Cuộc xâm lược bất ngờ của Nhật vào tháng 12/1941 đã thay đổi đột ngột ký ức của nước Úc về đất nước Singapore. Khoảng 18.000 tân binh, cùng 70.000 quân Anh và Ấn, đã phải chiến đấu chống lại lực lượng quân đội đế quốc Nhật mà không được không quân yểm trợ. Vào thời điểm Singapore thất thủ vào tháng 2/1942, khoảng 2.000 người Úc bị giết, hơn 1.000 người bị thương và khoảng 15.000 bị bắt làm tù binh.
Hơn 1/3 tù binh chết vì thiếu ăn, bệnh tật và bị đối xử tàn bạo, đặc biệt dọc tuyến đường sắt Miến Điện tai tiếng. Rất nhiều bia mộ dựng trong nghĩa trang chiến tranh Kranji của Khối Thịnh vượng chung ở Singapore, bằng chứng thầm lặng về sự hy sinh của họ cho nhà vua, cho đất nước. Việc quân đội đế quốc Nhật bắt giữ hàng nghìn chiến sĩ của họ ở Singapore sẽ mãi mãi hằn sâu trong tâm trí người dân Úc, một thảm họa chỉ sau vụ Gallipoli. Nhưng Singapore là một quốc gia gần họ hơn và xét về mặt chiến lược thì thích hợp hơn đối với nước Úc. Vì lẽ đó, sau Thế chiến thứ hai, Úc tiếp tục những mối liên hệ cũ với Anh và quân đội của họ quay lại Singapore để giúp đàn áp cuộc nổi dậy của cộng sản ở Malay.
Một đội quân Úc đóng tại Malaya cho đến khi Anh tuyên bố rút quân khỏi Đông Suez. Tôi khẩn cầu Thủ tướng Úc, John Gorton, lưu lại Malaya thêm một thời gian nữa. Trong khi đó vào tháng 1/1969, ở London để chuẩn bị cho hội nghị các thủ tướng Khối Thịnh vượng chung, Gorton tổ chức một cuộc gặp sơ bộ với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Anh Denis Healey, Thủ tướng New Zealand Keith Holyoake, Tunku và tôi để thảo luận những kế hoạch phòng thủ mới cho Singapore và Malaysia. Gorton bị căng thẳng cao độ. Cử chỉ bồn chồn và giọng nói của ông ta chứng tỏ ông không thiết tha đảm nhận trách nhiệm này, trách nhiệm mà ông biết chủ yếu sẽ rơi vào vai người Úc vì người Anh sẽ dần dần rút khỏi vùng này.
Chúng tôi đồng ý tạm hoãn việc quyết định đến cuộc họp tới ở Canberra vào tháng 6. Nhưng vào tháng 5, nhiều cuộc bạo động dữ dội đã nổ ra ở Kuala Lumpur, đe dọa đến việc Úc tiếp tục tham dự vào kế hoạch phòng thủ với Malaysia và Singapore. Tôi đã phác họa trong phần trước vấn đề này được giải quyết thế nào. Chúng tôi đồng ý kế hoạch phòng thủ năm nước (FPDA) qua trao đổi thư từ vào tháng 12/1971 dù có nhiều nghi ngờ từ phía Gorton. Bộ trưởng Quốc phòng Malcolm Fraser tính cương quyết hơn, phản đối bất kỳ sự lùi bước nào do hậu quả của các cuộc bạo động ở Kuala Lumpur. Cuối cùng, Gorton quyết định rút lực lượng Úc khỏi Malaya trước năm 1971 và dời về Singapore. Người Úc lo sợ khả năng của họ không đảm đương nổi những trách nhiệm đó. Họ biết rằng chỉ có một đạo quân nhỏ của New Zealand sẽ cùng ở lại Singapore với họ. Nguồn an ủi duy nhất đối với họ trong trường hợp khủng hoảng là Mỹ, thông qua ANZUS, hiệp ước Úc – New Zealand – Mỹ.
Ngay từ đầu, chúng tôi đã có quan hệ mật thiết với chính phủ Úc và New Zealand vì có sự hội tụ các quan điểm về an ninh khu vực; chiến tranh Việt Nam đang trở nên khó khăn. Tôi có mối quan hệ thoải mái với Harold Holt và những người kế nhiệm của ông, John Gorton và William McMahon. Năm 1972, đảng Lao động lên cầm quyền ở cả Úc và New Zealand. Thủ tướng Norman Kirk có một phương pháp kiên quyết với các vấn đề an ninh và không thay đổi vị trí phòng thủ của New Zealand. Nhưng Thủ tướng Úc Gough Whitlam lại khó chịu về những cam kết phòng thủ của Úc ở cả Việt Nam và Malaya/ Singapore. Sau khi đắc cử năm 1972, ông ta sớm quyết định rút quân đội ở Singapore ra khỏi FPDA.
Trong những năm 70, khi lần đầu tiên chúng tôi yêu cầu nước Úc cho phép sử dụng những khu vực huấn luyện của họ để huấn luyện quân sự, họ không sẵn lòng. New Zealand, trái lại, sẵn sàng đồng ý. Năm 1980, Úc thay đổi chính sách, cho phép chúng tôi mượn đất tập luyện, và năm 1981, tập huấn không lực tại một căn cứ RAAF. Khi Paul Keating làm Thủ tướng của đảng Lao động Úc đầu thập niên 90, ông tiến xa hơn và cho phép mở rộng việc huấn luyện Lực lượng vũ trang Singapore ở Úc. Chính phủ Liên hiệp Quốc gia tự do của John Howard tiếp tục cách này. Các mục tiêu mang tính chiến lược toàn cầu của Úc tương tự như của Singapore. Chúng tôi có cùng suy nghĩ về sự có mặt của quân đội Mỹ trong khu vực như vấn đề sống còn cho việc gìn giữ cán cân quyền lực trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương và tốt cho an ninh, ổn định. Nếu không có an ninh, ổn định thì sẽ không có sự phát triển kinh tế nhanh chóng của khu vực. Sự khác nhau của chúng tôi về thương mại và các vấn đề khác không còn quan trọng nữa nếu xét trên nền tảng lớn hơn này.
Tôi đã phải mất nhiều năm cố gắng thuyết phục Malcolm Fraser mở cửa nền kinh tế Úc để cạnh tranh và trở thành một bộ phận của khu vực. Tôi đã giải thích cho ông và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Andrew Peacock rằng họ đã làm cho nước Úc thành một đối tác quan trọng trong khu vực nhờ tích cực tham gia phòng thủ an ninh và các chương trình viện trợ của họ. Nhưng các chính sách kinh tế bảo hộ sản xuất nội địa của Úc đã tách họ ra khỏi các nền kinh tế đang phát triển, những nền kinh tế này không thể xuất khẩu các sản phẩm đơn giản qua Úc do hạn ngạch và thuế quan cao. Về tư tưởng, họ chấp nhận lý lẽ của tôi; về chính trị, Fraser không có sức mạnh để chống đối lại nghiệp đoàn và các nhà sản xuất, cả hai đều muốn bảo hộ hàng nội địa.
Tại hội nghị các nguyên thủ quốc gia Khối Thịnh vượng chung Khu vực châu Á Thái Bình Dương (Commonwealth Heads of Government Regional Asia/ Pacific Meeting – CHOGRM) năm 1980 ở New Delhi, Fraser tham gia vào cuộc vận động chống lại các chính sách bảo hộ của EEC, những chính sách đóng cửa đối với hàng nông sản xuất khẩu của Úc. Tôi đã lưu ý ông rằng ông sẽ giành được ít sự ủng hộ từ các nước đang phát triển bởi họ thấy nước Úc đang dùng đến các chính sách tương tự để bảo vệ những ngành công nghiệp đã mất tính cạnh tranh của chính họ. Hơn nữa, Úc càng lúc càng trở nên không quan trọng với các nước Asean bởi khi họ quyết định về các chính sách chủ đạo, nước Úc không xuất hiện trên các bảng cân đối của họ.
Các chính phủ Úc kế nhiệm đã đưa đất nước đến gần gũi hơn với châu Á. Paul Keating, người đã trở thành Thủ tướng sau Bob Hawke, đã được thuyết phục rằng về mặt kinh tế, nước Úc cần phải gắn chặt với châu Á và đích thân ông đã đẩy mạnh chính sách gần gũi hơn với châu Á. Với một đầu óc sáng suốt, một tầm hiểu biết rộng rãi về kinh tế học và giác quan về địa lý chính trị, ông ta đã làm Bộ trưởng Bộ Tài chính nhiều năm dưới quyền Bob Hawke. Nhưng những gì ông có thể làm với cương vị Thủ tướng của đảng Lao động đã bị giới hạn bởi ảnh hưởng quyền lực của các nghiệp đoàn Úc đối với đảng của ông.
Một vị Bộ trưởng khác đã có nỗ lực đặc biệt để tiếp cận với châu Á hơn, Gareth Evans. Ông có tư duy nhạy bén và khi tranh luận thì miệng lưỡi sắc bén, nhưng trái tim nhân hậu. Là Ngoại trưởng dưới thời Hawke và Keating, Evans tiến hành thay đổi triệt để trong chính sách đối ngoại. Ông bắt đầu biến Úc thành một phần của châu Á và vì thế góp phần vào sự phát triển kinh tế của châu Á. Ông không muốn Úc vẫn chỉ là một nước xuất nguyên liệu thô cho Nhật trong khi người Nhật sản xuất xe hơi và các sản phẩm điện tử ở Úc với công nghệ Nhật. Evans đã phát triển các mối quan hệ cá nhân mật thiết với các ngoại trưởng Asean. Điều này chắc hẳn đã là một sự cố gắng bởi vì giữa họ có các thói quen hoàn toàn khác nhau. Trong khối Asean, các khác biệt nghiêm trọng thường được giải quyết không phải ở bàn đàm phán mà là trong lúc đánh gôn. Vì thế, ông đã chơi gôn cùng họ.
Trong những năm đầu của chính phủ Lao động của Hawke, tôi nghĩ rằng chính sách châu Á của ông ta chỉ là một nỗ lực trong mối quan hệ với quần chúng nhưng khi Keating cũng tiếp tục chính sách này thì tôi mới kết luận rằng đây là một thay đổi lớn về chính sách. Người Úc đã sửa lại các giả định và đánh giá của mình. Họ có thể đã là một nhánh của Anh và châu Âu, nhưng tương lai của họ lại gắn với châu Á hơn. Họ thấy rằng các nền kinh tế bổ sung tốt nhất cho nền kinh tế của họ là những nền kinh tế ở Đông Á. Những nước này – Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan và Asean – sẽ cần nông sản và khoáng chất của Úc và cũng sẽ tìm thấy ở Úc những khoảng không gian rộng mở, những sân gôn, những nhà nghỉ và những bãi biển tuyệt vời để nghỉ mát. Nước Mỹ, dẫu là một đồng minh hùng mạnh vì lý do an ninh và chính trị, vẫn sẽ cạnh tranh với Úc trong việc xuất khẩu nông sản.
Tại một hội nghị ở Sydney do báo Tài chính Úc (Australian Financial Review) tổ chức vào tháng 4/1994, Gareth Evans, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao mời tôi phát biểu thẳng thắn về nước Úc. Tôi lấy ngay lời của ông. Tôi nói, nước Úc là “một nước may mắn với quá nhiều thứ tốt để lựa chọn”. Nước Úc có mức tiêu thụ cao, tiết kiệm thấp, ít cạnh tranh, thiếu hụt tài khoản vãng lai cao và nợ nhiều, với hầu hết hàng xuất khẩu là khoáng sản và nông sản. Tôi tin việc cải cách nhiều hơn là không thể tránh khỏi nếu họ muốn cạnh tranh và hoàn chỉnh việc tái xây dựng nền kinh tế.
Các biên tập viên báo Tài chính đã hoan nghênh những nhận định thẳng thắn của tôi. Nhưng các tờ báo nhỏ đã phẫn nộ. Họ là một phần của vấn đề. Phương tiện thông tin đại chúng phổ biến của đất nước, bao gồm cả một chương trình truyền hình nhiều kỳ do Tập đoàn Truyền hình Úc sản xuất năm 1991, đã miêu tả các thành tựu kinh tế của Đông Á là “một tầng địa ngục Thế giới thứ Ba với những xí nghiệp bóc lột công nhân tàn tệ, du lịch sex và những chế độ hà khắc”. Họ hoàn toàn lờ đi sự thật rằng con số người Đài Loan sau khi học và làm việc ở Mỹ trở về mang theo kiến thức và công nghệ Mỹ để xây dựng Thung lũng Silicon của riêng họ đang tăng lên.
Tôi đã đáp lời với giới truyền thông tại câu lạc bộ Báo chí Quốc gia Úc ở Canberra. Họ đã quên thông báo với dân chúng Úc về việc chuyển đổi một khu vực gần 2 tỷ người từ nền nông nghiệp lạc hậu thành những xã hội công nghiệp kỹ thuật cao. Những đất nước này, gồm cả Trung Quốc, đã sản sinh ra hàng triệu nhà khoa học, kỹ sư. Các chương trình nghiên cứu phát triển ở Nhật đã làm cho người Nhật có thể phóng vệ tinh vào không gian và khảo sát những bí ẩn của công nghệ cấy ghép gen. Những tiến bộ này không hề được truyền thông ở Úc. Trái lại, các phương tiện truyền thông Mỹ đã quảng bá sự công nghiệp hóa và phát triển cao của Đông Á. Mặc dù giới học giả Úc được thông báo đầy đủ, nhưng dân chúng vẫn không hay biết. Sự thiếu hiểu biết của dân chúng gây khó khăn cho bất kỳ chính phủ Úc nào trong việc giành được sự ủng hộ của quần chúng đối với những thay đổi trong chính sách về di dân và định hướng kinh tế.
Định mệnh của nước Úc có ràng buộc với định mệnh của châu Á hay không đột nhiên trở nên nổi cộm với cuộc khủng hoảng ở Đông Timor. Cuộc khủng hoảng được châm ngòi vào ngày 27/1/1999 khi Ngoại trưởng Indonesia, Ali Alatas sau cuộc họp nội các do Tổng thống Habibie làm chủ tọa đưa ra một tuyên bố đầy kịch tính rằng: sẽ có một “cuộc thăm dò dư luận” dành cho quần chúng ở Đông Timor để quyết định họ chấp nhận việc tự trị đặc biệt hay trở thành độc lập. Phát ngôn công khai này đã làm thay đổi số phận của Đông Timor, gây hậu quả lâu dài cho Indonesia và Úc. Cả Ngoại trưởng Úc Alexander Downer và Thủ tướng John Howard đều được biết là có mối quan hệ cởi mở với Tổng thống Habibie. Không như Suharto, Habibie nói tiếng Anh và sẵn sàng tiếp nhận sự thuyết phục, đặc biệt là về Đông Timor.
Các nhà lãnh đạo của nước Úc muốn rũ bỏ cái gai Đông Timor vốn làm hỏng mối quan hệ Indonesia – Úc. Họ đề nghị “giải pháp Tân Caledonia” với Habibie (ở giải pháp Caledonia, người Pháp đã đưa ra một cuộc trưng cầu dân ý năm 1998 về việc tiếp tục gắn bó liên kết với Pháp hay độc lập sau thời gian 15 năm chuẩn bị). Tổng thống kể lại cho Mah Bow Tan (xem chương 16) về việc Đại sứ Úc, John McCarthy, đã thảo luận với ông ra sao về giải pháp Tân Caledonia. Habibie nói với McCarthy rằng ông sẽ không đồng ý để Đông Timor có 15 năm chuyển tiếp để đi đến độc lập, với sự trợ giúp kinh tế của Indonesia trong suốt thời gian này. Nếu họ từ chối quyền tự trị, họ sẽ phải tự lo chuyện độc lập. Indonesia sẽ không đóng vai “ông chú giàu có”. Habibie nói Howard sau đó đã gởi cho ông một lá thư chứa đựng các ý tưởng của Habibie và thế là ông ta viết nguệch ngoạc một bản thông báo nội bộ cho các bộ trưởng chủ chốt vào ngày 21/1/1999, yêu cầu họ nghiên cứu xem liệu để cho MPR (Hội đồng Tư vấn Dân tộc) quyết định cho Đông Timor tự tách khỏi Cộng hòa Indonesia có khôn ngoan không. Ông đính kèm lá thư của Howard, lá thư nhấn mạnh rằng ý kiến của người Đông Timor là khăng khăng đòi một đạo luật về quyền tự quyết. Habibie mất gần một tuần lễ để quyết định đối với việc chọn lựa tự trị hay độc lập cho Đông Timor. Tháng 5, một hiệp định được ký kết tại New York giữa Indonesia, Bồ Đào Nha và Liên Hiệp Quốc để chuẩn bị cho một cuộc bỏ phiếu kín vào ngày 8/8/1999. Tháng 6, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc chấp nhận giải pháp thành lập UNAMET (U.N Assitance Mission to East Timor – Phái đoàn trợ giúp Đông Timor của Liên Hiệp Quốc).
Nhưng vào tháng 2/1999, ngay sau thông báo gây sửng sốt của Ali Alatas, những người Indonesia bắt đầu trang bị vũ khí cho lực lượng dân quân ủng hộ sự hợp nhất. Việc tàn sát và đe dọa của những người ủng hộ độc lập trở thành chuyện thường ngày. Mặc cho tất cả các khó khăn này, UNAMET vẫn tiến hành việc bỏ phiếu kín vào ngày 30/8, hầu hết mọi người đều đi bầu. Khi kết quả được công bố ngày 4/9 với gần 80% bỏ phiếu cho độc lập, thì tình hình trở nên lộn xộn. Đất nước bị phá hủy, tiêu diệt một cách có hệ thống và dân chúng bị buộc phải di tản: 250.000 người phải dời sang Tây Timor, số còn lại chạy lên các ngọn đồi.
Trong suốt một tuần dưới áp lực mạnh mẽ của quốc tế, Habibie cuối cùng đã mời các lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế vãn hồi trật tự. Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc chấp nhận giải pháp cho phép triển khai lực lượng đa quốc gia đối với Đông Timor (InterFET). Lẽ dĩ nhiên, InterFET phải được Úc chỉ đạo; căn cứ gần nhất cho InterFET là Darwin. Thế nhưng người Úc một lần nữa hiểu được láng giềng Indonesia của họ dễ xúc động như thế nào.
Về mặt công khai, người Indonesia tuyên bố dành ưu ái cho quân đội ASEAN. Nói riêng thì là các cấp Lực lượng vũ trang (TNI) thấp hơn không đồng ý, ám chỉ có thể có nhiều thương vong. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tuyên bố rằng ông sẽ chỉ gửi một nhóm hỗ trợ hậu cần và thông tin liên lạc chứ không phải là các đội quân chiến đấu. Úc phải dẫn đầu đội quân. Lo sợ bị xem như đội quân 4.000 lính da trắng được hỗ trợ chủ yếu của 1.000 lính người New Zealand da trắng, Úc đã tìm kiếm sự hỗ trợ của các nước châu Á, trước hết là các nước trong khối Asean. Tại hội nghị APEC ở Aukland vào tháng 9, Thủ tướng John Howard yêu cầu Singapore tham gia và Thủ tướng Goh đồng ý. Vì thế, Singapore cam kết sẽ cung cấp một đội quân y, các quan sát viên quân sự, các sĩ quan thông tin liên lạc, hỗ trợ hậu cần và hai hạm đội hải quân LST (Landing Ship Tanks) – gồm 270 người so với dân số 3 triệu người.
Một ngày sau khi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc ủy quyền cho InterFET, đội quân thuộc Lực lượng Vũ trang Singapore (SAF) đã tới Darwin. Chỉ huy chiến dịch SAF của chúng tôi, đại tá Neo Kian Hong, bay đến Dili cùng với chỉ huy InterFET, đại tướng Peter Cosgrove, để gặp gỡ với Quyền chỉ huy Tác chiến Tái lập của Indonesia ở Đông Timor. Và khi đợt đầu tiên của lực lượng InterFET đến Dili vào ngày 20/9, trong đội ngũ của Cosgrove đã có sự góp mặt của Singapore.
Tờ Bulletin (tuần báo của Úc) ngày 28/9/1999 tường thuật: “Học thuyết Howard, được chính vị Thủ tướng ôm ấp suốt nhiệm kỳ, đã cho thấy rõ nước Úc đóng vai trò kiểu ‘đại diện’ giữ gìn hòa bình khu vực thay cho vai trò cảnh sát quốc tế của Mỹ.” Bài tường thuật này của tờ Bulletin đã dẫn đến sự trả miếng ngay lập tức từ Phó Thủ tướng người Malaysia Abdulla Badawi: “Không nhất thiết bất cứ quốc gia nào phải đóng vai trò là thủ lĩnh, chỉ huy hay đại diện. Họ (tức người Úc) không đồng điệu với chúng ta.” Một quan chức Bộ ngoại giao Thái Lan bộc lộ suy nghĩ về vấn đề này khéo léo hơn, rằng việc người Úc tự bầu chọn mình là đại diện của người Mỹ trong việc bảo vệ an ninh khu vực là không thích hợp. Sau khi Howard tuyên bố ở Quốc hội (ngày 27/9) rằng nước Úc không hề đóng vai trò đại diện của Mỹ hay bất kỳ nước nào, rằng từ “đại diện” là do phóng viên tờ Bulletin đặt ra, thì tình hình mới lắng dịu bớt.
Trong khi tham dự một buổi họp của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York, Thủ tướng Malaysia Mahathir phê phán quân đội Úc “khá nặng tay” trong cách họ chĩa súng vào đầu những người bị nghi ngờ là dân quân, việc này đã đổ thêm lửa vào cuộc tranh cãi. Ông thêm vào: “Indonesia đã rót rất nhiều tiền vào Đông Timor; và cộng đồng quốc tế nên cho phép Indonesia thực thi dân chủ và cho người dân Đông Timor thấy họ có thể đạt được điều đó từ việc hợp nhất với Indonesia”. Thủ lĩnh người Đông Timor, Jose Ramos–Horta, người đồng nhận giải Nobel với Giám mục Carlos Belo28, đáp lại rằng: “Malaysia có một bản thành tích cực kỳ tồi tệ trong việc gìn giữ nhân quyền ở Đông Timor. Không một ai sẽ cộng tác với chỉ huy người Malaysia. Thậm chí còn có thể có sự bất tuân toàn diện trong thường dân.”
Ramos–Horta muốn xóa bỏ đề nghị trước đây của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc để đặt một người Malaysia vào vị trí chỉ huy Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc, lực lượng này sẽ thay thế InterFET vào tháng 1/2000. Ông tiếp lời: “Đông Timor không muốn là một phần của Asean. Chúng tôi muốn là bộ phận của Diễn đàn Nam Thái Bình Dương.” Các thủ lĩnh Đông Timor kết luận rằng Úc là nước láng giềng đáng tin cậy nhất của họ.
Úc bị kéo vào cuộc xung đột Đông Timor. Trong Thế chiến thứ hai, quân đội Úc đánh nhau với người Nhật đã được người địa phương ở đó giúp đỡ. Dân chúng địa phương sau đó đã bị quân Nhật trừng phạt tàn bạo. Cộng thêm vào cảm giác tội lỗi của nước Úc, Thủ tướng Gough Whitlam, trong suốt một loạt buổi hội đàm với Suharto, đã đồng ý với dự định của Suharto trong việc chiếm đóng và thôn tính Đông Timor. (Người Indonesia nói rằng Whitlam đã khuyến khích Suharto). Tại Liên Hiệp Quốc năm 1976, Úc đã bỏ phiếu cho Indonesia về giải pháp đối với Đông Timor. Singapore bỏ phiếu trắng. Khi sự đàn áp đi theo sự chiếm đóng năm 1975, quân kháng chiến Đông Timor dựa vào Úc. Suốt 24 năm, vấn đề này vẫn âm ỉ sôi.
Khi Paul Keating gặp tôi vào tháng 9/1999, ông tiên đoán rằng Úc sẽ bị kéo vào cuộc xung đột kéo dài với Indonesia, ông nói thêm rằng lá thư của Howard gửi cho Habibie sẽ phá hủy các mối quan hệ tốt đẹp với Indonesia mà ông đã cẩn thận xây dựng, đã đi đến kết quả là hiệp ước an ninh ký kết với Suharto năm 1995. Như ông đã tiên đoán, người Indonesia xé bỏ nó vào ngày 16/9/1999, một ngày sau khi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc tán thành InterFET.
Diễn biến ở Đông Timor bị lèo lái bởi giới truyền thông Úc và tình cảm quần chúng, bởi việc chính phủ Bồ Đào Nha làm cho Liên minh châu Âu (EU) gây áp lực với Indonesia ở mỗi cuộc họp quốc tế, và bởi giới truyền thông Mỹ và các tổ chức phi chính phủ. Họ thường theo dõi từng động tĩnh của Indonesia, làm nó trở thành một vấn đề đeo đẳng Indonesia ở mọi diễn đàn quốc tế. Habibie nghĩ ông có thể tống khứ gánh nặng này bằng kế hoạch đề xuất của mình. Nhưng cả Úc, EU hay Mỹ đều không đòi hỏi hay mong muốn một Đông Timor độc lập. Habibie không nhận thức được rằng ông sẽ không bao giờ được các nhà dân tộc chủ nghĩa Indonesia tha thứ về việc cho phép một cuộc bầu cử mà tất yếu là dẫn đến độc lập.
Dù việc đề nghị tự quyết cho Đông Timor có khôn ngoan hay không, nước Úc đã làm đúng khi lãnh đạo InterFET vào Đông Timor để chấm dứt hành động vô nhân đạo đang xảy ra. Dù không có một thủ lĩnh châu Á nào lên tiếng ủng hộ nước Úc khi Úc dẫn quân InterFET vào Đông Timor, nhưng tất cả đều biết rằng nước Úc đang cứu một tình hình tồi tệ khỏi tồi tệ thêm. Đó là một chiến dịch tốn kém về cả mặt kinh tế lẫn chính trị đối với Úc, một nhiệm vụ không quốc gia nào trong khu vực dám đảm trách. Nếu Úc không hành động sau khi đã đóng vai trò trong việc đưa đến bỏ phiếu cho nền độc lập, thì ắt hẳn họ sẽ bị các nước láng giềng khinh thường. Hóa ra, phong cách cứng rắn không ồn ào mà đại tướng Cosgrove đã chỉ huy quân đội InterFET đã được nhiều lãnh đạo trong khu vực thầm kính trọng. Như đã chờ đợi, những đám đông người Indonesia biểu tình hàng ngày bên ngoài Đại sứ quán Úc ở Jakarta. Những người mang quốc tịch Úc làm việc trong các vùng khác nhau của Indonesia đều phải sơ tán.
Tôi chăm chú quan sát cuộc khủng hoảng Đông Timor tăng cao. Howard và Downer đặt chính sách của họ dựa trên phản ứng của Habibie. Habibie muốn thuyết phục dân Indonesia tái bầu ông ta làm Tổng thống bằng cách chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo quốc tế như John Howard nghĩ tốt về ông như một người dân chủ và cải cách. Các nhà lãnh đạo Úc đã bỏ qua những lực lượng đầy quyền lực mà Habibie đã phải đấu tranh: hơn 5.000 nấm mồ của lính Indonesia ở Đông Timor; các đồn điền cà phê rộng lớn và các đồn điền khác đã bị chia ra thành từng phần cho các quan chức trước đây phục vụ cho quân đội Indonesia (TNI); nỗi lo sợ của các quan chức cao cấp của TNI rằng sự độc lập của Đông Timor có thể làm trầm trọng thêm các phong trào của những người thuộc chủ nghĩa ly khai ở Aceh và các tỉnh khác. Habibie không ở trong tình thế có thể từ bỏ Đông Timor mà không để lại các hậu quả nghiêm trọng.
Tôi đã nghĩ đến việc lực lượng dân quân cố gắng gây ảnh hưởng đến số phiếu bằng cả các hình thức công bằng lẫn gian lận. Nhưng tôi không bao giờ tưởng tượng được rằng họ sẽ tàn phá cả đất nước một cách có hệ thống chỉ vòng trong hai tuần lễ giữa thời điểm thông báo các kết quả trưng cầu dân ý và lúc lực lượng InterFET đến. Việc TNI để cho họ làm điều này thật phi lý nhưng cho tới lúc đó, nhiều thứ phi lý đã xảy ra, vốn là lý do tại sao Singapore, giống như các nước khác trong khối Asean, vẫn đứng ngoài vấn đề Đông Timor.
Khi Abdurrahman Wahid còn là một ứng cử viên Tổng thống, ông nói vào ngày 13/10 rằng Úc đã “làm bẽ mặt chúng ta” và đề nghị ngưng các quan hệ. Mười ngày sau khi đắc cử Tổng thống, ông nói: “Nếu Úc cần một đất nước có 210 triệu dân chấp nhận, chúng ta sẽ rộng lòng đón họ. Nếu họ muốn không dính với chúng ta, cũng được”. Đại sứ Úc đã làm việc cật lực để giảm bớt lời hùng hổ này, nhưng phải mất một khoảng thời gian thì mối quan hệ mới trở lại như trước khi khủng hoảng.
Người Úc đã có cuộc thử lửa đầu tiên trong một cuộc khủng hoảng ở châu Á. Thủ tướng John Howard có thể đã không hiểu được mối nguy hiểm của việc quan hệ với một Tổng thống tạm thời như Habibie, nhưng khi việc quan trọng rõ ràng diễn ra, Howard đã làm những gì mà một vị Thủ tướng Úc nên làm. Với sự ủng hộ mạnh mẽ của công chúng và giới truyền thông Úc, ông đã gửi quân đội Úc để lãnh đạo lực lượng InterFET vào Đông Timor, bất chấp lời đe dọa của lực lượng dân quân sẽ gây thương vong cho những người Úc. Những sự kiện này càng củng cố một điều rõ ràng là số phận của Úc gắn bó với châu Á hơn là với Anh hay châu Âu.
Cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với Gough Whitlam sau khi ông trở thành Thủ tướng là tại hội nghị thượng đỉnh Khối Thịnh vượng chung ở Ottawa vào năm 1973. Whitlam là một người điển trai và ý thức rõ vẻ dễ nhìn của mình. Ông là người nhanh trí nhưng cũng nóng tính và bốc đồng trong các cuộc nói chuyện. Ông tự hào nói với các nhà lãnh đạo có mặt rằng ông đã thay đổi chính sách di dân nghiêm ngặt của Úc và sẽ không yêu cầu những người châu Á đã theo học ở các trường Đại học của Úc ra đi sau khi tốt nghiệp. Tôi chỉ trích ông về “chính sách cái nhìn mới” này, chỉ ra rằng ông chỉ chấp nhận những người châu Á lành nghề, có chuyên môn và rằng điều này đã tạo ra tình trạng chảy máu chất xám nghiêm trọng cho Singapore và các nước châu Á nghèo lân cận. Ông rất giận dữ.
Ông cũng thông báo với vẻ kịch tính về hướng thay đổi của ông là sẽ trở thành một nước “láng giềng tốt” trong khu vực và là một “người bạn tốt” của các nước Á, Phi. Tôi đã thách thức lời tuyên bố của ông và đã chỉ ra một số ví dụ như những giới hạn bằng hạn ngạch của ông về việc nhập khẩu áo sơ mi vào Úc và quyền giao thông cho hãng hàng không Singapore. Ông xem điều này như chuyện chỉ trích cá nhân và cuộc trao đổi của ông trở nên gay gắt. Ông ta chỉ là một cậu bé mới toanh trong khi tôi đã có các bạn bè cũ trong các chính phủ Ted Heath ở Anh, Pierre Trudeau ở Canada, Norman Kirk ở New Zealand, Julius Nyerere của Tanzania và Errol Barrow của Barbados. Họ lên tiếng ủng hộ quan điểm của tôi. Kết quả là Thủ tướng Norman Kirk của New Zealand nổi lên với cương vị là tiếng nói đại diện cho Nam Thái Bình Dương và được Tây Samoa, Tonga và Fiji ủng hộ.
Khi đó Whitlam công khai tấn công tôi, nói rằng Singapore có lượng lớn dân Trung Quốc và do đó các tàu Xô Viết không ghé lại Singapore. Liên Xô lập tức đưa 4 con tàu tiếp tế đến Singapore để sửa chữa nhằm kiểm tra xem chúng tôi là người Trung Quốc hay người Singapore. Tôi đáp lại rằng Whitlam không nên kích động Xô Viết lần nữa, vì lần tới họ có thể sẽ gởi đến tàu khu trục tên lửa hủy diệt hay một tàu ngầm hạt nhân.
Ngay cả đối với người Úc, Malcolm Fraser vẫn là một người cao lớn. Tôi bắt đầu biết rõ về ông khi ông còn là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của Gorton. Khi chúng tôi gặp nhau ở Kuala Lumpur tại lễ tang của Tun Razak vào giữa tháng 1/1976, tôi nắm được cơ hội để bàn luận với ông về việc triển khai các lực lượng Úc ở bán đảo Malaysia và Singapore. Ông nói không có vấn đề rút quân. Ông quyết định để lại phi đội Mirage và máy bay Orion ở Butterworth. Cách tiếp cận thiết thực đối với an ninh và sự ổn định cùng với quyết tâm không từ bỏ việc gì của ông khiến tôi cảm thấy an lòng.
Với sự khích lệ của tôi, Fraser đã gặp Thủ tướng Mahathir vào năm 1982. Mahathir nói rằng Bộ trưởng Ngoại giao của Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch, đã tuyên bố rộng rãi rằng ông sẽ cung cấp căn cứ cho quân đội Liên Xô ở Việt Nam nếu cần thiết, và thật là ngốc nghếch cho Malaysia trong việc tháo dỡ các căn cứ nước ngoài. Malaysia hoàn toàn có thể chấp nhận nếu Úc muốn ở lại, nhưng nếu họ muốn ra đi thì Malaysia cũng không thể làm gì hơn. Fraser thấy hài lòng và đã để lại căn cứ của ông ở Butterworth.
Fraser có những quan điểm bảo thủ nhưng vẫn không bao giờ có thể loại bỏ được tác hại mà Whitlam đã gây ra trong gần ba năm qua do hấp tấp đưa vào hệ thống phúc lợi xã hội đã khiến từ đó ngân khố quốc gia Úc phải mang gánh nặng. Chúng tôi trở thành bạn bè và giữ mãi tình bạn ấy dù tôi không đồng ý với các chính sách kinh tế bảo hộ mậu dịch của ông. Ông miễn cưỡng phải mở cửa một nền kinh tế vốn nâng niu cưng chiều các công nhân trong khi người tiêu thụ chịu thiệt thòi. Rốt cuộc, vào cuối những năm 80 và 90, các chính phủ của đảng Lao động đã phải đương đầu với nhiệm vụ khó khăn của việc dần mở cửa đất nước cho hàng nhập khẩu và bỏ rơi các ngành công nghiệp không mang lại hiệu quả kinh tế.
Khi đảng Lao động Úc thắng cuộc tổng tuyển cử vào tháng 5/1983, tôi đã e rằng các phiền phức mà tôi đã có với Whitlam sẽ lại xuất hiện. Nhưng Bob Hawke lại có tính cách hoàn toàn khác biệt với Whitlam, và những nhà lãnh đạo của đảng Lao động đã học được từ sự thái quá trong những năm Whitlam đương chức. Hawke biết đặt tình cảm vào đúng chỗ và muốn làm những điều đúng đắn, nhưng mỗi khi ông lấy cái gì đó đi của công nhân ở một lĩnh vực nào đó thì ông lại trả nó về dưới dạng trợ cấp ở các lĩnh vực khác. Ông là Thủ tướng có thời gian phục vụ lâu thứ nhì của Úc. Ông thể hiện bản thân và các lý lẽ của mình tốt và luôn ý thức được mình sẽ xuất hiện trên truyền hình như thế nào.
Ông đã rút một trong hai phi đội Mirage, nhưng lại hoãn quyết định đối với phi đội kia. Vào tháng 3/1984, ông quyết định giảm dần quân số của đội Mirage còn lại vào giữa năm 1986 và 1988. Tôi có thể thuyết phục được ông luân phiên triển khai lực lượng F18 từ Darwin, tổng cộng 16 tuần mỗi năm. Sự sắp đặt này vẫn còn duy trì cho đến nay. Bằng việc vẫn ở lại Butterworth cho đến năm 1988, người Úc đã góp phần vào sự an ninh của Malaysia và Singapore, cho chúng tôi hơn 30 năm ổn định và phát triển. Sau các cuộc bạo động chủng tộc ở Singapore vào năm 1964 và ở Kuala Lumpur vào năm 1969, người Úc đã lo sợ về việc dính líu đến những mâu thuẫn giữa Singapore và Malaysia hay các va chạm giữa Indonesia với Malaysia hay Singapore. Đến năm 1988, người Úc đã xem xét lại những đánh giá về quốc phòng của họ; giờ đây họ không quá đề cao các mối nguy về những thảm họa như thế và nhận ra giá trị chính trị và chiến lược ở việc tham gia vào khu vực thông qua hiệp định phòng thủ năm nước.
Tóm lại, vị Thủ tướng của họ gây ấn tượng nhất với tôi là Bob Menzies. Có lẽ là vì khi đó tôi trẻ hơn và dễ bị ảnh hưởng hơn. Tôi quan sát diễn xuất bậc thầy của ông tại cuộc họp các Thủ tướng của Khối Thịnh vượng chung vào tháng 9/1962 ở London. Ông có vóc dáng uy nghi, cao lớn, giọng nói oang oang mạnh mẽ, tóc muối tiêu, lông mày rậm và gương mặt hồng hào đầy xúc cảm. Ông toát lên vẻ tự tin và quyền lực của một thế hệ trung thành với vua và đế chế. Dù ông đã nỗ lực hết mình khuyên can, nhưng khi Anh quyết định gia nhập vào thị trường chung, ông hiểu rằng thế giới đã thay đổi không gì cưỡng lại được, rằng những tình cảm và mối quan hệ họ hàng không thể thay thế được những thực tiễn địa lý chính trị và địa lý kinh tế trong thế giới hậu đế quốc.
Một nhà lãnh đạo Úc ấn tượng khác là Paul Hasluck, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (1964–1969), người sau này đã trở thành toàn quyền (1969–1974). Ông trầm tĩnh, đọc nhiều, nói năng nhỏ nhẹ, tinh ý và gãy gọn súc tích. Tôi gặp ông trong chuyến thăm Úc lần đầu tiên vào năm 1963 khi ông đang ở trong nội các của Menzies. Khi Singapore đang đối đầu với Indonesia và sau đó Anh rút quân, tôi gặp ông thường xuyên. Ông lèo lái các chính sách ngoại giao của Úc bằng đôi tay vững chắc và động tác khéo léo. Ông không muốn bỏ rơi Malaysia và Singapore, nhưng thận trọng để không gây khó chịu cho người Indonesia, hay khiến cho họ cảm thấy rằng “họ đang bị bè đảng chống đối”, như ông đã thẳng thắn nói với tôi. Các giá trị của ông nhấn mạnh về tầm quan trọng của gia đình, học thức và chăm chỉ, đều là các giá trị của thế hệ tiền chiến trước khi Úc tự xem mình là “đất nước may mắn”.
Giống như Úc, những mối liên hệ của New Zealand với Singapore cũng thông qua Anh. Vì ở xa châu Á, nên người New Zealand không cảm thấy quá bị đe dọa bởi khả năng bị Nhật xâm lấn trong suốt Thế chiến thứ hai và ít nghi ngờ về châu Á hơn. Đến những năm 90, thái độ này đã thay đổi sau khi họ đã có nhiều người nhập cư châu Á.
Trong chuyến viếng thăm New Zealand lần đầu tiên của tôi vào tháng 4/1965, tôi ngạc nhiên khi biết những thói quen và tính cách kiểu Anh của họ. Tôi ở trong các khách sạn nhỏ nơi các cô hầu vẫn còn đeo tạp dề như các cô hầu người Anh vẫn đeo sau chiến tranh, và mang “trà sáng” đến trước bữa điểm tâm. Giọng của họ gần với giọng người Anh, quá lịch sự và lạnh nhạt, ít mang vẻ hồ hởi, thân thiết như giọng Úc. Đất nước xanh tươi, đối lập với nước Úc nâu đen và bụi bặm. Nhiều năm trước kia, con trai út của các quý tộc nhỏ không được thừa hưởng tài sản của cha ở Anh đã phải đến những nông trại rộng lớn ở New Zealand để nuôi cừu, gia súc và trồng lúa mạch cho quê mẹ. Đó là một cách sống đáng yêu mang lại cho họ một mức sống cao. New Zealand đã phát triển một hệ thống phúc lợi xã hội tiến bộ, mang lại cho người dân mức sống thuộc vào loại cao nhất và chất lượng cuộc sống cao từ trước Thế chiến Thứ hai. Sau chiến tranh, họ trở nên giàu có.
Họ duy trì xã hội dựa trên nông nghiệp này lâu hơn mức nên có. Úc đã công nghiệp hóa, còn họ lại không. Vì thế, rất đông những người trẻ tuổi sáng dạ và nhiều tham vọng đã rời bỏ quê hương để đến Úc, Anh và Mỹ. Vào những năm 80, New Zealand bắt đầu một hướng đi khác nhằm phát triển nền kinh tế để tạo ra nhiều cơ hội cho người tài để họ không phải di cư nữa. Họ cũng đón nhận những người nhập cư châu Á có trình độ và họ bắt đầu kinh doanh vẻ đẹp thiên nhiên của đất nước, đẩy mạnh ngành du lịch trên quy mô rộng lớn. Đó là nỗ lực cạnh tranh muộn màng.
Một trong những vị thủ tướng có thời gian phục vụ lâu của họ là Keith Holyoake. Tôi gặp ông ta lần đầu tiên lúc ông ta đến phi trường Singapore vào năm 1964, khi đó chúng tôi còn ở trong Liên bang Malaysia. Ông là người to lớn, giọng nói sâu, mạnh, âm vang từ trong lồng ngực. Ông không chút khoe khoang. Ông là một nông dân và ông tự hào về điều đó. Ông không làm ra vẻ hiểu biết, mà lại rất gần gũi. Đây ắt là một lý do tại sao ông lại đắc cử liên tiếp 4 nhiệm kỳ và là Thủ tướng từ năm 1960 đến 1972. Tôi thích ông ta và kính trọng tính trung thực của ông. Tôi phát hiện rằng ông ta rất vững vàng và điềm tĩnh dưới mọi áp lực.
Sau khi viên chức cao cấp Khối Thịnh vượng chung của Anh, George Thomson, gặp tôi ở Singapore năm 1967 để nói với tôi về quyết định rút quân của Wilson, tôi liền gọi điện cho Holyoake. Đó là vào tháng 11, New Zealand đang là mùa hè. Ông ta nói ông ta không nghĩ rằng người Anh sẽ đổi ý: ông ta đã thử. Ông ta chúc tôi may mắn trong việc nỗ lực để có nhiều thời gian hơn. Kết thúc cuộc nói chuyện, ông nói: “Tôi đang ở nhà nghỉ bên hồ Taupo. Hôm nay trời nắng, đẹp và thanh bình. Ông hãy đến và nghỉ ở đây. Đó sẽ là một khoảng thời gian thư giãn”, ở mãi Nam Thái Bình Dương, ông ta có một cảm nhận khác về nguy hiểm. Nhiều năm sau, tôi nhận lời mời của ông. Huka Lodge gần hồ Taupo thật sự là yên tĩnh.
Khi Norman Kirk trở thành Thủ tướng đảng Lao động của New Zealand, chúng tôi gặp nhau tại Hội nghị Khối Thịnh vượng chung ở Ottawa năm 1973. Ông nổi bật vì sự chân thành, nói thẳng, không chút bỡn cợt. Trên đường về New Zealand vào tháng 12/1973, ông ghé thăm tôi. Chúng tôi ngồi ở bãi cỏ phía trước Sri Temasek một buổi chiều trước lúc trời nhá nhem, trao đổi nhũng suy nghĩ về tương lai. Cuộc chiến Việt Nam có vẻ sẽ mang lại kết thúc không tốt đẹp. Tôi hỏi ông, với tư cách là một người ngoài cuộc, ông thấy Singapore và triển vọng về sự ổn định và phát triển như thế nào và nguy hiểm sẽ phát xuất từ đâu. Ông ta trả lời thẳng và súc tích. New Zealand thì thuần khiết, giàu có, da trắng và dân chủ. Singapore thì “lai căng”, một thành phố hoàn toàn theo phong cách Tây phương, dân chủ ở trung tâm Đông Nam Á, song khác biệt và duy nhất. Thành công cũng chính là mối nguy; Singapore đã để lộ mình.
Quan hệ của chúng tôi rất tốt. Tôi rất buồn khi ông qua đời vài tháng sau đó, tháng 8/1974. Hơn 20 năm sau khi ông ta nói điều này, khi Úc và New Zealand muốn gia nhập vào khối châu Á trong cuộc họp của các nhà lãnh đạo chính phủ các nước Á, Âu tại Bangkok năm 1996, thì Thủ tướng Mahathir phản đối, cho rằng họ không phải là một phần của châu Á. Đây là phản ứng thiên về bản năng của ông ta, không được các nhà lãnh đạo khác đồng tình. Tôi tin là không bao lâu sau, logic về địa lý và kinh tế sẽ đánh bại các thành kiến cũ, và Úc cùng New Zealand sẽ gia nhập vào trong ASEM.
Robert Muldoon đã thắng trong cuộc bầu cử tháng 12/1975 và tiếp tục là Thủ tướng đến năm 1984. Ông cao lớn, đầu to và hói, gương mặt thiếu hòa khí và rất hiếu chiến, ông dũng cảm đương đầu và tự do nói thẳng vào mặt các vị đương nhiệm người Úc như Malcolm Fraser và Bob Hawke, để nhắc với họ rằng Úc không thể coi New Zealand như là mặc nhiên không cần tính đến.
Ông muốn tách thể thao ra khỏi chính trị và ra sức bảo vệ đội bóng bầu dục All Blacks của New Zealand chơi ở Nam Phi và tiếp đón một đội bóng bầu dục Nam Phi ở New Zealand. Trước sự ngạc nhiên của ông, vẫn có sự chống đối họ bằng bạo lực ở New Zealand. Qua vài năm sau, tôi thấy ông phát hiện ra tại các cuộc họp của Khối Thịnh vượng chung là New Zealand sẽ bị cô lập nếu ông cứ tiếp tục các chính sách của mình. Vì thế, sau các vất vả để bảo vệ vị trí của mình, tại CHOGM ở London vào năm 1977, ông đã đồng ý tuyên bố tẩy chay thể thao Nam Phi vì sự phân biệt chủng tộc. Nó không đáng để đấu tranh, ông không giấu tình cảm của mình. Vào năm 1979, ông là một trong số ít người tại CHOGM ở Lusaka cảm thông với Thatcher về việc bà đứng về phía Rhodesia và Nam Phi. Nhưng so với Thacher, ông sớm nhận ra rằng làn sóng lịch sử sẽ chống đối địa vị thống trị của người da trắng ở châu Phi. Không giống Whitlam, Muldoon không bao giờ làm ra vẻ là một người Á Phi da trắng. Thay vào đó, ông tập trung thời gian và tiềm lực vào các đảo Nam Thái Bình Dương. Ông là một kế toán có năng lực, với một đầu óc có thể làm chủ các chi tiết và nghiền nhuyễn các con số. Những phân tích của ông về các vấn đề kinh tế nghe có vẻ sâu sắc và cứng cỏi nhưng ông thật mềm mỏng với việc thi hành chính sách. Khi giá cả nông sản hạ, ông vẫn giữ giá để trợ giúp cho nông dân. Khi ngành chế biến gặp khó khăn, ông bảo vệ họ hơn nữa.
Khó khăn được giao cho người kế nhiệm đảng Lao động của ông, David Lange, bắt đầu tiến trình cắt giảm bao cấp, gây ra đau đớn lớn cho những người vốn đã được nuông chiều. Lange là một nhân vật khác thường, cao vừa tầm nhưng to bề ngang, tính cách dễ chịu, đầu óc nhanh nhạy và một trí nhớ tốt. Ngay sau khi thắng cử năm 1984, ông có ghé thăm tôi ở Singapore trên đường đến châu Phi để phát triển thương mại với họ. Tôi bày tỏ nghi ngờ việc này có khả thi hay không. Ông trách tôi hoài nghi, nhưng về sau phải thừa nhận là tôi đúng. Ông là người có óc hài hước và tiếng cười dễ lan truyền đến người khác.
Vào năm 1972, khi người Úc công bố là họ sẽ rút quân khỏi Malaysia vào năm 1973, New Zealand quyết trụ lại và họ đã làm như thế suốt 17 năm. Bản chất mạnh mẽ hơn khiến họ có biệt hiệu là “những binh sĩ Nê–pan trong quân đội Anh ở Nam Thái Bình Dương”. Tuy nhiên, người New Zealand cũng đã trải qua một biến đổi lớn lao vào tháng 7/1984 khi họ bỏ phiếu cho Lange và đảng Lao động của ông. Đảng của ông quyết định họ không muốn một Thái Bình Dương sử dụng năng lượng hạt nhân và đứng về phía chống đối mạnh mẽ việc sử dụng năng lượng hạt nhân. Họ sắp sửa gây nguy hại đến hiệp ước ANZUS của họ với Hoa Kỳ bằng cách từ chối cho phép bất kỳ tàu năng lượng hạt nhân hay bất kỳ tàu chở vũ khí hạt nhân nào đi qua hoặc cập bến New Zealand, dẫn đến kết quả là hải quân Hoa Kỳ bị khóa chặt. Đây là sự đảo ngược thái độ truyền thống đáng kinh ngạc của họ. Vào tháng 10 năm ấy, khi tôi gặp Lange ở Singapore, tôi nói với ông rằng các chiến thuyền hạt nhân thường xuyên qua eo biển Malacca và eo biển Singapore, rằng chúng tôi nhận ra mối nguy hiểm của sự cố hạt nhân nhưng sự hiện diện của hải quân Mỹ trong khu vực đã mang lại cho chúng tôi 30 năm ổn định, ông vẫn không bị thuyết phục. Đối với ông và Đảng của ông, một thế giới không có vũ khí hạt nhân là cách duy nhất để có một tương lai an toàn.
Vào năm 1986, ở Canberra, Bob Hawke yêu cầu tôi thuyết phục Lange rằng ANZUS là tốt nhất cho lợi ích lâu dài của họ. Khi tôi đến Wellington, tôi lại tranh luận với Lange rằng chính sách chống hạt nhân của ông là quá cẩn trọng, nhưng vẫn không lay chuyển được ông. Tuy nhiên, Jim Bolger, nhà lãnh đạo đảng đối lập đồng ý với tôi rằng các nước nhỏ như Singapore và New Zealand sẽ chỉ có chỗ để thao diễn và tiến bộ nếu Hoa Kỳ tiếp tục duy trì cân bằng thế giới. Ông nói thêm rằng: “Lập trường chống sử dụng năng lượng hạt nhân của New Zealand chỉ càng thúc đẩy thêm sự chia rẽ của nó mà thôi.” Nhưng khi ông trở thành Thủ tướng vào tháng 11/1990, ý kiến của công chúng khiến cho ông không thể đi ngược lại chính sách này. New Zealand đã quyết định không dính đến những phiền toái của thế giới cho đến khi có một sự sắp đặt khác.
Với tư cách là một Thủ tướng đảng Lao động, Lange hiển nhiên cảm thấy ông phải bênh vực cho người bị ức hiếp. Nhưng về các cải tổ kinh tế và mở cửa nền kinh tế do động lực của thị trường thì ông có thể bị thuyết phục. Đó là bởi vì Bộ trưởng Bộ Tài chính của ông, Roger Douglas, là một người tâm đắc với thị trường tự do và đã lôi kéo Thủ tướng về cùng một ý với mình trong suốt nhiệm kỳ đầu tiên. Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ thứ hai, Lange, dưới sức ép của nội các và những người cùng Đảng, đã rút khỏi các cải cách không được ưa chuộng. Điều này kéo dài thêm tình trạng khó chịu cho các nông dân New Zealand, các nhà sản xuất và người tiêu thụ.
Vào tháng 12/1984, Lange ra thông báo, mà không hội thảo trước, về việc hủy bỏ tình trạng ưu tiên chung cho Singapore (General Scheme Preferences – GSP)29 dành cho hàng xuất khẩu của chúng tôi. Làm như thế, New Zealand đã chuyển biến sớm hơn Mỹ và cộng đồng châu Âu. Khi Bộ trưởng Ngoại giao của chúng tôi giải thích với ông ta rằng tổn thất do tình trạng hủy bỏ tình trạng GSP của New Zealand là không đáng kể, nhưng chúng tôi sẽ phải chịu mất mát lớn nếu người Mỹ và người châu Âu cũng làm theo họ. Lange đã chấp nhận lời trình bày và phục hồi tình trạng GSP cho chúng tôi.
Không có lượng dự trữ lớn vàng, kim cương, than đá, uranium và các khoáng sản khác để mang đến một cuộc sống sung sướng như Úc, nên New Zealand không mang tư tưởng là “một đất nước may mắn”. Khi giá thực phẩm xuất khẩu của họ giảm vào những năm 80, Lange và Douglas giảm mức trợ giá cho nông dân và khiến cho New Zealand tích cực cạnh tranh hơn. Đó chính là công trạng lớn lao của Thủ tướng Jim Bolger. Khi Đảng Quốc gia của ông trở lại nắm quyền vào năm 1990, ông ta đã tiếp tục các chính sách tự do này.
Tôi chưa bao giờ có sự bất đồng nào với các nhà lãnh đạo New Zealand, ngay cả với Bob Muldoon, người có thể gay gắt và nóng tính trong các cuộc tranh cãi. Theo như tôi biết thì người New Zealand tôn trọng các cam kết của họ.