấy còn mạnh thêm lên, vì trong nhiều hiệu tôi viếng ở đất ông Tưởng sau nầy, nhà nào cũng chứa lũ khú gần đầy tủ kính có nhiều ngăn kéo, ngọc đủ màu và đủ cỡ. Tôi định chừng lúc có lịnh rời lục địa chạy qua đây, vàng lá, nữ trang và ngọc thạch là những món dễ đem theo nhứt, và họ đã vét gần sạch sành sanh của báu nơi Trung Hoa đất liền kia rồi.
Đến đây, độc giả đã có một cảm tưởng về ngọc vậy tôi xin nói qua bảy cây ngọc Như Ý của Bác vật quán Đài Bắc. Khi tôi qua tới Đài Bấc, thì tôi mới thấy thấm đòn thấm mệt, cũng vì tánh ham nghe ham thấy thật nhiều, quên rằng sức người có hạn, lúc ở Hương Cảng, chỉ có hai ngày mà tôi làm việc ví bằng một người siêng ở đó làm cả tuần hay mươi bữa, thêm khi qua tới kinh đô cù lao Đài Loan thì tôi bắt lay làm việc không ngừng cũng không kịp thở, đêm ít ngủ vì còn ghi chép không thôi, một điều khác nữa làm cho mau nhừ, là qua đây việc ẩm thực “ăn theo kiểu mấy kính xàng, dầu mỡ nhiều quá” tôi không đau ốm đã là quá may.
Để bù trừ, con mắt tôi quả chứa đầy bóng dáng những báu vật của nước Trung Hoa đã mấy ngàn năm tích trữ từ đời Thương đời châu đến các vua đời Thanh, và một việc may hy hữu, là lúc bại binh chạy được về đây lại khiến châu ngọc đã không còn ở Bắc Kinh. Khi đạo binh ông Tưởng tách rời lục địa, thì ngọc không có “ở nhà” và đã ra khỏi xứ, nhờ vậy nên không mất ấy cũng là một mảy may hy hữu. Số là mấy chục năm về trước Trung Hoa cần dùng tiền và muốn hỏi vay Anh quốc, nên lúc ấy, các báu vật của Thanh đế để lại, được đưa qua nước Hồng mao vừa định làm vật thế chưn đảm bảo số tiền vay, vừa triển lãm cho dân chúng Tây phương thưởng thức châu ngọc và báu vật nước Tàu. Không ngờ, sau đó việc vay tiền bất thành, nước Anh khi ấy mới đề nghị và hộ tống báu vật Tàu đưa sang Mỹ quốc. Giữa lúc ấy thì Tưởng bại binh chạy ra Đài Loan. Nhờ đi vòng do Anh Mỹ làm vậy, tôi cho là trời khiến, cho nên khi mất nước thì ngọc chạy vuột nên không mất. Sau đó, Mỹ trả ngọc về cho Đài Loan. Ngày nay thì ngọc được trưng bày cho công chúng xem tại Đài Bắc, chớ năm 1963, khi tôi qua đó, thì ngọc hãy còn trốn kín trong bụng núi ở Đài Trung. Lúc ông Diệm qua bên đó, theo lời ở đây nói lại, thì ông chỉ được xem những món báu bày trong tủ ké của toà Bác vật quán Đài Bắc mà thôi. Duy tôi hân hạnh và được biệt đãi theo hàng chuyên gia, vì tôi là khách riêng của ông Phó Tổng thống Trần Thành. Nhờ vậy mà khi tôi đến Đài Loan, một hôm tôi được đưa đến Đài Trung bằng tàu hoả, và được mở kho đặc biệt trữ ngọc trong hang núi, lấy ra cho tôi xem từng món một, tuỳ nơi tôi yêu cầu từ ngọc cổ đời Thương - Châu - Tần - Hán, đến đồ gốm men ngọc (céladon) đời Tống, có chạm thi ngự chế dưới đáy, ngự bút vua Kiền Long đời Thanh, khiến tôi suốt mấy ngày ngoạn du đất Đài Loan, bóng ngọc lảng vảng trang trí và trong con mắt chưa quên, không biết mình hưởng một giấc mơ thần tiên, hay sống thật, ngày nay nghĩ lại, còn luyến tiếc và mừng cho duyên may một thuở. Chuyến về vừa ghé Bác vật quán, chưa kịp tẩy trần, ông quán trường là ông Bao Tôn Bành (nay đã ra người thiên cổ), ông cầm tôi nán lạỉ để ông cho xem riêng, bảy cây ngọc lạ. Và không biết ông định thử sức mình hay sao, nên ông lấy ngọc cho xem mà trước khi, không cho xem thẻ lý lịch. Ông chờ cho nhơn viên ra về hết khi ấy ông mới lấy trong tủ sắt lớn ra bảy cây Như Ý, sấp đầy một mặt bàn. Mỗi cây ngọc đều đựng trong một hộp gỗ chạm khéo. Khi mở nắp hộp ra, tôi thấy choa mắt và tim bỗng đập mạnh, vì tôi chưa hao giờ thấy một số ngọc nhiều, to lớn và quý đến bực nầy. Môi cây đều có một vẻ sang riêng biệt không khác tôi đứng trước mắt bảy nàng hoa khôi bảy nước, mà nàng nào cũng thiên kiều bá mị không thua kém một ai.
Ngọc thứ nhứt là một cây Như Ý nguyên khối, toàn một màu trắng ngà, danh từ chuyên môn gọi tuồng như mỡ trừu, Pháp viết Jou- I jade, graisse de mouton, có lẽ dịch ngay trong từ ngữ Hoa: “Như Ý bạch ngọc dương ch”, nhưng “dương” Pháp gọi là “mouton” tức con cừu, sao mình dịch là dê, cũng lạ thật. Cán cây Như Ý nầy để nguyên vóc ngọc, cong cong queo queo, không sửa lại ngay, vì sửa ngay, mất nhiều ngọc quý, duy nét chạm thật tinh vi, chỗ khác chỉ cạo gọt sơ mà chỉ tô điểm thêm chút ít, tuỳ hòn ngọc lồi lõm, ngọc muốn trổ hình thì giữ y như vậy, nhưng lạ thay cho nét thần của Tạo hoá, rõ ràng như hình tiên đứng trên mây tản vân, thật là trời khéo chiều ý người, vừa thiên tạo, cũng vừa nhơn tạo, đôi bên tương trợ và giúp ý nhau, nhưng phải nói, nhờ người thợ khéo tay, nên đã không mất chất ngọc mà món đồ thêm tôn thêm xứng đáng. Cái câu “ngọc bất trác, bất thành khí”, đến đây tôi mới hiểu là gì. Và không biết xưa ông tiên ông thánh hay ông vua nào được cầm ngọc Như Ý nầy trên tay, sướng quá!
Cây ngọc thứ hai, đẹp trội hơn nữa vì nhiều màu hơn, và đây là ngọc mã não bám khói đèn, (agate fumée), tôi không biết danh từ chuyên môn Trung Hoa gọi làm sao, vì chưa thấy tả trong sách. Cây Như Ý nầy gồm một khúc toàn trắng và trong khe, màu như bánh xu-xoa, và có chỗ có vân đều đều, y như có bàn tay thợ khéo nào lấy thước kẻ từ nhiều đường song hành thẳng bon và rất đậm nét, rất sắc sảo, còn chỗ khác lại nạm đen y như có khói đèn bám vào, làm cho ngọc thêm có vẻ kỳ diệu lạ lùng, khi mới thấy tôi có cảm tưởng đó không phải là ngọc, mà là bột bán làm xuxoa pha da lợn, trong Nam gọi bánh da lợn, của người thợ thức khuya nên làm bánh vấy khói đèn. Xét ra tuy mã não (agate) vẫn quý, vẫn thuộc loại ngọc, nhưng không quý bằng cẩm thạch (jade). Dịch jade là cẩm thạch là lầm, tưởng nên dịch ngọc thạch, đúng hơn: và chừa danh từ “cẩm thạch” để dịch chữ “marbre”, vì cẩm là gấm. Marbre có vân như gấm, còn jade mới là ngọc thạch (đá ngọc).
- Cây ngọc Như Ý thứ ba, thì màu hường xen màu đỏ huyết (quarlz rose avec traces couleur de sang), cây nầy cổ quái không thể tả. Theo Pháp - Việt từ điển Đào Duy Anh, thì quartz chia ra nhiều màu và có tên vẫn khác, tỷ như:
- quartz: thạch anh (khoáng);
- quartz blanc: khuê thạch;
- quartz hyalin: phương tinh;
- quartz hyalin violet: tử phương tinh: (tử là tía) v.v...
Quartz thuộc loại ngọc, vẫn quý; nhưng đối với người Hoa người Việt, chúng ta không trọng bằng ngọc thạch (jade), vì jade, trong khe tuyệt đẹp, làm nữ trang, thêm sang trọng, còn quartz, thì thường lợn cợn, màu sắc đẹp, để nguyên khối tạc tượng thì xinh, nhưng lấy quartz làm nữ trang thì hỏng, vì cưa chạm quartz thì nó tách rời, mất giá trị. Quartz rose, ở Sài Gòn, trước đây, vẫn có bày bán, vì từ Hương Cảng đem về. Giá nơi hơn ngọc thạch.
Cây ngọc Như Ý thử tư, là ngọc thạch màu bí đao (joui jade blanc de melon) loại nầy trắng pha thanh lục, cũng một loại với ngọc thạch mỡ trừu, nhưng giá kém hơn; nhưng có người lại thích, vì màu trong suối, tinh anh, khả ái.
- Cây ngọc Như Ý thứ năm, màu vàng đục, trổ lốm đốm đen đen. Nhìn kỹ, đây là mã não, chớ không phải ngọc thạch. Người Pháp khi gọi agate, khi gọi comaline. Mã não trắng, thì tầm thường. Mã não đỏ là hồng mã não có giá trị hơn.
Cây Như Ý thứ sáu và cây Như Ý thứ bảy, hình cong queo, không giống năm cây Như Ý trước, nhưng vẻ xinh không kém.
Tôi chăm chú định nhãn, nhìn thật kỹ, thấy mỗi cây, làm bằng ba khúc ngọc ráp lại coi như liền, nhưng có mộng khéo và có lỗ mộng nơi đầu kia vừa vặn, ba khúc ráp lại nhau, người nào không để ý tưởng là ngọc liền, hai cây Như Ý nầy tỏ ra người thợ nào chế tác ra nó, mới quả là một xảo công kỳ thú, có mắt biết xem ngọc và lợi dụng khai thác từng tiểu tiết của ngọc, cây Như Ý thứ bảy, có một khúc cong, quá đỗi cong, nếu để y như vậy thì xem không đẹp, người thợ khi xưa bèn tách ra làm thành một miếng “hồi văn liên hoàn” dính tòn ten vào cây Như Ý bằng một sợi dây xích cung do ngọc ấy làm ra, y như miếng lèo dải treo, thiệt là xảo thủ và có con mắt tinh đời.
Qua lúc khớp sợ buổi ban sơ mới tiếp xúc với ngọc lạ lần đầu, sau đó tôi hoàn hồn tỉnh táo lại, tôi định thần và nhìn kỹ, trong khi ấy tôi tiếp lục mân mê bảy cây Như Ý liền tay, vì biết rằng vật nầy gặp đây và cầm trên tay đây, cho đến chết không gặp lại nữa, tôi nhìn kỹ từng cây Như Ý khi ấy tôi mới rõ, có cây thì liền lạc nguyên khối, mà cũng có cây hoặc hai khúc hoặc ba khúc ráp nối lại nhau, nhờ mộng ghép thật khéo, lỗ mộng và chốt mộng vừa vặn khít khao, không hở một sợi tóc, người xưa đục mộng rồi thả vô nước, nếu nước chui vô lọt bên trong, thì chưa lành nghề, nếu không nghe dặn trước và không để ý, thì không biết đó là ngọc ráp nối, tôi càng nhìn càng thầm phục tài trác ngọc của thợ Trung Hoa, quả không bỏ sót một tánh ngọc nhỏ nào mà không khai thác tận lực tận mỹ. Từ sáu khúc ngọc vô dụng vì bời rời, người thợ nầy đã biến được hai cây ngọc, cũng đồng một cỡ với năm cây ngọc liền kia, cỡ ba tấc ba tấc ngoài bề dài (lúc ấy bất cặp tôi quên đo), và chính nhờ hai cây ngọc Như Ý ráp nầy, mà tôi truy nguyên ra manh mối bảy cây ngọc của Bác vật quán Đài Bắc. Nói chí đáng cũng nhờ vịn theo lời nói của cố tiên sinh Bao Tôn Bành và nhờ lanh trí một phần nào, chớ học trong sách không có.
Tôi đang mân mê một cây Như Ý, bỗng vị quán trưởng Bác vật quán Đài Bấc mở hơi:
- Ngọc nầy phải của quý quốc không, vương tiên sinh ạ. Đố ông biết ngọc thuộc đời nào và do xứ nào chế tạo! Và xuất xứ của ngọc nầy, từ đâu đem đến?
Câu hỏi dồn dập, ông Bao Tôn Bành (Ignatus Pao) là quán trưởng Bác vật quán Đài Bắc, hỏi một cách khoan thai, và cũng hiền lành như ông là người tôi mới quen chưa được một tuần mà đã tri kỷ như người tam sanh hữu hạnh mới gặp như vầy. Ông Bao Tôn Bành, nay đã mất, nhưng hôm đó ông có dè đâu câu hỏi thật thà của ông có thể làm cho tôi chết trước ông, tức thì lúc đó. Trả lời làm sao. Nếu câu đáp sai trật, không đúng, thì chi cho khỏi ông Bao cười nhạo, ông không cười, người khác biết được thì cũng còn chi tên tuổi của mình, dầu chi cũng là quản thủ một Viện bảo tàng của một lân bang có văn hiến lâu đời, thêm bấy lâu mình vẫn mang tiếng là tay chơi đồ cổ khá lành nghề về ngọc và đồ sứ men lam.
Trong lúc thình lình bị vấn nạn làm vây, tôi mới rõ giá trị câu “danh chánh ngôn thuận” và tôi muốn chôn phứt cái danh hão bất xứng, có tiếng mà không có miếng “Quản thủ Viện bảo tàng Sài Gòn”, cũng không nhận cái chức “Bác luật quản trưởng” mà một đôi khi đã có bạn ở đây mến tặng một cách trịnh trọng. Nếu phải cho mình tự do chọn lựa và tự do xưng tên thì xưa “một tên bán quán” cũng đủ như vậy mà ít nhục, tuy vẫn biết thuở nay mình chưa là nghiệp chủ một quán nào (cái quán hủ tíu mang tên bà xã trong Chợ Lớn thật là oan, vì y làm công đứng bán và nay cũng đã ra rìa).
Tôi không vội trả lời gấp, vẫn ung dung lấy ngọc xem thật kỹ từ cây số 1 đến cây số 7 xem rồi chậm rãi trả lời:
- Thưa Bao tiên sinh, ngọc nầy bên tệ quốc ngày xưa chưa có thợ khéo làm nổi như vầy được.
Câu giục hoãn cầu mưu của tôi không dè hiệu nghiệm như thần vừa làm mũi họ Bao thở phồng, vì được khen gián tiếp thợ Tàu giỏi, vừa làm bật mí chuyện tôi muốn biết. Tôi nói tiếp:
- Thưa Bao tiên sinh, tôi định cho các bảo vật nầy, phải có tay xảo thủ bên quý quốc, tôi định cho bảo vật khéo như vầy, ắt làm dưới triều đức Kiền Long nhà Mãn Thanh, mới được toàn hảo như vậy.
Tôi vừa nói chưa hết lời, ông Bao nhe răng cười, đôi mắt hí lại, và thú thật:
- Quả Vương tiên sinh có con mắt ngọc: trong thẻ lý lịch, bảy cây Như Ý nầy chế tạo vào đời Thanh Cao Tôn (Kiền Long). Trúng một phần rồi đó, tiên sinh nói tiếp nữa đi.
Tôi lần lượt lấy ngọc ra nhìn, qua cây thứ sáu và cây thứ bảy, tôi thấy màu trắng vân đỏ vân hường, khúc trong khúc đục xen nhau, tôi bỗng mừng như bắt được vàng, tôi mạnh dạn nói tiếp:
- Về căn nguyên gốc tích bảy cây ngọc nầy, quan trọng lắm, xin Bao tiên sinh nhớ giùm, khi tôi về nước, tiên sinh chụp ảnh cho tôi xin một bộ ảnh bảy cây ngọc nầy, làm kỷ niệm đánh dấu buổi Đông du nầy.
Ông Bao gật đầu ưng chịu (và sau quả giữ y như lời). Tôi nói tiếp:
- Ngọc nầy tôi chắc gốc gác ở biển Nam. Như hai cây nầy quả là san hô. Cũng thì san hô, nhưng vẫn có nhiều thứ. Các biển phần nhiều đều có, nhưng xấu tối khác nhau. Có loại san hô tầm thường, thì chỉ là chất vôi đá của loài sinh vật nhỏ tụ hội lại và kết lại thành giề, đóng vào gành đá, hoặc biến thành cù lao lố rạn, thuyền bè đi biển, rấn vào là nguy hiểm vô cùng. Nhưng Bao tiên sinh xem đây, hai cây nầy màu đỏ xen màu trắng, san hô trắng vả chăng khó kiếm lắm, được cỡ lớn và đẹp như vầy, nước tôi ngày nay cũng tìm không ra, và ngọc nầy, không phải đá đâu, tôi nhấn mạnh một lần nữa, ngọc nầy, cũng như năm cây kia là bảy cây Như Ý cả thảy, tôi định chắc xưa của nước Chiêm Thành, đã mấy chục đời tìm tòi và góp nhóp lâu lắm mới được toàn xinh tốt như vầy, rồi đem cống sứ cho vua chúng tôi.., sau đó, dưới đời Đức Kiền Long, có một ông vua bất tài là Lê Chiêu Thống đánh không lại vua nhà Tây Sơn, bèn chạy trốn qua bên quý quốc, lại dùng bảo vật của nước, còn nguyên khối, lấy đó làm lễ vật, dâng đức Kiền Long, xin bỉnh viện trợ, trống mái quyết tử chiến với Tây Sơn, nhưng kế bất thành, thân luỵ bên quý quốc. Thanh Cao Tôn có sáng kiến, sai thợ khéo chế ra bảy cây ngọc Như Ý nầy. Như Ý là gì? Sách Pháp, quá vật chất, dạy rằng đó là cây xưa dùng để gãi khều sau lưng, khi tay người với không tới. Sau đó biến thể ra vật tượng trưng cho hiệu lịnh, như cây gậy lịnh của Thống chế võ tướng. Nhưng người Á Đông do Trung Hoa khởi đầu, nghĩ ra lấy nấm linh chi là linh vật của Tiên Phật, ăn linh chi sẽ được trường sinh bất tử, và lấy hình nấm linh chi là hình cây Như Ý, cho nên cong queo không nệ, để tượng trưng sự thiêng liêng, sự thần thông quảng đại của Phật, của Lão tử, của ông Thọ lão, và biến thể mãi hoá ra cây Như Ý của nhà tu hành và cây hốt của quan lại lớp xưa, bên quý quốc cũng như bên tệ quốc. Ấy chết! Tôi đã Ban môn lộng phủ, dám nói điển Trung Hoa với Bao tiên sinh, xin tha thứ. Như vậy, tóm lại, ngọc là ngọc nước Nam, nhưng công chế tạo là kỳ công của người quý quốc Bao tiên sỉnh có ý kiến thế nào?
Đến đây, ông Bao Tôn Bành không trả lời, cười mỉm chi dáng rất bằng lòng, thong thả thu xếp bảy cây ngọc vào tủ, viện cớ đã trễ giờ và mời tôi cùng đi với ông đi nhập tiệc. Đây cũng là một buổi áp chót, thấy mặt ông bạn tốt xứ Đài Loan. Ông người phốp pháp rất chắc người, thêm tuổi trẻ, vừa hơn năm chục, dè đâu không thọ. Có gặp nhau nữa chăng, hoạ là trong giấc chiêm bao.
Tôi về xứ, gãp biến cuộc, ông Diệm bị lật đổ, tướng Khánh lên, rồi vài tháng sau tôi cũng ra ma. Một nghiên Tức Mặc Hầu, còn lưu vong, đã quá lâu rồi, cũng bặt tin khó tìm lại được. Bảy cây ngọc Như Ý nay đã về tay khác, chuyện vu vơ không đủ bằng cớ, biết lươn thuở nào lại bất đàng đuôi?
(Viết ngày 10-3-1973, chép lại đây ngày 10-6-1978)