Ông nội tôi không phải là nhà cách mạng, chỉ giữ khí tiết của một nhà nho bất hợp tác. Như tôi đã nói, cụ bỏ thi cử sau khi đậu Tú tài, cũng không muốn ra làm quan; cụ lại chán cả việc khuyến khích các con thi cử, chắc trong thâm tâm cụ nghĩ rằng dù có đỗ ông cử ông nghè thì cũng chỉ thêm cái hư danh, chẳng giúp được gì cho nước. Cụ để các con tự do lựa con đường đi, miễn là không làm gì nhục cho tổ tiên. Bác Cả tôi không muốn lập gia đình để hi sinh cho tổ quốc, cụ không cản; bác Hai tôi muốn dạy học, bác Ba tôi muốn kinh doanh về thương nghiệp, tuỳ ý.
Cha tôi là con út. Hồi bà nội tôi còn, chắc cụ cũng dạy vỡ lòng cho cha tôi, rồi sau cha tôi học với các anh, vì lúc đó ông nội tôi đã già. Cha tôi ham chơi mà trong nhà không ai ép học, nên sức học chưa đủ để thi hương thì đã bỏ, học chữ Quốc ngữ. So với các anh trong nhà, sức học cha tôi tầm thường nhất, nhưng so với người trong làng, trong họ, cả với họ bên vợ nữa, thì người vào hạng giỏi. Vì vậy ông nội tôi cũng không buồn. Trước khi mất, cụ cưới vợ cho cha tôi.
Thân mẫu tôi tên là Sâm, con dòng thứ cụ phủ Nguyễn Khắc Chước làng Hạ Đình (Hà Đông). Nghe các bác tôi kể lại thì cụ đỗ cử nhân, văn thơ hay, nét chữ tươi, có tài hoa. Mẹ tôi mồ côi cha từ nhỏ, bà ngoại tôi không ưa thói khinh bạc của một người con chồng lúc đó làm tri huyện, khảng khái dắt con về ở với em ruột, làm lược để nuôi con. Mẹ tôi tập buôn bán và khi người có chồng thì bà ngoại tôi theo con về ở với rể, tại số 4 ngõ Phất Lộc, trong mấy phòng ở bên phải và sau lưng nhà thờ. Nhà số 2 để cho các bác Cả và bác Ba tôi; sau khi bác Cả lẻn sang Trung Hoa, bác Ba lẻn vào Nam, thì nhà đó cha tôi cho thuê.
Cuộc đời vất vả và tận tụy của bà ngoại và mẹ tôi, tôi đã chép trong tập Cháu bà nội, tội bà ngoại (nhà xuất bản Lá Bối). Tôi chỉ trích lại dưới dây một đoạn ngắn để con cháu nhớ công của bên ngoại:
“Bà đã thay má tôi, nuôi nấng, săn sóc chúng tôi, lại thay cả ba tôi trong sự dạy dỗ chúng tôi nữa. Ngày nay, anh em tôi, con cháu tôi, có ai giữ được một chút cái tính khí khái của bà, không chịu lụy ai, cái đức cần cù, tiết kiệm, cố chiến đấu để vượt khỏi cảnh nghèo, cái nếp sống đạm bạc, cái tinh thần thanh khiết của nhà Nho, phần lớn là nhờ bà”.
°
Cha tôi thấp người, không gầy, không béo, nước da trắng trẻo, trán cao, chỉ có tai là xấu nhất, như cái vẩy ốc, theo sách tướng thì không thọ. Từ vẻ mặt đến cử chỉ, y phục đều nghiêm trang, nhã nhặn. Đi ra ngoài thì chiếc khăn xếp bao giờ cũng ngay ngắn, áo dài đen bằng the ở ngoài, áo dài trắng ở trong, quần là (ủi) sạch sẽ, giày Gia Định đánh bóng. Ít nói mà có lễ độ, nên được mọi người nể.
Mẹ tôi khác hẳn, dong dỏng cao, nước da tối, mặt lại rỗ hoa, trán thấp như bà ngoại tôi - tướng đó vất vả - nhưng tai có thùy châu, mũi cao và nụ cười tươi. Tôi giống cha ở trán, giống mẹ ở nước da, mũi, tai, nụ cười và bề cao. Mẹ tôi ăn mặc rất giản dị: quần áo, khăn đều bằng vải thâm hay nâu, đi đôi dép quai bằng da, nhiều khi đi chân không. Tính tình rất ngay thẳng, khảng khái, không chịu nhờ cậy ai, rất cần cù - quanh năm buôn bán từ tinh sương, tối mịt mới về, nhưng có tính dễ xúc động, tủi thân, mau nước mắt, đôi khi nóng nảy. Khéo cư xử với họ hàng, biết tính toán nên cũng được nhiều người nể.
Ở trong nhà thì có hiếu với mẹ và biết chiều chồng. Mẹ tôi chỉ lo buôn bán thôi, công việc bếp nước về phần bà ngoại tôi, công việc dạy con về phần cha tôi. Hầu hết sự chỉ tiêu trong nhà do người đảm đương cả; số tiền cho thuê nhà số 2 (năm 1925 được khoảng 5, 6 đồng một tháng[1] cha tôi giữ để tiêu riêng, làm giỗ tết, đóng thuế.
Nhờ vậy mà cha tôi sống khá ung dung: dạy chữ Nho và Quốc ngữ cho anh em chúng tôi và vài đứa cháu bên nhà vợ, hoặc con bạn bè; còn thì chơi hoa, lâu lâu đánh một vài ván tổ tôm, tài bàn; thỉnh thoảng đi coi hát chèo ở rạp Quảng Lạc, đi thăm bà con, bạn bè.
Tuy có tinh thần nghệ sĩ - một chút thôi - người sống rất có ngăn nắp, điều độ, không bao giờ say rượu, không bao giờ về quá khuya, và khi mất, còn để lại cho mẹ tôi ba chục đồng bạc trắng mà người cất kĩ trong tủ không cho vợ hay. Tôi còn nhỏ tối hôm đó, chôn cất cha tôi xong rồi, trước khi về Phương Khê, bác Hai tôi gọi mẹ tôi và tôi vào phòng trong cùng, mở một cái tủ xem có giấy má gì không, và tìm được một gói bạc, đếm từng đồng rồi đưa cho mẹ tôi. Nhờ có số tiền đó mà mẹ tôi trả hết được công nợ để làm ma chay.
Cái vui nhất của người có lẽ là chơi hoa. Năm nào, gần Tết người cũng ham mê gọt thủy tiên và săn sóc (ngắt lá) hai gốc đào trồng trong sân nhỏ sau lưng nhà thờ. Một gốc nhỏ cao độ một thước, trồng ngay dưới mái hiên trong một cái thống, là loại đào thất thốn chỉ có hoa, không có quả, hoa kép, đỏ thắm và rất nhiều, kín cả cành trong mấy ngày Tết, cánh rụng xuống mặt sân, đẹp vô cùng. Một gốc nữa lớn hơn trồng trong một cái bệ, sát sau bức tường nhà thờ, là loại đào ăn quả, hoa đơn, cánh phơn phớt hồng, không nhiều, lác đác trên cành, xen với những lá non mới nhú, xanh tươi, trông cũng đẹp.
Thủy tiên thì năm nào cha tôi cũng mua một hai giò con của tiệm Hoa kiều phố hàng Buồm, đem về gọt, ba mươi Tết lựa lấy hai giò đơn đẹp nhất và nở kịp Tết để bày trong hai cái cốc thủy tinh có chân như cốc Champagne, miệng lớn bằng bàn tay xòe ra, một cốc màu hồng, một cốc không màu. Giò thủy tiên đặt trong những cốc đó thật vừa khít, mà nhìn qua thành thủy tinh thấy rõ những rễ trắng muốt của hoa. Ai tới chơi cũng trầm trồ khen và bảo không thấy nhà nào khác có thứ cốc đó.
Người Pháp cũng có thủy tiên, họ gọi là narcisse, nhưng tôi ngờ rằng thủy tiên của họ không giống của mình, và chắc chắn là họ không có nghệ thuật gọt thủy tiên như mình, không quí nó bằng mình.
Thủy tiên quí cả về sắc lẫn hương. Lá xanh, rễ trắng muốt, hoa thì như cái chén vàng đặt giữa một cái dĩa bạc, hương nó thật là thanh quí (hương huệ và sen thì thanh cao). Nó thật xứng với danh: tiên trên nước. Cụ Phan Sào
----Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh,
----Tiên trên non mà hiếm có đã đành.
----Chân thị thủy trung tiên càng hiếm hiếm.
----Muôn tía nghìn hồng thây tục phẩm,
----Năm hồ bốn biển nhớ tiền sanh.
----Nét điểm trang con tạo khéo đa tình.
----Nhụy kia vàng, hoa kia bạc, lá kia xanh,
----Trên mặt nước long lanh trôi với bóng…
Một người bạn kể cho tôi nghe ở Chapa, gần Lào Cai (Bắc Việt) có những ngọn đồi toàn đào, đầu xuân, ở xa nhìn như những mâm hồng kế tiếp nhau trên cả cây số; cánh đào hồng nhạt rụng xuống mặt cỏ xanh, bay lả tả trên dòng suối, đẹp như cảnh tiên. Đúng là cảnh Đào hoa nguyên của Đào Tiềm.
Vào
Ở Sài gòn, từ mười năm trở lại đây, gần Tết, đường Nguyễn Huệ thường bày bán ít cành đào chở bằng máy bay vào; có năm bạn bè cho chúng tôi một cành hoa đơn phơn phớt hồng, nhưng tôi không thích lắm! Loài hoa nào cũng phải hợp với thủy thổ của nó thì mới đẹp. Hoa đào mà đày vô miền nắng cháy này thì lam lũ, đáng thương như thiếu nữ đài các, mơn mởn mà phải tát nước hay nhổ mạ dưới nắng hè. Ở xứ nào chỉ nên chơi hoa xứ đó, miền Nam có mai vàng, tuy không đẹp bằng đào, nhưng rực rỡ, có vẻ phú quí, lại có ám hương thoang thoảng lúc ban mai, mà một gốc mai vàng thịnh khai nổi bật trong vườn lá xanh, coi thật hòa nhã.
Cha tôi không chính thức gia nhập Đông Kinh nghĩa thục như bác Cả, bác Ba tôi, và nhà cách mạng Đỗ Cơ Quang (hiệu là Chân Thiết - con cụ Đỗ Uẩn – và là em con cô con cậu với cha tôi) nhưng cũng giúp đỡ ít nhiều cho nghĩa thục. Trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục, chương VII, tôi có chép một chuyện vui về việc cắt tóc một cụ Đồ mà bác Ba tôi, cụ Đỗ Chân Thiết và cha tôi dự vào.
Sau khi nghĩa thục bị đóng cửa, bác Ba tôi và cụ Chân Thiết (mà trong nhà chúng tôi gọi là chú Ba Đỗ), kẻ trước người sau bỏ quê hương, người qua Tàu, người vô Nam, lính mật thám Hà Nội có lần lại nhà bắt cha tôi nhốt vào Hỏa Lò (tức Khám lớn Hà Nội) để bắt khai tung tích của ông anh. Cha tôi không khai gì cả, và một tuần sau chúng thả ra. Có thể cha tôi hồi đó không liên lạc với các anh và không biết gì nhiều. Lần đó bà ngoại tôi hằng thường đến Khám lớn để hỏi thăm tin tức về cha tôi. Việc đó tôi có chép trong tập Cháu bà nội, tội bà ngoại. Nhưng sau cha tôi cũng bắt được liên lạc với bác Ba tôi.
Vào khoảng 1919, khi một ông bạn thân tên là Khoa, làm cho một nhà in Pháp, đổi vào Sài Gòn, cha tôi làm tiệc tiễn biệt, dặn dò bạn vô
Cha tôi ít nói, mà hồi đó tôi còn nhỏ, cũng không thể nói gì với tôi được. Tôi chỉ đoán được rằng người không hoạt động chính trị nhưng giữ được nếp nhà, giữ được tư cách một nhà nho yêu nước, không hợp tác với Pháp. Một người em dị bào của mẹ tôi làm thông phán, khuyên cha tôi học chữ Pháp độ một năm rồi sẽ giới thiệu cho làm ở sở Đốc lí (tòa Thị sảnh) Hà Nội, cha tôi không chịu.
Hình như các bác tôi và cha tôi đã phân công với nhau: hai người làm cách mạng li hương, hai người ở lại, một ở Phương Khê, một ở Phất Lộc để giữ tổ nghiệp và mồ mả ông bà.
TÔI HỌC VỠ LÒNG
Tôi mồ côi cha sớm, năm đó mười tuổi ta, nhưng tuổi tây chỉ mới có tám tuổi rưỡi, vì vậy mà hồi kí về cha tôi không được nhiều.
Tôi thấy đức quí nhất của người là săn sóc sự học của con rất chu đáo. Chính người hồi nhỏ không ham học, mà khi có con thì lại không tiếc thì giờ, tiền bạc vào việc học của con.
Người dạy vỡ lòng chữ Hán cho tôi, tôi không nhớ vào hồi mấy tuổi, và cũng không nhớ được học chữ Hán trong mấy năm - tôi đoán chỉ độ một năm rưỡi thôi.[2]
Sau chữ Nho, người dạy cho tôi chữ Quốc ngữ và làm bốn phép toán. Tôi còn nhớ một lần tôi phải học lại bảng cửu chương cho thuộc làu rồi mới được đi coi hội. Tôi ham chơi như mọi trẻ vào tuổi đó nên nhiều lần bị đòn vì quên lời cha dặn. Về việc học, cha tôi rất nghiêm, rất dữ đòn, và bà ngoại tôi thường phải xin cho tôi. Hình như sau mỗi cơn thịnh nộ - mỗi năm chắc chỉ độ vài lần thôi - cha tôi ân hận. Trong tập Làm con nên nhớ (Lá Bối) tôi đã kể một lần cha tôi nọc tôi ra đánh dữ cũng chỉ vì tội ham chơi, quên học; nhưng tối hôm đó người dắt tôi lại đường Paul Bert[3] mua cho tôi một gói kẹo Tây rồi hai cha con quay về bờ hồ Hoàn Kiếm, ngồi nghỉ trong một chỗ ít ánh đèn, người đùa giỡn với tôi, giấu gói kẹo, bảo tôi kiếm, kiếm được mới cho ăn. Một lần khác, đêm hè, người thuê giờ một chiếc xe kéo, bảo xe chạy chậm chậm dọc đường Bờ Sông, về phía Cầu Đất để hóng gió.
Ngồi xe, người không nói gì cả, có vẻ trầm ngâm. Nên tôi không dám gợi chuyện. Mỗi năm ba bốn lần người dắt tôi đi xem hát chèo ở rạp Quảng Lạc. Được đi chơi với cha, tôi thích, nhưng nghe hát được một lúc, tôi buồn ngủ, nằm ngay trên ghế bên cạnh mà ngủ vì rạp rất vắng. Ngày nay thỉnh thoảng tôi cho chạy một băng nhạc Chèo cải lương của Nguyễn Đình Nghị để nghe các giọng ngâm thơ, than của đào Nhã mà nhớ lại ngày trước. Nhưng tôi phải thú thực không thích nghe hát chèo, hát tuồng và cả cải lương nữa. Tôi thích những kịch có ý nghĩa, loại này hiếm lắm. Những kịch trên tivi chỉ nghe dăm ba phút là tôi chán.
CÁCH DẠY TRẺ XƯA VÀ NAY
Đi thăm bà con bên nội bên ngoại ở phố hàng Đường, làng Thịnh Hào, hoặc thăm một vài bạn thân, cha tôi thường dắt tôi theo (em trai tôi kém tôi ba tuổi, hồi đó còn nhỏ quá), một phần để tập cho tôi có lễ phép. Mỗi lần một ông bác tôi ở Thịnh Hào, ông Hi Thanh, con cụ Đỗ Uẩn, anh ông Ba Đỗ lại chơi, cha tôi pha trà và bắt tôi đứng ở bên để “hầu trà” các cụ, nghĩa là để nghe các cụ nói chuyện với nhau. Đứng như vậy khá lâu, các cụ chẳng sai bảo mà cũng chẳng hỏi han gì cả, tôi thấy bực bội, nhưng không dám không tuân. Lớn lên tôi hiểu nhà Nho dạy trẻ như vậy là tập cho chúng cư xử với người trên, nhất là học tự chủ, rán làm những bổn phận mà mình không thích; nhưng dạy con tôi, tôi cho nó tự do hơn, không bắt nó vào khuôn phép quá khi nó dưới mười, mười hai tuổi; lớn lên vài tuổi nữa, nó đã hiểu biết rồi, tôi mới giảng cho nó rằng ở đời bất kì ai và vào tuổi nào cũng thỉnh thoảng có những việc mình không thích làm mà phải làm, và nó nghe ra, không tỏ vẻ khó chịu nữa. Mặc dầu vậy, tôi vẫn rán tránh cho nó những sự bó buộc như vậy. Tôi không biết tôi có dễ dãi quá với nó không.
Bị đòn dữ, nhưng tôi không oán cha, vì tôi cảm thấy người yêu tôi một cách kín đáo theo lối nhà Nho. Nhưng có một lần tôi thấy người nghiêm quá cái mức cần thiết. Hôm đó trưa mùng một Tết, cả nhà quây quần chung quanh mâm cơm. Tôi ngồi ngay ngắn, xếp bàn tròn, gắp một miếng măng khô kho thịt, vừa bỏ vào miệng nhai thì nhè ra liền vì chưa quen với mùi khó tả của nó. Cha tôi giận, tát cho tôi một cái. Tôi tiu nghỉu suốt ngày quan trọng nhất trong năm đó. Bà tôi, mẹ tôi đều làm thinh, không nói gì cả, nhưng chắc đều thương hại tôi.
Cha mẹ ai cũng có những lúc bất công với con - vợ chồng với nhau cũng vậy - nhưng tôi nghĩ dạy con, thà mắc lỗi về nghiêm còn hơn là mắc lỗi về khoan, như hào 3 quẻ Gia nhân trong kinh Dịch đã khuyên.
Và bây giờ tôi mừng rằng nhờ được cha nghiêm khắc mà tôi tự chủ, có nghị lực được một chút, không mang tiếng là kẻ thiếu giáo dục.
Nửa thế kỉ trước, các nhà giáo dục Âu, Mĩ đưa ra một đường lối có lẽ chịu ảnh hưởng của Léon Tolstoi: cho trẻ hoàn toàn tự do muốn làm gì thì làm, không cấm đoán, chỉ khuyên răn thôi; và ở nước mình có nhiều người cho như vậy là văn minh, tấn bộ, mạt sát thậm tệ lối dạy con của ông cha, là làm cho trẻ hoá nhút nhát, không có cá tính, không hoạt bát hoá giả dối... họ không biết rằng khi họ bắt chước phương Tây thì chính ở phương Tây người ta đã nhận thấy người ta đã lầm rồi, mà đã bắt đầu sửa lại chính sách phóng nhiệm đối với trẻ. Tôi đã xét vấn đề đó trong bài “Vấn đề đánh trẻ” in ở sau cuốn Dạy con theo lối mới (Thanh Tân - 1958), và đã dịch cuốn Ba mươi ba câu chuyện với các bà mẹ của Benjamin Spock, một tác phẩm bán rất chạy ở Âu, Mĩ, khuyên phải cương quyết với trẻ, không nên để cho chúng quá tự do. Trẻ có nhu cầu được an toàn, được cha mẹ cương quyết cho biết điều gì chúng được phép làm, điều gì không, có vậy chúng mới khỏi hoang mang, khổ sở. Mấy năm nay tôi thấy nhiều phụ huynh ở Bắc khen trẻ trong Nam ngoan, dễ thương hơn trẻ ngoài Bắc nhiều, xin các thầy giáo, cô giáo trong Nam nghiêm khắc với con họ, và nếu cần thì cứ trừng trị. Có thực là trẻ trong
BUỔI ĐẦU TIÊN HỌC TRƯỜNG YÊN PHỤ
Tôi chỉ có tội ham chơi chứ học không đến nỗi dốt lắm, vì cha tôi dạy tôi chữ Nho rồi chữ Quốc ngữ chung với vài đứa em họ tôi và con một người bạn của mẹ tôi. Chúng đều hơn tôi 2, 3 tuổi mà học kém tôi.
Học như vậy được khoảng hai năm, rồi cha tôi nhờ một thầy kí có bằng Tiểu học Pháp Việt dạy vần Tây cho tôi. Đầu năm Canh Thân (1920) cha tôi xin cho tôi được vào học lớp dự bị (cours préparatoire) trường Yên Phụ. Lúc đó vào giữa năm học, chắc tôi không được chính thức ghi tên vô sổ.
Buổi học đầu tiên của tôi nhằm ngày mùng 7 tháng giêng âm lịch. Cha tôi dậy sớm, sắp xếp bút mực, thước kẻ, sách vở vào cái cặp da nhỏ - một xa xỉ phẩm thời đó - rồi khăn áo chỉnh tề, thuê một chiếc xe kéo bánh sắt (chưa có bánh cao su) để đưa tôi tới trường ở dưới chân đê Yên Phụ, cách nhà tôi hai cây số, dắt tôi lại chào thầy Hà Ngọc Chử, gởi gắm tôi với thầy.
Ngày nay đọc lại hai trang đầu bài Tựa cuốn Thế hệ ngày mai trong đó tôi chép lại một buổi học đầu tiên của tôi và buổi học đầu tiên của con tôi ngoài hai chục năm sau vẫn còn bùi ngùi: tình cha tôi đối với tôi, và tình vợ chồng tôi đối với con tôi, sự săn sóc của chúng tôi đối với con y như nhau, hai thế hệ một tấm lòng, một tinh thần.
Tôi còn thấy rõ nét mặt của cha tôi, của thầy Chử, cảnh sân trường, cảnh lớp học, tưởng đâu như việc mới xảy ra tháng trước, thế mà đã sáu chục năm qua rồi. Bài Tựa đó đã làm cảm động nhiều độc giả, có người[4] định lựa cho vào một tập Văn tuyển.
Hôm đó cả sáng lẫn chiều, cha tôi đưa tôi tới trường, rồi đợi tan học lại đưa tôi về. Nhưng chỉ ngày hôm sau, cha tôi kiếm được một bạn học cùng lớp với tôi, lớn hơn tôi một hai tuổi, nhà ở hàng Mắm gần nhà tôi, và nhờ em đó hễ đi học thì rẽ vào nhà tôi, đón tôi cùng đi. Từ đó người khỏi phải đưa tôi nữa, và mỗi ngày tôi với bạn đi đi về về bốn lượt, từ nhà tôi tới trường, từ trường về nhà. Mùa hè để tránh nắng, chúng tôi theo bờ đê Nhị Hà, qua phố hàng Nâu, ô Quan Chưởng gần cầu Doumer (cầu Long Biên), bến Nứa để hưởng hương thơm ngào ngạt của vài cây đuôi chồn (loại lilas) ở khỏi dốc hàng Than, lá mùa xuân xanh như ngọc thạch, mùa đông đỏ như lá bàng. Mùa đông để tránh gió bấc từ sông thổi vào, chúng tôi theo con đường ở phía trong, xa hơn, qua phố hàng Đường, hàng Than, sau nhà máy nước, nhà máy thuốc lá. Có lẽ nhờ đi bộ như vậy mỗi ngày tám cây số luôn năm sáu năm trời, nên thân thể cứng cáp, mặc dầu thiếu ăn thiếu mặc.
TRƯỜNG YÊN PHỤ
Thời đó Hà Nội có độ mươi trường tiểu học Pháp Việt (chuyển ngữ là tiếng Pháp, tiếng Việt chỉ dạy mỗi tuần 3 giờ tập đọc, luận văn), mỗi trường trung bình mười lớp từ cours enfantin tới cours supérieur (lớp năm tới lớp nhất)[5]. Trường Yên Phụ ở xa trung tâm, không nổi tiếng bằng trường Bờ Sông, trên Quai du Commerce, không lớn bằng trường Sinh Từ hay hàng Than, nhưng tôi thích nó nhất vì nó đẹp nhất.
Nó nằm ở chân đê Nhị Hà, bên bờ hồ Trúc Bạch. Nó vốn là một ngôi chùa (?) của làng Yên Phụ, xây cất thêm một dãy phòng kiểu mới dùng làm lớp học.
Phía trước là một bức tường cổ, bằng gạch làm hàng rào. Phía trong là một khu rất rộng gồm ba cái sân ở ba mực khác nhau. Có lẽ xưa là một ngọn đồi người ta cuốc, xén, để xây cất. Từ cổng vào là khu sân giữa, thoai thoải, bên trái có một dãy lớp học từ lớp ba tới lớp nhất. Sau những lớp đó là nhà của người lao công quét trường.
Từ sân đó, ở bên phải có nhiều bực đưa lên sân trên cao hơn độ một thước; sân này có hai tòa chùa hay đình cổ, nóc uốn cong, cột gỗ rất lớn, tường gạch có đắp hình hai ông tướng tô màu. Hai tòa đó sửa sang lại một chút, đục thêm cửa, lắp thêm kính, dùng làm lớp năm và lớp tư. Bên hông tòa bên phải và lùi về phía sau là nhà của ông giáo lớp năm kiêm giám thị. Bên trái còn một tòa nữa, nhìn xuống sân dưới và mặt hồ. Sân dưới ở sát mí hồ, thấp hơn sân trên độ hai thước, và thấp hơn sân giữa độ một thước. Có hai thang đá đưa từ sân giữa xuống sân dưới, và một thang gạch ít bực hơn đưa từ sân giữa xuống sân dưới.
Vườn rất rộng, trồng sấu, me, nhất là nhãn. Có tới chục gốc nhãn già. Người ta nói ở dưới chân những gốc nhãn đó và chân các tượng ông tướng đắp trên tường, có những lỗ sâu, hang của mấy con rắn có mào.
Tôi thích vẻ cổ kính của trường, thích ba khu sân rộng tha hồ cho chúng tôi chạy nhảy, leo lên, leo xuống; nhưng thích nhất là hồ Trúc Bạch. Ngồi ở mí nước, chúng tôi nhìn mây nước, những thuyền đánh cá vào mùa đông, con đường Cổ Ngư ngăn hồ Trúc Bạch với hồ Tây ở bên phải, và nhà cửa trong làng Ngũ Xã (?) ở bên trái một làng đúc đồ đồng trên một cù lao ở giữa hồ Trúc Bạch.
Gió từ hồ hiu hiu thổi vào, sóng bập bềnh vỗ nhẹ dưới chân và cánh chim lướt qua trước mặt, trong đám mây hồng.
Tôi cũng thích cây gạo ở bên đường, trên đầu dốc đưa xuống trường. Gạo là một loại cây đặc biệt của đồng quê Bắc, cũng như cây sao đặc biệt của miền
Trước năm 1920, miền quê tôi, hầu hết làng nào cũng trồng một cây gạo ở vệ đê, ngay đầu dốc đưa vào xóm. Cây gạo đó đánh dấu ranh giới của làng. Phụ nữ đi chợ thường đợi nhau ở dưới gốc gạo để cùng đi; ở chợ về cũng ngồi nghỉ tại đó nói chuyện với nhau một lát. Ở gần đó thường có một cái quán hay điếm canh. Những ai li hương trở về, xa xa trông thấy gốc gạo của làng mình, lòng cũng hồi hộp như người
Tôi không hiểu tại sao cây gạo có một địa vị quan trọng như vậy mà ít ai nhắc tới nó trong thơ văn. Tôi chỉ gặp nó bốn năm lần trong thơ của Cao Bá Quát và trong thơ mới thời Tiền chiến, mỗi lần chỉ trong một câu hay nửa câu.
Gạo trồng ở vệ đê có một điểm bất lợi là khi nó già, những rễ lớn của nó mục đi, thành hang những cho chuột hay cua, hại cho sự vững chãi của đê, cho nên nhà nước bắt đốn hết, làng quê và con đê mất đi một vẻ đẹp.
Cây gạo ở đầu dốc xuống trường Yên Phụ vì ở xa chân đê nên không bị đốn. Nó đánh dấu trường tôi, và hồi nhỏ chúng tôi thường kiếm cách bẻ những nụ của nó để lấy dao chạm thành đầu người, lượm những hoa rụng để đá cầu.
CHA TÔI MẤT
Tôi mới học được bốn năm tháng thì đã tới nghỉ hè. Hè năm đó cha tôi đau ruột, đại tiện ra huyết. Nhiều thầy lang trị mà không bớt. Tôi ở nhà coi chừng siêu thuốc và hầu hạ cha tôi. Bệnh trầm trọng thêm, cha tôi nằm liệt trong màn suốt một tháng. Mẹ tôi bỏ việc buôn bán, và sáng ngày 26 tháng 8 âm lịch, cha tôi tắt thở, mới 34 tuổi. Lúc đó tôi đau mắt, đương nghỉ học.
“Hai ngày sau đưa cha tôi tới huyệt rồi, trở về nhà lúc năm giờ chiều. Trời gần cuối thu, u ám, lá bàng bay lả tả dưới gió lạnh. Tôi buồn và lo, nghĩ bụng: “Mới hai tháng trước cậu còn mạnh, và mới tuần trước ông lang còn bảo bệnh sẽ hết, mà bây giờ... mình đã hóa ra con côi. Nếu chẳng may mẹ lại đau nữa thì bốn anh em mình… “Lần đó là lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy thấm thía sự bất an toàn của kiếp người. Tôi chỉ lo thầm như vậy thôi, không dám thố lộ với ai”.
Ngày nay nhớ lại, tôi cho rằng cha tôi hoặc vì biết số mình hoặc vì linh cảm rằng khó thoát được năm đó, nên rán vận động xin cho tôi vô học trường Yên Phụ ở giữa niên khóa, khác hẳn với lệ thường, để có nhắm mắt thì người được yên bụng.
BỐN ANH EM TÔI
Cha tôi mất đi, để cho mẹ tôi bốn đứa chúng tôi. Tôi là trưởng, 10 tuổi ta, em trai tôi là Hữu Hùng 7 tuổi, rồi tới hai em gái: Oanh 5 tuổi, và Mùi 2 tuổi, mới được 8, 9 tháng.
Khi lớn lên tôi nghe trong nhà kể lại: trước ngày sinh ra tôi, cha tôi nằm mộng thấy một ông già tóc bạc phơ, chống gậy cầm một trái lê đưa cho cha tôi bảo giữ lấy, vì vậy mà đặt tên cho tôi là Hiến Lê: dâng trái lê; và trước người sinh em trai, cha tôi nằm mộng thấy vào sở thú cõng con gấu về, vì vậy mà đặt tên là Hữu Hùng: có con gấu.
Tôi không tin mộng mị, suốt đời cũng chỉ nằm mộng vài ba lần thời nhỏ và thời trẻ, mà đều là những mộng vô nghĩa như tìm thấy một đống bi (hồi tôi ham chơi bi) hoặc gặp một người bạn. Có thể rằng đêm nào tôi cũng mộng nhiều lần như mọi người - các nhà sinh lí học nói vậy - nhưng khi tỉnh dậy, không nhớ gì cả, nên tưởng rằng mình không nằm mộng bao giờ.
Em tôi không có vẻ gì hùng dũng như con gấu cả, có lẽ mộng thấy gấu chỉ có nghĩa là sinh con trai. Còn mộng được ông lão tặng trái lê thì có thể giảng rằng tôi sẽ hiền lương (lê là một loại trái thơm, ngọt mà lành) và thọ như ông lão. Tôi không tin hai mộng đó, chép lại đây để con cháu hiểu ý nghĩa tên của tôi và em tôi thôi.
Nhưng có điều dưới đây thì tôi nghiệm thấy đúng.
Khi tôi mới sinh, nhỏ bé, yếu đuối và đen, coi xấu xí. Cha tôi chắc thất vọng, thấy không hợp với mộng; bác Ba tôi lúc đó chưa vô
Sau một người khác coi số cho cả bốn anh em tôi, bảo: Số tôi tốt nhất, số em trai tôi non; còn hai em gái tôi thì một người (Oanh) được nhờ chồng, một người (Mùi) được nhờ con.
Ngày nay, tôi thấy đúng như vậy: em trai tôi cũng yểu như cha tôi, 32 tuổi đã chết; em Oanh tôi chồng cũng khá giả, còn em Mùi tôi thì ngoài 50 góa chồng, nhưng ba đứa con đều học khá, hiện nay đã có một đứa giúp mẹ.
Bốn lá số đều đúng cả bốn, vậy khoa tử vi có chỗ đáng tin, ít nhất là về vài nét chính. Tôi sẽ nhận xét về khoa đó trong một phần sau.
[1] Thời đó giá vàng khoảng 25 đồng một lượng.
[2] Sau câu này, trong ĐVVCT còn có đoạn sau (tr.15-16): “Người mua cho tôi mấy cái thẻ bằng gỗ rộng chừng năm phân, dài chừng ba tấc, trên mặt khắc chìm những chữ Hán dễ, lớn như chữ: thiên, trung, lập, môn… Tôi dùng một cây bút lông chấm vào nước lã rồi tô những chữ đó. Như vậy ít lâu cho quen tay rồi mới tập viết phóng. Những thẻ bằng gỗ đó hình như không thông dụng, tôi không thấy ở các nhà khác. Ngày nào tôi cũng phải trả bài, hễ còn ngắc ngứ thì phải học lại cho thuộc kĩ rồi mới được đi chơi”. (Goldfish).
[3] Nay là phố Tràng Tiền. (Goldfish).
[4] Chắc cụ Nguyễn Hiến Lê muốn nói đến ông Châu Hải Kỳ, tác giả cuốn Nguyễn Hiến Lê, cuộc đời và tác phẩm. (Goldfish).
[5] Hệ thống giáo dục công cộng dưới thời Pháp thuộc trước 1945, bắt đầu từ khi trẻ em bước vào ngưỡng cửa của cấp Sơ Đẳng (Élémentaire), gồm có 3 năm: lớp Năm tức lớp Đồng Ấu (Cours Enfantin), lớp Tư tức lớp Dự Bị (Cours Préparatoire) và lớp Ba tức lớp Sơ Đẳng (Cours Élémentaire). Sau lớp Ba nếu thi đậu bằng Sơ Học Yếu Lược thì được thi “Concours lên lớp Nhì”, nếu đậu thì được học tiếp 3 năm cấp Tiểu học (Primaire Supérieur) gồm lớp Nhì Nhất Niên (Cours Moyen Première Année), lớp Nhì Nhị Niên (Cours Moyen Deuxième Année) rồi đến lớp Nhất (Cours Supérieur) và cuối năm này thì thi bằng Tiểu Học Cụ Thể (Certificat d’Études Primaire Supérieure). (Bs Bùi Minh Đức, Thế hệ giáo khoa thư, tạp chí Sông Hương số 230, tháng 04-2008, http://tapchisonghuong.com.vn/modules/printview.php?ID=102). (Goldfish).