Hồi ký Nguyễn Hiến Lê

Chương XXVII

SÁCH TÔI VIẾT TỪ 1955 ĐẾN 1975[1]

 

Cuối năm 1954, khi thành lập nhà xuất bản ở 50 Huỳnh Tịnh Của, tôi đã có được khoảng mười lăm tác phẩm và mươi bài trên các báo Việt Thanh, Giáo dục phổ thông, Mới (của nhà P. Văn Tươi), không kể những bài trên tờ Tân Việt Nam (1945). Những tác phẩm đó thuộc các loại:

 

Tổ chức công việc.

 

Giáo dục, Học làm người.

 

Văn học.

 

Ngữ pháp - Luyện văn.

 

Lịch sử (Lịch sử thế giới).

 

Du kí.

 

Non hai phần ba số đó đã ra mắt độc giả, còn thì hai ba năm sau mới in.

 

Từ 1955, liên tiếp hai chục năm:

 

Tôi mở rộng, một mặt đào sâu các đề tài đã viết, như về:

 

- Tổ chức công việc, tôi viết thêm những cuốn Tổ chức công việc làm ăn, Lợi mỗi ngày được một giờ

 

- Giáo dục và Học làm người, tôi viết thêm trên ba chục cuốn:

 

Thời mới dạy con theo lối mới, Tìm hiểu con của chúng ta, Thế giới bí mật của trẻ em

 

Rèn nghị lực, Luyện lý trí, Tương lai ở trong tay ta, Nghệ thuật nói trước công chúng, Cách xử thế của người nay, Xây dựng hạnh phúc, Chinh phục hạnh phúc, Giúp chồng thành công, Giữ tình yêu của chồng, Con đường lập thân…

 

Trong loại này có thể kể hơn một chục cuốn Tiểu sử danh nhân: Gương danh nhân, Giương hi sinh, Gương kiên nhẫn, Gương chiến đấu, Ý chí sắt đá, Những cuộc đời ngoại hạng, Einstein, Bertrand Russell, Đời nghệ sĩ (chưa xuất bản)… 

 

Khi dịch cuốn Huấn luyện tình cảm của P.F. Thomas (năm 1941) tôi để ý đến đoạn này ở chương XXI:

 

“Đời các vĩ nhân cho ta một lí tưởng, một kiểu mẫu để bắt chước (…) Nhờ có gương của họ mà ta trở nên khá, có can đảm, kiên nhẫn, để đi tới mục đích mà không sa ngã, điều đó Auguste Comte hiểu rõ lắm, cho nên ông khuyên ta nên in tên các danh nhân của nhân loại lên trên lịch để cho chúng ta mỗi ngày có dịp trầm tư về các vị ấy, hàng ngày bái vĩ nhân như Emerson còn là một thứ thuốc nó tẩy sạch cái bệnh tự tôn ở mắt ta đi[2] và cho ta thấy được người khác và những công nghiệp của họ.

 

“(…) Vì vậy không có gì bổ ích bằng những truyện kí dạy ở trường. Biết chọn những truyện đó và lựa lúc đọc cho học sinh nghe thì những truyện đó là những bài học dễ hiểu, vui vẻ, cụ thể, dạy cho chúng can đảm, có đức hạnh. Những truyện kí về các danh nhân đó, khéo viết thành sách còn có ích cho thiếu niên nữa. Người nào biết làm cho thiếu niên bỏ những sách nhạt nhẽo, nhảm nhí mà hướng cả về những truyện có ích ấy, thật là giúp được một việc lớn nhất trong nước. Công của tất cả các nhà đạo đức hợp lại cũng không lớn bằng công răn dạy quần chúng ấy”.

 

Đoạn trên đó kích thích tôi mạnh và ngay từ hồi đó đã có ý theo lời khuyên bảo của Thomas. Nhưng mãi đến năm 1959, nhờ thu thập được một số khá nhiều tiểu sử danh nhân, tôi mới lựa chọn mà viết được cuốn đầu nhan đề là Gương danh nhân. Rồi từ đó cứ một hai năm tôi lại viết thêm một cuốn với tất cả sự chân thành, nhiệt tâm của tôi. Tôi lựa toàn là những nhà tài đức cao, như tôi đã nói ở trên. Những người có danh tiếng lớn, có tên trong lịch sử nhân loại mà đức kém thì tôi cũng loại bỏ. Vì vậy trong số trên bảy chục danh nhân tôi viết tiểu sử, không có Thành Cát Tư Hản, César, Napoléon… mà có bà La Fayette. Đọc tiểu sử bà này và tiểu sử bà Curie[3] tôi viết, một nhà văn ở Trung Việt bảo đã xúc động đến rơm rớm nước mắt. Và độc giả nào cũng nhận Tiểu sử danh nhân của tôi có tác động lớn.

 

- Văn học Trung Quốc tôi viết thêm bộ Văn học Trung Quốc hiện đại, Tô Đông Pha, Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa, Cổ văn Trung Quốc, Chiến Quốc sách, Sử kí của Tư Mã Thiên

 

- Luyện văn, tôi viết thêm bộ Hương sắc trong vườn văn, Tôi tập viết tiếng Việt (chưa xuất bản)[4].

 

- Ngữ pháp, tôi viết chung với Trương Văn Chình thêm cuốn Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam.

 

- Lịch sử, thêm Đông kinh nghĩa thục, Bài học Israël, Bán đảo Ả Rập và dịch năm cuốn trong bộ Lịch sử văn minh của Will Durant.

 

Mặt khác, tôi bước vào vài khu vực mới:

 

- Triết học Trung Quốc: Mới đầu chỉ là một cuốn mỏng: Nho giáo, một triết lí chính trị; sau nhờ duyên văn tự và cũng nhờ Hiệp định Genève tôi được gặp ông Giản Chi Nguyễn Hữu Văn; lại nhờ ông bạn ở Pháp, ông Tạ Trọng Hiệp tìm kiếm cho tài liệu ngoại quốc, tôi tiến sâu vào khu vực đó, tới đầu năm 1975 đã xuất bản được bộ Đại cương triết học Trung Quốc 2 cuốn (chung với Giản Chi), Nhà giáo họ Khổng, Liệt Tử và Dương Tử, Mạnh Tử và tới nay (1980) tôi có thêm được bảy tám bộ nữa về các triết gia thời Tiên Tần: Tuân Tử, Hàn Phi (cả hai viết chung với Giản Chi), Mặc Tử, Lão Tử, Trang Tử, Khổng Tử, Luận Ngữ, Kinh Dịch (tất cả đều chưa xuất bản)[5].

 

- Tôi xông cả vào khu Chính trị, kinh tế: Một niềm tin, Xung đột trong đời sống quốc tế...

 

- Thấy tiểu thuyết hay, tôi cũng dịch, một phần do ý muốn của tôi, một phần do lời yêu cầu của vài nhà xuất bản: Lá Bối, Ca Dao, Trí Đăng, như bộ: Chiến tranh và Hoà bình, Khóc lên đi, ôi quê hương yêu dấu[6]

 

- Ngoài ra từ 1957, tôi còn viết đều đều mỗi tháng một hay hai bài báo cho các tạp chí định kỳ Bách Khoa (nhiều nhất), Mai, Tin Văn… và mỗi năm trung bình viết một bài Tựa cho một tác phẩm của một bạn văn.

 

Tính sổ lại trong hai chục năm hoạt động, tôi đã cho ra được:

 

- Khoảng chín chục nhan đề, cộng với những nhan đề đã xuất bản trước 1955, được chẳn một trăm, với bốn nhan đề chỉ là một tập mỏng vài chục trang (loại Bông hồng cài áo của nhà Lá Bối) nhưng cũng có 7-8 nhan đề gồm 2, 3, 4 cuốn, từ 400 đến hơn hai ngàn trang, đa số từ 200-300 trang.

 

- Viết được trên mười tác phẩm chưa xuất bản, mỗi cuốn từ hai đến năm trăm trang, có nhiều cuốn về triết học Trung Hoa thời Tiên Tần.[7]

 

- Viết khoảng 250 bài báo mà một nửa in thành sách, một nửa không.

 

- Và viết giúp bạn trên 20 bài Tựa, đa số cho loại biên khảo, một số ít cho loại thơ và tuỳ bút.

 

°

 

BÁO TÔI HỢP TÁC

 

Hiệp định Genève kí năm 1954 thì năm 1955 thi sĩ Bàng Bá Lân mà tôi biết danh từ lâu, di cư vào Sài Gòn kiếm được một căn nhà trong ngõ hẻm gần khu tôi ở, lại làm quen với tôi. Ông sở dĩ biết tôi vì ở Bắc đã đọc cuốn Luyện văn, trong đó tôi trích dẫn vài câu thơ của ông.

 

Ông làm chủ nhiệm tờ Bông lúa, do chính phủ tài trợ, mỗi tháng ra một số dày dăm bảy chục trang, khổ nhỏ. Bài vở hầu hết là của ông, ông nhờ vài bạn văn tiếp tay. Nhân có một số tiểu luận và kịch bản đã dịch sẵn từ tiếng Anh và tiếng Pháp, tôi vị tình đưa ông đăng, hoàn toàn là giúp ông. Năm 1956, tờ đó đình bản, số cuối đăng trọn bản dịch kịch Công ty Lạc sinh của tôi. Tờ đó bán rất ít, gần như không ai biết.

 

BÁCH KHOA

 

Năm 1957, tạp chí Bách Khoa ra được hai số thì nhà văn Nguyễn Hữu Ngư (Ngu Í) dắt bà Phạm Ngọc Thảo lại giới thiệu với tôi để nhờ tôi viết giúp tờ Bách Khoa mà chồng bà có chân trong toà soạn, hoặc ít ra cũng là cộng tác viên.

 

Tôi không hề quen ông bà Thảo, chỉ do Nguyễn Hữu Ngư mà biết bà là em ruột giáo sư Phạm Thiều hồi đó đã tập kết ra Bắc, còn ông là một nhân viên khá quan trọng trong kháng chiến miền Nam. Tôi cũng không biết người sáng lập tờ Bách Khoa là ai, toà soạn gồm những ai, chỉ thấy bà Thảo nhã nhăn, có học thức, mà tạp chí đó bài vở cũng đứng đắn, nên tôi góp với họ bài Quan niệm sáng tác của Edgar Poe, bài The Raven mà tôi đã viết từ trước, chưa có dịp dùng tới.

 

Bài đó được đăng ngay trong số 4 (Tạp chí ra mỗi tháng 2 kỳ). Tiếp theo, tôi cũng gởi cho họ ba bài nữa cũng về văn học, bài Tiếng Việt ngày nay, Vấn đề dịch văn, Phép dịch thơ, cũng được toà soạn cho đăng ngay trên các số 5, 6, 7, 8. Từ đó, lâu lâu tôi gởi thêm một bài về Nho giáo, về danh nhân hay về văn học…, toàn là do bà Thảo hay ông Ngư làm trung gian, chứ tôi vẫn chưa lại toà soạn. Hợp tác với báo nào tôi vẫn giữ tư cách một độc giả góp bài chứ không dự gì vào đường lối, công việc của toà soạn. Tôi không nhớ mấy tháng sau, có dịp đi qua số 160 đường Phan Đình Phùng[8] mới ghé toà soạn Bách Khoa cách nhà tôi khoảng một cây số gặp ông Hoàng Minh Tuynh và vài anh em nữa. Tôi cũng không nhớ bao lâu sau tôi mới gặp ông Phạm Ngọc Thảo[9], một người thấp nhỏ, rất hoạt động, hoạt bát, có tư tưởng tiến bộ, viết một số bài về quân sự, ý kiến xác đáng, tỏ ra có kinh nghiệm và biết suy nghĩ. Hai ông Tuynh và Thảo có vẻ quí tôi cả. Từ đó tôi hợp tác đều đều cho tới khi đình bản, tháng 5 năm 1975.

 

Trong lịch sử báo chí của nước nhà, tờ Bách Khoa có một địa vị đặc biệt. Không nhận trợ cấp của chính quyền, không ủng hộ chính quyền mà sống được mười tám năm, từ 1957 đến 1975, bằng tờ Nam Phong, có uy tín, tập hợp được nhiều cây bút giá trị như Nam Phong, trước sau các cộng tác viên được khoảng một trăm.

 

Mới đầu chỉ là một nhóm công chức cao cấp nghiên cứu về kinh tế, tài chính, quân sự do Huỳnh Văn Lang thành lập. Họ xin được nhãn báo (manchette) của tờ Bách Khoa bình dân đã chết từ số 2, cắt hai chữ “bình dân” đi; rồi hùn nhau để tục bản.

 

Họ đa số là những người đã tham gia kháng chiến chống Pháp trở về, không hoạt động cho kháng chiến nữa, mặc dầu là công chức nhưng không ưa Pháp.

 

Năm đầu, đăng nhiều bài về kinh tế và một số bài về công giáo, nên có tính chất nặng nề, nhưng báo sống nổi: nhờ chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang làm giám đốc Viện Hối đoái, tờ báo thu được nhiều quảng cáo.

 

Đến năm 1959, một phần nhờ ông Lê Ngộ Châu, có hồi theo kháng chiến rồi về Hà Nội dạy ở một trường trung học tư, được Huỳnh Văn Lang giao cho nhiệm vụ tựa như thư kí toà soạn, mà tờ báo khởi sắc, có một đường lối rõ rệt, đường lối thứ ba, không theo Cộng mà cũng không theo Mĩ, và tập hợp được một số cây bút có kinh nghiệm làm nồng cốt như Võ Phiến, Vũ Hạnh, Nguyễn Văn Xuân, Phan Du, Võ Hồng, Bình Nguyên Lộc.

 

Khi báo có uy tín rồi (từ 1960 trở đi) ông Châu tập hợp thêm một số cây viết trẻ, từ đó báo đăng nhiều bài có giá trị cả về biên khảo, lẫn sáng tác, và chính nhờ hợp tác với Bách Khoa mà những cây viết đó nổi tiếng như: Vũ Hạnh, Võ Phiến, Lê Tất Điều, Cô Liêu, Ngu Í, Phạm Việt Châu, Phan Văn Tạo, Đoàn Thêm (hai người sau là nhân viên cao cấp trong chính quyền Ngô Đình Diệm)…, nhất là các nữ tiểu thuyết gia Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Thuỵ Vũ, Tuý Hồng…

 

Ngu Í chuyên về phỏng vấn, từng trải, có nhiều nhiệt tâm, văn có duyên.

 

Võ Phiến còn kí tên là Tràng Thiên, Thu Thuỷ, viết tiểu thuyết nhưng thành công nhất về tạp bút (tuỳ bút), ý sâu sắc và lời dí dỏm. Ông khéo phân tích tâm lí nhân vật, tả cảnh vật tài tình, linh động.

 

Phan Văn Tạo, bút hiệu Vũ Bảo, viết về thời sự và hồi ký.

 

Phạm Việt Châu chuyên về chính trị quốc tế và nhận định thời cuộc.

 

Có tinh thần đồng đội giữa những cây viết chính. Trong mười năm đầu, họ thường họp nhau ở toà soạn – 160 Phan Đình Phùng – hội ý trước về các đề tài, góp ý về nội dung các bài phê bình, đả kích. Tôi không khi nào dự cả, nhưng thỉnh thoảng ông Châu cũng nhờ tôi cho ý kiến về một bài gởi đăng mà đề tài tôi biết rõ hơn ông, như Văn học, Triết học Trung Quốc.

 

Tư tưởng của những cây viết chính có khi trái ngược nhau. Vũ Hạnh thiên Cộng, sau theo Cộng; Võ Phiến chống Cộng; Đoàn Thêm và Phan Văn Tạo không ưa Cộng cũng không đả, “không thích Mĩ” nhưng cũng không nói ra; tôi, có lẽ cả Ngu Í và Lê Ngộ Châu nữa, có cảm tình với kháng chiến, nhưng khác hai ông ấy. Càng về sau, từ 1965 trở đi Mĩ đổ nửa triệu quân vào miền Nam tôi càng đả mạnh Mĩ và chính quyền Thiệu bù nhìn của Mĩ.

 

Mặc dầu vậy, các anh em trong toà soạn vẫn giữ tình hoà hảo với nhau. Xu hướng trái ngược với nhau như Vũ Hạnh và Võ Phiến mà họ vẫn trọng tư tưởng của nhau (ít nhất là trong mười năm đầu) và gặp nhau tránh nói về chính trị. Đó là điều tôi quí nhất.

 

Nhờ anh em ai cũng có tinh thần đó nên buổi họp nào ở toà soạn cũng đông và vui, như Phan Du đã tả trong bài Văn đàn tình thoại (BK số 361, tr. 62): “Bất luận là trẻ già, là cũ mới, là duy vật duy tâm, là Phật giáo hay Công giáo, khuynh hướng chính trị, văn chương như thế nào, đều được đón nhận với sự cảm thông, và được chung đụng trong cái thể hoà đồng, cởi mở”.

 

 Tờ báo có chủ trương đăng tất cả các sáng kiến cá nhân dù đúng hay sai, miễn là thành thực, có tinh thần xây dựng về bất cứ vấn đề gì: từ chính trị, quân sự, tới kinh tế xã hội, văn học, khoa học… mà “không giới hạn ở lập trường chính trị nào, phe nhóm nào”. Dĩ nhiên, bị kiểm duyệt cắt – nhất là trong bảy tám năm cuối – nên không một cây viết nào có thể trình bày hết ý mình được, mặc dầu vậy Bách Khoa vẫn được độc giả cho là “dám nói”. Sau ngày giải phóng 1975, nhiều học giả Bắc nhận là một tờ báo “nghiêm chỉnh”, tuy chống đối cả Cộng sản lẫn Tư bản, nhưng có lập trường đứng đắn, lí luận vững, ngôn ngữ đàng hoàng; và hiện nay các số báo Bách Khoa cũ càng ngày càng có giá trị: một bộ cũ rách, từ đầu đến cuối, thiếu độ mười số, bán được gần 5.000đ (năm 1983), (đủ bộ mà tốt: 10.000đ)[10].

 

Bách Khoa thịnh nhất trong những năm 1959-1963 bán được từ 4.500 đến 5.000 số, độc giả dài hạn được trên 1.000 mà khoảng 100 ở ngoại quốc, tờ Văn bán chạy hơn, còn các tờ định kì khác thì trung bình được 3.000 số.

 

Sau cuộc đảo chính 1963, chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang bị bắt giam, rồi tờ báo bị đe doạ đóng cửa, phải đổi giấy phép – Lê Ngộ Châu làm chủ nhiệm thay Huỳnh Văn Lang – đổi tên là Bách Khoa Thời đại; từ đó suy giảm về tài chánh (vì mất nhiều quảng cáo) nhưng nói chung nhóm biên tập vẫn như cũ.

 

Từ vụ Tết Mậu Thân (1968), tờ báo mất một số lớn độc giả miền Trung – mà độc giả đó là phân nửa độc giả BK – giá giấy và công in lại cao, nên lỗ. Ông Lê Ngô Châu rán giảm mọi chi phí – cả toà soạn chỉ có ông và hai người giúp việc mà duy trì tờ báo tới đầu 1975. Một ông bạn tôi – nhà văn tập kết về - phải ngạc nhiên về sự làm việc của toà soạn, vì theo ông thì ở Bắc, một tờ định kì như vậy phải dùng ba chục nhân viên là ít.

 

Từ trước tới sau, Bách Khoa giữ được trọn tình cảm của hạng độc giả đứng tuổi; còn giới trẻ thì chê là khô khan, nặng về biên khảo mà nhẹ về sáng tác (thơ, tiểu thuyết). Lẽ đó dễ hiểu.

 

Tuy nhiên phải nhận rằng Bách Khoa không có ảnh hưởng lớn như Nam Phong, Phong Hoá, Ngày Nay trong dân chúng. 

 

Nam Phong ra đời ở buổi giao thời, văn hóa cũ bắt đầu chuyển mạnh qua văn hóa mới của phương Tây, số người viết ít mà số người đọc cũng ít, bao nhiêu cây viết có giá trị đều dồn vào tờ đó cả, không một tờ nào khác có nhiều bài đáng đọc và nhiều độc giả như Nam Phong, có thể cạnh tranh nổi với nó; nó lại được trợ cấp nên đứng vững được, những tờ báo khác có ra cũng chỉ được ít số là chết. Có thể nói Nam Phong một mình một chợ, do đó có ảnh hưởng, uy tín lớn.

 

Bách Khoa sinh sau bốn chục năm, vào thời mà số người viết đông, số độc giả cũng đông, gồm nhiều khuynh hướng, nên bị nhiều báo định kì (có lẽ đến non chục) chia bớt độc giả và Bách Khoa chỉ nhắm vào số độc giả đứng tuổi, số này bao giờ cũng ít, ảnh hưởng do đó kém.

 

Lại thêm Bách Khoa không có một chủ trương mới mẻ, mạnh mẻ cải cách cả về tư tưởng lẫn sự trình bày như tờ Phong Hoá, Ngày Nay, trước sau vẫn giữ lập trường ôn hoà, đứng giữa, không theo Cộng, không theo Mĩ, như vậy làm sao gây nổi một phong trào mà ảnh hưởng lớn tới quốc dân được như nhóm Tự Lực?

 

Thời đó có một nhóm nhà văn trẻ ở Bắc di cư vào lập nhóm Sáng Tạo muốn làm một cuộc cải cách, nhưng họ không đủ kiến thức, tài năng, chỉ hô hào chống Cộng - điểm này không có gì mới cả - mà cũng không sâu sắc, vì họ ít đọc sách báo ngoại quốc; và đả đảo lối viết của nhóm Tự lực trước kia, mà người cầm đầu Sáng Tạo – Mai Thảo – lại có bút pháp cầu kì, “làm duyên làm dáng”, không hợp thời chút nào, chính bọn họ cũng không theo. Rốt cuộc chẳng gây được tiếng vang nào cả.

 

Tôi với Võ Phiến là hai người cộng tác với Bách Khoa đều nhất, lâu nhất. Từ đầu tới cuối Bách Khoa ra được 426 số thì 242 số có bài của tôi, bài cuối đăng trên số 424.

 

Sự hợp tác với các báo định kì rất có lợi cho tôi. Mới đầu tôi gởi đăng bài hay chương của tôi đã viết rồi mà chưa xuất bản, về văn học, triết học, gương danh nhân; đó là một cách tự giới thiệu trước với độc giả.

 

Sau hoặc tự ý tôi, hoặc do toà soạn nhờ viết, do độc giả gợi ý, tôi mở rộng tầm hoạt động, viết về những vấn đề không có trong chương trình trứ tác của tôi; nhờ sự thúc đẩy, khuyến khích đó tôi phải đọc nhiều hơn, viết nhiều hơn, chú ý tới thời cuộc, tình hình trong nước và thế giới hơn. Tôi không tự giam trong “Tháp ngà”; mặc dầu một tuần hay nửa tháng mới ra khỏi nhà, cả năm không đi dự một cuộc họp nào cả, nhưng tôi luôn luôn theo dõi tất cả những biến chuyển trong nước và trên thế giới và kịp thời góp ý kiến với quốc dân.

 

- Trên tờ Bách Khoa, tôi lâu lâu làm công việc điểm sách, tức công việc giới thiệu và phê bình. Không khi nào tôi điểm những sách dở, vì không thích đã kích ai cả; chỉ lựa những tác phẩm đứng đắn – phần nhiều trong loại khảo cứu – có vài chữ đáng khen để giới thiệu; khi chê thì tôi giữ công tâm và một giọng nghiêm trang.

 

Tôi đã điểm một số sách có giá trị như Việt ngữ chánh tả của Lê Ngọc Trụ (năm 1960), Le parler Vietnamien của Lê Văn Lý (1959), Đường thi trích dịch của Bùi Khánh Đản và Đỗ Bằng Đoàn (1959), Việt Nam ca trù biên khảo của Đỗ Bằng Đoàn (1962), Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức; vài cuốn Địa phương chí như Nước non Bình Định, Xứ Trầm Hương của Quách Tấn… một hai tiểu thuyết và truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc, Đỗ Tiến Đức…

 

- Cuối năm, tôi thường viết bài tổng kết về tình hình xuất bản trong năm, có khi đăng trên Bách Khoa, có khi đăng trên tờ Tin sách.

 

Năm 1961, tôi viết một loạt bài đăng trên bốn số Bách Khoa liên tiếp để so sánh hai ngành xuất bản Pháp và Việt Nam, vạch rõ những nhược điểm chung của hai ngành đó. Tôi nhận thấy rằng hễ theo một chế độ (hoặc tư bản hoặc cộng sản) thì dù cách xa nhau, không chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhau, sự sáng tác, sự xuất bản, sự phát hành… cũng có những nét giống nhau.

 

- Tôi góp ý kiến về việc xây dựng văn hóa, trên Bách Khoa: Thống nhất nhan đề các văn thơ cổ (1962), Nhà cầm quyền và dư luận (1966), Vấn đề kiểm duyệt (1969), Vấn đề dịch văn, dịch thơ, Phong trào về nguồn (1972).

 

- Tôi rất chú ý tới chính sách giáo dục trong nước, viết nhiều bài đả kích Bộ Giáo dục. Bài nào lí luận cũng vững vàng, đưa ra những chứng cứ minh bạch và một vài đề nghị xây dựng; giọng tuy nghiêm nhưng bình tĩnh, được độc giả trong giáo giới, nhất là phụ huynh học sinh khen là ý kiến xác đáng, có nhiệt tâm. Tôi nghe nói nhiều nhân viên trong Bộ Giáo dục bảo nhau: “Đừng động tới ông Lê, ông ấy sẽ đập cho mà không sao cãi được”. Họ hiểu lầm tôi: tôi chỉ trích một chính sách, chứ không chỉ trích cá nhân.

 

Có hai loạt bài quan trọng nhất:

 

Cải tổ nền Giáo dục Việt Nam (đăng liên tiếp trên năm số Bách Khoa năm 1962) mà sau ngày giải phóng, một số nhà giáo ở Hà Nội khen là đề nghị hợp lí.

 

Nguy cơ xuất não (đăng trên ba số Bách Khoa năm 1972) bàn về biện pháp để khuyến khích các sinh viên du học ngoại quốc về giúp nước, khỏi thiệt cho quốc gia một số nhân tài.

 

Loạt bài này cũng được độc giả hoan nghênh, nhưng chính quyền lúc ấy không cho đó là vấn đề quan trọng, không muốn mà cũng không có khả năng thu dụng hạng thanh niên đó.

 

Ngoài hai loạt bài trên tôi còn viết cả chục bài khác như Góp ý với Bộ Giáo dục (1964), Chính sách bỏ thi (1966), Một nền giáo dục phục vụ (1967), Một cách mạng trong giáo dục Pháp (1966), Cái chết của giáo sư Trần Vinh Anh (1967), Lại sắp đến mùa thi (1964), Cần nâng cao tri thức của đại chúng

 

Nhất là loạt bài đăng trên Bách Khoa (1961), Tin Văn (1966) đả kích kịch liệt Bộ Giáo dục và Viện Đại học Sài Gòn không chịu dùng Việt ngữ làm chuyển ngữ ở Đại học. Những bài đó viết vào hồi tựu trường liên tiếp trong mấy năm làm cho một số giáo sư Đại học ghét tôi nhưng không thể trả lời tôi được, vì lí luận của tôi vững; trái lại sinh viên rất thích và một số doạ sẽ gom các bài đó lại chung với các bài của các nhà khác cùng chủ trương in thành một tập riêng để phổ biến. Sau này (trong số Bách Khoa 426 ngày 20.4.75) bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nhắc lại vụ đó, viết: “Còn nhớ bọn sinh viên chúng tôi vận động chuyển ngữ Việt tại trường Y Khoa, ông (Nguyễn Hiến Lê) đã hỗ trợ bằng những bài báo nẩy lửa. Lúc đó giọng ông không còn cái giọng nghiêm túc, hiền lành, bình đạm thường ngày nữa mà sôi nổi, gay gắt, phẩn nộ, đầy kích động; giá có ai giật giấy bút của ông đi, tôi chắc ông sẽ lấy dao “viết lên đá” như ai đó đã nói”[11]. Đúng vậy, trong đời viết văn, chưa bao giờ ngọn bút của tôi sắc bén như vậy.

 

Từ 1963 tôi viết nhiều bài đả đảo chính sách của bọn thực dân cả Đông lẫn Tây ở bán đảo Ả Rập, và đề cao tinh thần đấu tranh của các nước Hồi giáo trên bán đảo đó. Sau tôi dùng các bài đó cho vào hai cuốn Bài học Isrël xuất bản năm 1968 và Bán đảo Ả Rập xuất bản năm 1969.

 

Từ năm 1973, tôi quan tâm tới những nguy cơ chung của nhân loại, viết những bài Nhân số và nạn đó (1973), Năm 2000 (1974), Minamata: nước biển nhiễm độc (1974) và loạt bài Báo cáo số 1 và số 2 của nhóm La Mã, đăng trên bốn số Bách Khoa liên tiếp 421-24 năm 1975; không kể một số bài nữa không đăng báo mà tôi gom lại trong cuốn Những vấn đề của thời đại (Mặt Đất -1974).

 

Sau cùng phải kể thêm một số bài thuộc loại hồi kí và tuỳ bút đăng trên Bách Khoa, và trên số Kỉ niệm Nhất Chi Mai của Hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (1971), sau được nhà Lá Bối xuất bản trong loại Bông hồng cài áo. Cũng do viết báo mà tôi mới nảy ra ý viết những tiểu phẩm.

 

Vì tôi công tác đều đều với Bách Khoa, từ đầu đến cuối, lại viết nhiều về nhiều vấn đề, nên độc giả có người cho tôi là cây viết cốt cán của tạp chí, tưởng tôi là một nhân viên quan trọng trong toà soạn nên có bài muốn gởi đăng thì gởi cho tôi nhờ tôi giới thiệu với ông chủ nhiệm Lê Ngộ Châu. Tôi đọc rất kỉ bài họ viết rồi cũng đưa ý kiến với ông Châu, nhưng cũng cho họ biết sự quyết định đăng hay không ở cả ông Châu. Ông Châu làm việc rất siêng, đọc hết mọi bài nhận được, đăng hay không ông đều báo cho tác giả biết. Ông nhận rằng ông đã bỏ lầm một số bài rất khá. Tôi mến ông vì ông có tinh thần trách nhiệm, làm việc đàng hoàng, biết cương quyết giữ vững chủ trương cả khi báo suy, biết xét người, xét văn và có tình với người cộng tác: ai gặp nạn gì thì ông lại nhà thăm, tìm mọi cách giúp đỡ.

 

MAI

 

Đầu năm 1960, ông Hoàng Minh Tuynh cho ra một bán nguyệt san khác, lấy tên là Mai mà ông làm chủ nhiệm. Tờ này chắc do một nhóm công giáo bỏ vốn – ông Tuynh theo công giáo – chủ trương đại khái cũng giống tờ Bách Khoa, nhưng thiên về công giáo.

 

Cây viết, một nửa là của Bách Khoa, một nửa là của công giáo. Báo chỉ bán được ngàn số trở lại, ra được hai năm rưỡi, 41 số, thì đình bản.

 

Ông Tuynh nhờ tôi viết giúp, thành thử trong những năm 1960-62, tôi viết cho cả hai tờ và trong 41 số Mai thì 24 số có bài của tôi.

 

Đa số bài của tôi bàn về giáo dục, đưa ý kiến:

 

- Về vấn đề cải tổ chế độ tư thục (thời đó hầu hết các tư thục thành những nơi buôn chữ, chủ trương chỉ lo làm giàu, giáo sư chỉ lo “câu” học sinh, dạy 40 giờ một tuần hoặc hơn, học sinh hư hỏng, không có chút kỉ luật gì cả).

 

- Về tình trạng các kì thi Trung học đệ nhất cấp (đăng trên 5 số - 1961).

 

- Về vấn đề chuyển ngữ ở Đại học.

 

- Về vấn đề thanh niên hư hỏng (2 số năm 1961; 2 số năm 1962).

 

Ngoài ra còn ít bài, về giáo dục sinh lí, giáo dục thiếu nhi thông minh, về hôn nhân, về phụ nữ, và 1 bài điểm sách: Nàng ái cơ trong chậu úp của Mộng Tuyết và Sài Gòn năm xưa của Vương Hồng Sển.

 

TIN VĂN

 

Năm 1965, ông Nguyễn Ngọc Lương, một nhân viên của Bộ Thông Tin cho ra tờ tuần báo Tin Văn, trước sau được ba bốn chục số trong hai năm rưỡi.

 

Hồi đó tôi không biết ông Lương là cán bộ Cộng sản nằm vùng; ông nhờ tôi viết giúp, tôi đọc mấy tờ đầu thấy tờ báo đứng đắn, có chủ trương tiến bộ, thiên tả nhưng vừa phải, kín đáo, nên tôi nhận lời.

 

Trên tờ này, tôi viết ít (chỉ khoảng mười số có bài của tôi), nhưng bài nào cũng viết kĩ, và hầu hết bàn về vấn đề văn hóa, văn chương.

 

Những bài Văn chương và dân tộc tính, Tiếp thu văn hóa Tây phương, Phát huy văn hóa truyền thống… sau được gom với bài Bút pháp và cá tính (mà tôi đã nói ở chương trên) để cho vào cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hóa (Tao Đàn – 1967).

 

Hai bài Bút pháp và cá tính, Văn chương và dân tộc tính được nhà văn Trần Thiện Đạo (ở Pháp) khen là tiếng nói của lương thức, của một học giả có thẩm quyền (Tân Văn số 7 tháng 11-1968, và số 8 tháng 12-68).

 

Nhưng bài độc giả thích nhất, cho là có giọng bút chiến sắc bén là Đả phá dễ hay xây dựng dễ đăng ngày 15.9.66. Trong bài đó nhân một câu của Tổng giám đốc vô tuyến truyền hình mà kịch liệt đả kích chính sách văn hóa của chính phủ, đã không xây dựng mà chỉ phá hoại.

 

Tôi khen chính quyền thời đó cho đăng trọn bài, không bỏ một chữ. Họ còn tương đối biết trọng tự do ngôn luận, mà có thái độ nhã nhăn với những nhà văn đứng đắn, dám nói thẳng và nói đúng.

 

Bài đó có tiếng vang ngang với bài Bọn cầm bút chúng ta làm được những gì lúc này đăng trên Bách Khoa ngày 1.12.67. Giọng bài này khác hẳn: “vừa buồn vừa tủi rằng tất cả những cái tôi viết ra đều là bá láp hết, chẳng có một tác dụng gì cả, rằng tôi gần như vô dụng” trong khi toàn dân đau khổ vì nạn chiến tranh và vì chính quyền bất lực, thối nát. Lời tự trách đó làm động lòng nhiều nhà văn có tâm huyết và tôi nghe nói có vài ba người muốn trả lời tôi, nhưng sau chỉ có mỗi ông Đoàn Thêm là lên tiếng trong số Bách Khoa ngày 1.1.68, trách thái độ của tôi là vô lí, mình cầm bút chứ có phải là chính trị gia đâu, cứ làm hết nhiệm vụ của mình thì thôi, mà những điều mình viết sao lại không có tác dụng ít nhiều trong tâm hồn độc giả.

 

Trong bài đó, tôi cũng tỏ rõ thái độ của tôi đối với chính quyền: “Tôi nghĩ rằng cái thú nhất của người cầm bút là được độc lập và cái vinh dự lớn nhất của họ là giúp được chút ít gì cho quốc dân. Muốn giữ được độc lập và giúp được quốc dân thì nên ở ngoài chính quyền, đứng ở cương vị đối lập với chính quyền. Đối lập không nhất định là chỉ trích, lại càng không có nghĩa đả đảo. Đối lập là một cách kiểm soát, hợp tác hữu hiệu nhất và nghiêm chỉnh nhất. Ta không lệ thuộc vào chính quyền thì mới dám nói thẳng với chính quyền và chính quyền mới chú ý lời nói của ta. Alain và Maurois đều từ chối những chức trọng quyền cao để được là người tự do, được làm một công dân “giám thị các ông lớn”.

 

CÁC BÁO KHÁC

 

Ngoài ba tờ báo kể trên, tôi còn gởi ít bài về văn học, điển sách cho tạp chí VănTân Văn (ông Trần Phong Giao làm chủ bút), và vài ba tạp chí khác, vì họ khẩn khoản xin bài.

 

Đặc biệt nhất là tờ báo cho thanh niên Phù Đổng Thiên Vương. Chủ nhiệm là kịch sĩ Kim Cương cùng với chồng, do Vũ Hạnh dắt lại yêu cầu tôi cộng tác. Tôi đáp không có thì giờ vì chương trình làm việc của tôi còn nhiều. Họ nói mãi, nễ lời tôi hứa chỉ viết giúp cho một bài duy nhất đăng trong số đầu thôi và ít bữa sau tôi giao cho họ bài Vài lời ngỏ cùng bạn trẻ, đăng trong số 30.1.75. Báo chưa ra hay vừa mới ra thì Vũ Hạnh bị bắt giam trở lại; vì lẽ đó ba tháng sau chưa ra được rồi Sài Gòn giải phóng và báo đình bản luôn[12].

 

Về sau tôi mới biết Kim Cương là một cán bộ nằm vùng như Vũ Hạnh. Vậy là tôi vô tình hợp tác với hai tờ báo cộng sản ở thành: tờ Tin Văn và tờ Phù Đổng Thiên Vương. Đã nhận lời viết cho báo nào thì luôn luôn tôi viết kỉ và giao bài trước ngày hạn, không để họ phải nhắc.

 

Trước sau tôi chỉ bỏ độ một phần mười thì giờ viết của tôi vào các bài báo, nhưng đã để hết tâm tư vào công việc đó, coi trọng nó cũng như việc biên khảo, dịch thuật, nên được nhiều cảm tình của độc giả và bạn văn. Danh và uy tín của tôi nhờ vậy tăng lên và trong những năm 1965-1974 có vài tờ báo lại phỏng vấn tôi như tờ Khởi hành, tờ Thời Tập; và một số nhà văn tư tưởng và chủ trương hoàn toàn khác tôi cũng làm quen với tôi, tặng tôi tác phẩm, không kể nhiều nhà giáo quí tôi, nhiều sinh viên trọng tôi như thầy học.

 

Tôi đã lựa một số bài báo tôi đắc ý nhất cho vào cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hóa (1967), cuốn Mười câu chuyện văn chương (Trí Đăng -1975) và hai tập chưa in: Mười tám chuyện thời sựĐể tôi đọc lại.

 

VĂN HỌC MIỀN NAM TỪ 1954 ĐẾN 1975

 

Một phần lớn cũng nhờ viết báo mà tôi được đọc nhiều sách báo Việt – phần lớn mượn của toà soạn Bách Khoa – và biết được ít nhiều tình hình văn học miền Nam.

 

Dưới đây tôi chỉ ghi sơ vài nét, vì không có đủ tài liệu, và nếu có thì cũng không có đủ sức khoẻ, thì giờ để đọc hết rồi phân tích kĩ được.

 

TRÀO LƯU

 

Trong thời kháng Pháp, văn học ở thành (vùng bị chiếm) từ Bắc tới Nam không có gì cả. Hầu hết các nhà văn có tên tuổi thời Tiền chiến ở Bắc đều theo kháng chiến. Tôi không biết họ sáng tác được những gì, có lẽ chỉ có được một số bút kí và ít bài thơ hô hào diệt địch, nhiệt tâm tuy nhiều nhưng nghệ thuật kém thời tiền chiến.

 

Ở miền Nam trong thời kháng Pháp, Lý Văm Sâm viết được vài tiểu thuyết rồi cũng ra bưng. Nhóm đệ tứ Triều Sơn, Thế Húc, Tam Ích, Thiên Giang cũng viết ít bài phê bình có tư tưởng xã hội, sau in thành vài tập mỏng; Triều Sơn viết khá hơn cả, nhưng chết sớm. Hồ Hữu Tường năm 1945 còn ở Hà Nội cho ra được một tập mỏng về Văn hóa Việt Nam. Khi vào Nam ông cho ra tờ Phương Đông chủ trương trung lập và một vài cuốn trào phúng Trung Cộng, Nga.

 

Một số nhà văn có tâm huyết muốn nâng cao tinh thần dân chúng, chép lại các cuộc vận động chống Pháp thời trước như Nam bộ kháng chiến, Đề Thám, Bãi Sậy, Phan Bội Châu, Phan Đình Phúng, Phan Chu Trinh… Hầu hết các báo hằng ngày đều có cảm tình với Cách mạng.

 

Vào khoảng 1950, nhà P. Văn Tươi cho ra loại sách “Học làm người” mục đích là luyện tinh thần mới, tin ở sự tiến bộ của thanh niên để chuẩn bị việc kiến thiết quốc gia sau khi chiến tranh chấm dứt. Loại sách đó trước thế chiến cũng đã có người viết như Hoàng Đạo, Lê Văn Siêu…

 

Sau Hiệp định Genève, một số nhà văn ở Bắc di cư vào Nam, ra báo, mở nhà xuất bản, được chính quyền trợ cấp hoặc giúp phương tiện, nhờ vậy văn nghệ miền Nam khởi sắc. Nguyễn Mạnh Côn, Mai Thảo, Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền… có một số tác phẩm khá.

 

Hồi đó ai cũng ham biết văn minh Mĩ, người ta đua nhau học tiếng Mĩ và vài nhà xuất bản được Mĩ trợ cấp, dịch vội vàng sách sách văn học, chính trị Mĩ, nhất là tiểu thuyết Mĩ. Không dịch phẩm nào có giá trị, và chỉ được ít năm, phong trào đó chìm lần.

 

Vào khoảng 1960, dân chúng bắt đầu ghét chính sách Ngô Đình Diệm, ghét lây cả Mĩ, nên những tác phẩm chống cộng và tuyên truyền cho văn hóa Mĩ bị tẩy chay; không ai bảo ai mà những sách báo của các cơ quan văn hóa Mĩ, Diệm, dù in rất đẹp, bán rất rẻ cũng không ai mua.

 

Người ta trở lại thích sách báo Pháp và báo chí đua nhau giới thiệu phong trào hiện sinh cùng phong trào tiểu thuyết mới cũng gọi là phản tiểu thuyết (anti-roman) của Pháp.

 

Những tác phẩm của Sarte, Camus, Kafka được thanh niên hoan nghênh, nhưng hình như không có tiểu thuyết nào của Alain Robbe Grillet, Michel Butor được dịch cả, loại tiểu thuyết này mới thì mới thật, nhưng không hấp dẫn vì không có truyện. Vả lại chính phong trào tiểu thuyết mới cũng chỉ ồn ào được ít năm, khi nó qua nước mình thì ở Pháp không còn ai nhắc tới. Các tiểu thuyết gia của mình nói tới họ thì nhiều, thích họ thì chắc không và tuyệt nhiên không có nhà nào theo kĩ thuật của họ.

 

Sau năm sáu năm hăng say tìm hiểu cái mới của phương Tây, chúng ta thấy văn minh của họ lợi cho ta thì ít mà hại thì nhiều: thanh niên thành thị truỵ lạc vì loại phim cao bồi, nhạc jazz và tạp chí Playboy, mất lí tưởng, chỉ nghĩ tới hưởng lạc, mà non sông thì bị tàn phá vì bị tranh chấp giữa bọn thực dân Đông, Tây; dân tình thì lầm than điêu đứng; chỉ có bọn làm giàu trên xương máu đồng bào là sống phè phỡn, rất chướng mắt. Do đó lần lần nổi lên phong trào về nguồn, ôn lại triết lí, nhân sinh quan của cổ nhân, một nhân sinh quan bao dung, nhân ái, chứ không phải thứ nhân sinh quan “cạnh tranh, chém nhau để sinh tồn” của phương Tây.

 

Loại sách khảo cổ bồng bột phát triển. Hầu hết là những bản dịch sách Hán của tiền nhân: Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Phủ biên tạp lục của Lê Quí Đôn, Việt sử tiêu án của Ngô Thời Sĩ, Hoàng Lê nhất thống chí, Công dư tiệp kí, Đại Nam nhất thống chí (trên chục cuốn) v.v…

 

Loại sách đó khó bán, nên cơ quan văn hóa chính phủđảm nhiệm, tư nhân chỉ có vài ba nhà khảo về Nhà Nguyễn trong Nam, Tây Sơn, Ca trù đời Lê, Nguyễn… Một số khá đông nhà văn gần như cùng một lúc soạn các địa phương chí từ Bến Hải tới Bạc Liêu: Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Biên Hoà, Vĩnh Long, Châu Đốc, Cao Lãnh, Cần Thơ, Bạc Liêu… (coi Một hiện tượng mới trong Mấy vấn đề xây dựng văn hóa của tôi)

 

Một số học giả, văn nhân, nghệ sĩ hô hào chống chiến tranh, không theo Mĩ, không theo Nga, không nhờ cậy ai, tìm lối sống riêng của mình, sống thiếu thốn cũng được miễn là hoà thuận, đoàn kết với nhau, tương đối bình đẳng, không ai giàu quá, không ai nghèo quá.

 

Từ 1965 đến 1975, hễ gặp cơ hội là tôi nêu chủ trương đó ra, như trong cuốn Một niềm tin (1965), trong bài tựa cuốn Bài học Israël, trong bài báo Vài suy tư về phong trào về nguồn (Bách Khoa -1972), và trong đoạn kết loạt bài Báo cáo số1 và số 2 của nhóm La Mã (Bách Khoa – 1975). Nhưng cho tới bây giờ dân tộc nhược tiểu vẫn mắc vào sự tranh chấp của hai khối, thoát được khối này lại nhập vào khối khác. Nhân loại sẽ còn chịu rất nhiều xáo trộn, chưa biết bao giờ mới ổn định được, và những dân tộc nhược tiểu chưa thể sống theo ý mình được!

 

KHÔNG CÓ NHÓM NÀO NỔI BẬT

 

Trong hai chục năm sau Hiệp định Genève, văn học miền Nam phát triển khá mạnh. Về lượng chúng ta bỏ các thời trước, về phẩm không phải là kém, nhưng có điểm đặc biệt này là không có một nhóm nào có đủ uy tín, gây ảnh hưởng khá lớn trong dân chúng như nhóm Nam Phong những năm hai mươi (1920-29) và nhóm Tự lực những năm ba mươi (1932-1939).

 

Tại thiếu người có tài vượt hẳn số đông chăng? Hay tại tình hình xã hội không có gì kích thích hạng người có tài? Từ năm 1921 đến đầu thế chiến thứ nhì, xã hội Việt Nam chuyển từ xã hội nông nghiệp qua chế độ tư bản, và văn nghệ làm chất xúc tác cho những chuyển biến đó; còn từ Thế chiến tới 1975, xã hội miền Nam chỉ lẩn quẩn trong chế độ tư bản, chưa tới giai đoạn kĩ thuật phát triển mạnh, vì thế mà văn nghệ không thay đổi được mạnh chăng? Tại miền Bắc, tuy biến chuyển mạnh nhưng cũng không có nhóm nào đủ uy tín để lãnh đạo. Mà ở Nga, Trung Quốc thì cũng vậy, vì ở các xã hội đó, một cá nhân hay một nhóm không sao vượt hẳn lên được.

 

Trong bài Kỉ nguyên tiêu thụ và nghề viết văn (Bách Khoa đầu năm 1973), tôi viết:

 

“Một anh bạn tôi viết tiểu thuyết, mới đây phàn nàn rằng thời này tiểu thuyết gia nào may mắn lắm cũng chỉ nổi danh được trong dăm năm rồi thì chìm, không ai được như Nhất Linh hoặc Khái Hưng giữ tiếng tăm và địa vị được tới khi chết, mà kĩ thuật của họ đâu phải kém Nhất Linh và Khái Hưng.

 

Tôi đáp:

 

- Anh nhận xét đúng lắm. Nhưng thời nay tiểu thuyết để độc giả tiêu thụ, nghĩa là để bán, chứ đâu phải để cầu danh, lưu danh. Ở Pháp từ năm 1893, anh em Gouncourt cũng đã phàn nàn: “Này nay phải sản xuất một kiệt tác mỗi năm thì người ta mới khỏi quên mình”.

 

Theo Soljenitsyne trong cuốn Khu ung thư, ở Nga cũng có hiện tượng như vậy. Số nhà văn ngày nay đông quá, có người vừa mở xong một con đường tưởng là mới, đã có người mở con đường khác rồi. Văn đàn đông nghẹt không sao đủ chỗ đứng cho mọi người. Cho nên người nào mới chen chân được một chỗ đứng thì người sau lại lấn mất. Có phải như vậy mà ngày nay khắp thế giới không thể có được một nhà văn hay một nhóm làm lãnh đạo được? Mà nước ta cũng ở trong tình trạng đó.

 

VỀ TIỂU THUYẾT

 

Mấy năm đầu sau Hiệp định Genève, có một nhóm nhà văn trẻ, nhóm Sáng Tạo do Mai Thảo khởi xướng, muốn phát động một phong trào mới thay thế phong trào Tự lực Văn đoàn, nhưng chỉ được một số ít hưởng ứng, rồi sau ít năm, chìm luôn; vì họ lớn tiếng hô hào chứ không có ý gì mới. Trong nhóm đó chỉ có Mai Thảo là rán tự tạo ra một bút pháp riêng, như trên tôi đã nói, nhưng bị nhiều người chê là cầu kì; Doãn Quốc Sĩ viết tự nhiên hơn, có tâm tư nhiệt huyết; Thanh Tâm Tuyền viết được một vài tập mỏng diễn tả tâm trạng của thanh niên; Nguyễn Mạnh Côn có vài cuốn chống cộng, về sau khá nổi tiếng về tiểu thuyết kì dị xây dựng trên thuyết tương đối của Einstein.

 

Nổi tiếng nhất là Võ Phiến, một cây bút độc lập ai cũng nhận là có tài phân tích tâm lí, “chẻ sợi tóc là tư”, và tài tả cảnh vật. Những tạp bút của ông được nhiều người thích hơn, Đông Hồ khen là nhất miền Nam. Về loại đó, ông sâu sắc như Nguyễn Tuân mà tự nhiên hơn, dí dỏm hơn, đề tài phong phú hơn, đa dạng hơn, nhưng ông cũng có cái tật hay gợi đến vấn đề sinh lí.

 

Vũ Hạnh, ngược lại đề cao kháng chiến, có vài truyện linh động, mạnh mẽ.

 

Truyện Dương Nghiễm Mậu có màu đen tối, cũng sâu sắc; Lê Tất Điều vui mà hời hợt.

 

Nhật Tiến chuyên viết về những trẻ cô độc, những kẻ nghèo khổ, có bút pháp của nhóm Tự lực, viết dễ dàng và nhiều, mở nhà xuất bản Huyền Trân, cùng với vợ ra tờ Thiếu nhi. Có lí tưởng, thương người nghèo khổ, giọng cảm động.

 

Khoảng 1970, xuất hiện vài tiểu thuyết gia trẻ có tương lai: Hoàng Ngọc Tuấn, Kinh Dương Vương, Nguyễn Mộng Giác (có tài xây dựng truyện, kể chuyện hấp dẫn).

 

Hầu hết những nhà kể trên đều tả xã hội thành thị và đời sống, tâm trạng thanh niên ở thành hoặc ở ngày mặt trận.

 

Tả về đời sống nông thôn có Sơn Nam và Lê Xuyên. Sơn Nam không nổi tiếng về tiểu thuyết mà về kí sự. Tiểu thuyết Lê Xuyên dùng nhiều đối thoại và ngôn ngữ của nông dân tới nhàm, lại có tính cách khiêu dâm mà không có tình thương nông dân, không có giá trị gì cả.

 

Những tiểu thuyết gia lớp trước như Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Văn Xuân, Phan Du vẫn giữ được phong độ. Võ Hồng sáng tác khá mạnh, tâm hồn và bút pháp khả ái.

 

Điểm đáng kể nhất là phái nữ xuất hiện nhiều cây bút có tài hơn hẳn phái nữ thời tiền chiến, như Tuý Hồng tả khéo, nhiều hình ảnh mới, Trùng Dương, Nguyễn Thị Hoàng có giọng trí thức, Thuỵ Vũ, Nhã Ca (làm cả thơ), Minh Quân (chuyên về truyện trẻ em).

 

- Về thơ, các nhà lớp cũ như Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Quách Tấn, Đông Hồ, Đông Xuyên vẫn sáng tác đều đều, vẫn còn độc giả. Lớp trẻ xuất hiện khá đông, mỗi năm trung bình, cả miền Nam có được trên mười thi phẩm ra mắt độc giả. Đa số các nhà đó chỉ nổi tiếng một thời như Nguyên Sa, Bùi Giáng, Trần Tuấn Kiệt, Kiên Giang, Quách Thoại, Tường Linh, Huy Lực, Tạ Tị, Tuệ Mai… Họ cảm xúc mạnh, có nhiều hình ảnh mới nhưng sáng tác không đều, không nhiều, hồn thơ mau cạn.

 

- Về biên khảo, có nhiều công trình đáng kể hơn thời trước, sâu sắc hơn: chính tả có Lê Ngọc Trụ; ngữ pháp có Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê; văn hoá Trung Hoa có Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Kim Định[13], Nguyễn Duy Cần; sử miền Nam có Vương Hồng Sển (Sài Gòn năm xưa), Phan Khoang (viết về nhà Nguyễn trong Nam), Nguyễn Phương (về Tây Sơn), Đông Hồ; điển lễ và ca trù Việt Nam có Đỗ Bằng Đoàn; phong tục Việt Nam có Nhất Thanh, Toan Ánh lượng nhiều và phẩm kém...[14]

 

- Mỗi tôn giáo có được vài cây bút nổi tiếng: Nhất Hạnh trong Phật giáo, Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung trong công giáo đều lưu tâm đến các vấn đề xã hội, có tinh thần tranh đấu, có bút pháp sáng sủa, cảm động. Viết nhiều nhất là Nhất Hạnh: sáu bảy tác phẩm, trong số đó có một tập thơ hô hào hoà bình. Ông muốn cải cách Phật giáo cho hợp thời đại, nhưng Phật giáo lo đối phó với Diệm, rồi với Thiệu, củng cố ảnh hưởng và địa vị nên chỉ có một số tín đồ trí thức chú ý tới chủ trương của ông; nhưng ông được thanh niên quí mến. Bị chính quyền nghi kị, ông phải qua Âu Mĩ vận động cho hoà bình, hiện còn ở bên đó.

 

Ông sáng lập nhà xuất bản Lá Bối, giao cho thầy Từ Mẫn (Võ Thắng Tiết) điều khiển. Có thời chính quyền không cho in những tác phẩm mang tên ông, ông phải kí tên khác.

 

Trường Thanh niên phụng sự xã hội cũng là một sáng kiến của ông.

 

TÔI CÓ CHUYÊN KHÔNG?

 

Ôn lại hai chục năm hoạt động tích cực về văn hóa từ khi thành lập nhà xuất bản tới ngày miền Nam được giải phóng, tôi thấy chỉ làm chủ được tới một phần nào thôi, còn thì do sự ngẫu nhiên chi phối.

 

Năm 1954, mới lên Sài Gòn, tôi định viết độ mươi năm, khoảng vài ba chục cuốn nữa, không ngờ viết luôn cho tới 1975, rồi tới bây giờ, và số tác phẩm viết được đã gấp ba số đự định.

 

Từ khi mới cầm bút, tôi vẫn thích viết Du kí, vẫn mong đi dọc đường Quốc lộ số 1, ghi chép những cảnh đẹp, tục lạ, cổ tích từ Nam ra Bắc, mà vì chiến tranh, tôi mới tới được Qui Nhơn rồi phải bỏ dở.

 

Hồi còn ở Đại học, tôi đã thích đời Nguyễn Công Trứ, định chép tiểu sử của ông, mộng đó cũng không thực hiện được vì thiếu tài liệu và vì sống ở Nam, không có dịp tới những nơi có di tích của ông.

 

Trái lại, có nhiều môn, nhiều đề tài tôi không tính viết mà lại viết, viết nhiều nữa.

 

Như trên tôi đã nói, do ngẫu nhiên mà tôi hợp tác với tờ Bách Khoa rồi viết về thời sự, về kinh tế, về các vấn đề thời đại, và khi đã bắt đầu viết rồi thì thấy thích.

 

Sau khi cho ra hai cuốn Để hiểu văn phạm, và Nho giáo một triết lý chính trị, tôi định bụng không bao giờ xông vào hai khu vực ít hứng thú và mệt óc đó nữa. Vậy mà do thời cuộc đưa đẩy, tôi làm quen được với hai ông Trương Văn Chình và Giản Chi Nguyễn Hữu Văn, từ Bắc di cư vô, rồi viết chung với hai ông, nhờ vậy đóng góp được ít nhiều về hai môn đó. Vì viết nhiều đề tài, nên có người trách tôi là không chuyên.

 

Nếu hiểu chuyên là suốt đời chỉ khảo về một môn, như Lê Ngọc Trụ về chính tả, Trương Văn Chình về ngữ pháp thì quả là tôi không chuyên, mà tôi cũng không thích chuyên như vậy.

 

Tôi có một mục đích rõ rệt là phục vụ trong việc mở mang kiến thức thanh niên, tôi có óc tò mò, sách nào hay tôi cũng muốn đọc, môn nào cũng muốn biết, và hễ thấy đề tài nào lí thú, có ích thì tìm hiểu rồi truyền điều tôi hiểu cho độc giả. Đó là sự nhất trí trong tất cả các trứ tác của tôi, từ sách dạy cách học cho học sinh tới các công trình khảo cứu về văn học, triết học. Sự ngẫu nhiên đưa tôi tới hướng nào, khiến tôi bước vào môn nào thì tôi theo hướng đó, viết về môn đó.

 

Nhưng có điều này ít độc giả nhận thấy. Trong mỗi môn chính, mới đầu tôi viết một hai tác phẩm dễ hoặc khái quát, rồi ít lâu sau tôi trở lại, mở rộng thêm, đào sâu hơn. Như vậy chính là do khuynh hướng tự học của tôi: biết cái cốt yếu đã rồi sau đi vào chi tiết. Và đó cũng là một sự nhất trí trong cách tôi làm việc.

 

Thí dụ như:

 

- Môn Tổ chức công việc, tôi viết về qui tắc chung trong cuốn Tổ chức công việc theo khoa học, rồi một năm sau hoặc dăm bảy năm sau tôi áp dụng vào việc trong đời, đi vào chi tiết hơn trong các cuốn: Kim chỉ nam của học sinh, Tổ chức gia đình, Tổ chức công việc làm ăn. Như vậy là vấn đề đã được nới rộng.

 

- Về Luyện văn, cuốn II và III khó hơn cuốn I, bộ Hương sắc trong vườn văn lại sâu sắc hơn bộ Luyện văn.

 

- Về Văn học Trung Quốc, sự mở rộng lần lần từng đợt còn rõ rệt hơn nữa.

 

Mới đầu là bộ Đại cương Văn học sử Trung Quốc từ thượng cổ tới cách mạnh Tân Hợi, vào khoảng 1925.

 

Sau tôi đào sâu văn học cổ Trung Quốc. Đề tài đó mênh mông, một đời người không thể làm hết được. Riêng về thơ Đường đã có nhiều người giới thiệu: Đường thi, Thi văn bình chú của Ngô Tất Tố, Đường thi của Trần Trọng Kim, Đường thi trích dịch của Bùi Khánh Đản và Đỗ Bằng Đoàn (in ronéo) và nhiều tập mỏng khác của dăm nhà khác nữa. Chưa ai viết về Tống thi cả.

 

Thơ không phải là sở trường của tôi mà cổ văn Trung Quốc chỉ được Nam Phong giới thiệu độ mươi bài, cho nên tôi nghiên cứu về cổ văn. Năm 1966, cho xuất bản bộ Cổ văn Trung Quốc, cuốn đầu tiên trong loại đó ở nước nhà; tiếp theo tôi soạn chung với ông Giản Chi hai bộ Chiến Quốc sáchSử kí của Tư Mã Thiên. Sau cùng tôi viết về Văn học Trung Quốc hiện đại, mà trong bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc tôi chỉ phát qua trong chương cuối.

 

Nên kể thêm Tô Đông Pha, một cuốn thuộc loại tiểu sử danh nhân nhưng cũng cho độc giả biết được ít nhiều về thi từ và cổ văn đời Tống, vì trong cuốn đó, ngoài Tô Đông Pha tôi giới thiệu cả cha và em của Tô (Tô Tuân, Tô Triệt), Âu Dương Tu, Vương An Thạch…

 

Nếu kể cả bản dịch Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa nguyên văn của Lâm Ngữ Đường, thì về văn học Trung Quốc tôi đã góp được khoảng 3.500 trang, bảy nhan đề.

 

- Về Triết học Trung Quốc cũng vậy, mỗi ngày tôi đào sâu thêm. Mới đầu là Nho giáo một triết lí chính trị, một cuốn tổng quát về tư tưởng chính trị của Khổng, Mạnh; rồi tới Đại cương triết học Trung Quốc, một bộ cũng tổng quát về triết học Trung Hoa từ thượng cổ tới cuối Thanh.

 

Sau tôi chuyên về triết học thời Tiên Tần, khảo cứu đời sống và tư tưởng từng triết gia một. Đầu năm 1975, tôi đã cho ra được Nhà giáo họ Khổng, Mạnh Tử, Liệt Tử và Dương Tử, đã viết xong mà chưa in Trang Tử, khởi sự viết chung với Giản Chi về Tuân TửHàn Phi thì miền Nam được giải phóng. 

 

Từ năm 1976 tới nay, tôi đã viết xong Lão Tử, Mặc học, Khổng Tử[15], Luận ngữ, Kinh Dịch[16], như đã nói.

 

Nếu chỉ kể các tác phẩm đã in thì tới đầu 1975, về triết học Trung Hoa tôi đã góp được khoảng 2.100 trang; nếu kể thêm những tập tôi đã viết xong mà chưa in nữa thì tới nay, tổng cộng được 2.100 đã in với 2.900 trang chưa in, là 5.000 trang. 

 

Vậy Cổ học Trung Hoa tôi đã góp được về văn học 3.500 trang, về triết học khoảng 5.000 trang. Nếu chỉ kể những tác phẩm đã in thì cũng được 5.600 trang: 3.500 văn, 2.100 triết. Rõ ràng là tôi chuyên về môn đó. Nhà văn Võ Phiến, trong bài Nhân đọc bản thảo cuốn Nguyễn Hiến Lê của Châu Hải Kỳ[17] (Bách Khoa số 426 ngày 20.4.75) bảo: “Từ trước tới nay chưa có học giả nào, cựu học và tân học, mà có công giới thiệu Cổ học Trung Hoa bằng ông Nguyễn Hiến Lê”.

 

Tóm lại, hồi mới cầm bút, tôi chỉ có mục đích viết về trí, đức dục thanh niên; sau lần lần, vì sở thích, tôi hướng về cổ học Trung Hoa, mỗi ngày một đào sâu hơn. Tôi cho đó là sự diễn tiến tự nhiên trong việc tự học.

 

Trong trên ba chục năm trứ tác (kể tới năm nay), tính ra tôi đã bỏ hơn mười năm (khoảng 1/3 thời giờ) vào hai chục tác phẩm Cổ học (7 văn học, 13 triết học).

 

Số hai chục tác phẩm, khoảng 8.500 trang sách đó không phải là ít, nhưng chỉ vì mới ra mắt độc giả được hai phần ba, nhất là vì loại đó kén độc giả, in ít, phổ biến hẹp, chìm trong số trên tám chục tác phẩm đủ loại cho thanh niên phổ biến rộng trong mọi giới, cho nên mới có độc giả trách tôi là không chuyên[18].

 

Nếu tôi chỉ chuyên về Cổ học Trung Hoa thôi thì chỉ nội số tác phẩm của tôi đã xuất bản trong loại đó cũng đủ để cho mọi người cho tôi là chuyên rồi; nhưng thiếu phần tôi viết cho thanh niên thì ảnh hưởng của tôi trong xã hội không được bao, mà chưa chắc tôi đã in được những tác phẩm về cổ học: Nhà nào chịu chuyên xuất bản loại đó? Mà tôi muốn tự in lấy thì tiền đâu? Bộ Đại cương triết học Trung Quốc[19] chẳng hạn tôi phải hùn vốn với nhà Cảo Thơm; còn bộ Văn học Trung Quốc hiện đại, tôi phải xuất vốn in lấy 2.000 bộ mà năm năm sau, ngày Sài Gòn được giải phóng, chỉ mới bán được trên ngàn bộ vừa đủ vốn.


[1] Ta nên hiểu gồm cả những sách viết hoặc dịch chung với một người khác. (Goldfish).

 

[2] Đoạn: “hàng ngày bái vĩ nhân như Emerson còn là một thứ thuốc nó tẩy sạch cái bệnh tự tôn ở mắt ta đi…”, trong Để tôi đọc lại in là: “Lòng sùng bài vĩ nhân (như Emerson nói) còn là “một thứ thuốc nó tẩy sạch các bệnh tự tôn trong mắt ta đi...”

[3] Tiểu sử ông bà La Fayette in trong cuốn Ý chí sắt đá (Thanh Tân - 1971); tiểu sử ông bà Curie in trong cuốn Gương hi sinh (NHL – 1962).

[4] Năm 1990 in chung với Nguyễn Q. Thắng có tựa là Chúng tôi tập viết tiếng Việt (Nxb Long An – 1990. BT).

[5] Khổng Tử: Nxb Văn hoá in năm 1991. Kinh Dịch: Nxb in năm 1992. (B.T).

[6] Coi mục lục 100 cuốn của tôi đã xuất bản ở cuối cuốn Mười câu chuyện văn chương, Trí Đăng 1975.

[7] Đây tôi chỉ kể những cuốn viết tới ngày giải phóng. Từ 1975 đến 1980 tôi còn viết thêm được nhiều cuốn nữa.

[8] Nay là đường Nguyễn Đình Chiểu (BT).

[9] Về tiểu sử Phạm Ngọc Thảo, xem tiểu sử trong Từ điển danh nhân lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1992. (BT).

[10] Trong ĐVVCT in là: “và hiện nay các số báo Bách Khoa cũ càng ngày càng có giá: một bộ cũ, rách, từ đầu đến cuối, thiếu độ mười số, bán được 800đ (400.000đ cũ)”. (Goldfish)

 

[11] Trong ĐVVCT chép: “...ông sẽ lấy dao “viết lên đá” như Trần Dần đã nói”. (Goldfish).

[12] ĐVVCT ghi: “…ba tháng sau chưa ra được số nhì; rồi Sài Gòn giải phóng, và báo đình bản luôn”. (Goldfish).

[13] Tôi sẽ giới thiệu riêng trong cuối phần sau.

[14] Coi thêm những trang sau.

[15] Khổng Tử: Nxb Văn hoá in năm 1991 (BT).

[16] Kinh Dịch đạo của người quân tử: Nxb Văn học in năm 1992 (BT).

[17] Tức cuốn Nguyễn Hiến Lê – Cuộc đời và tác phẩm của Châu Hải Kỳ (Goldfish).

[18] Trái lại, đa số độc giả cho rằng tôi chuyên về loại sách Học làm người. Năm 1979, vào một tiệm hớt tóc ở đường Trương Tấn Bửu cũ, thì cả bốn người trong tiệm (hai người thợ và hai người khách mà một là cán bộ ở Bắc mới vô) đều hỏi tôi còn viết loại sách Học làm người nữa không. Ngay bây giờ - 1982 – cũng vậy, vào cơ quan nào hễ có người biết tôi thì cũng hỏi câu đó.

[19] Đại cương triết học Trung Quốc, 1500 trang khổ 14.5 x 20.5 cm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh tái bản năm 1992 (BT).