Vào ngày thứ Tư, 12/9/1945, khoảng 10 giờ 30 phút sáng, tôi đi bộ đến Tòa thị sảnh, nơi nghi thức đầu hàng sẽ được tiến hành, và đứng chờ ở bên kia đường. Việc chờ đợi này thật đáng giá. Tôi thấy một nhóm bảy sỹ quan cao cấp Nhật Bản từ đường High Street đi tới, có quân cảnh Anh đội mũ đỏ và đeo băng tay, đi hộ tống. Dẫn đầu bọn họ là tướng Itagaki, Tổng tư lệnh quân đội ở Malaya và Singapore. Không như nhiều sỹ quan Nhật khác, họ không hề lê bước mà đi một cách nghiêm chỉnh. Đám đông la hét, huýt sáo, giễu cợt, nhưng những người Nhật ấy vẫn điềm tĩnh và trang nghiêm, nhìn thẳng phía trước. Họ đến để ký hiệp ước đầu hàng chính thức theo lệnh của Nhật hoàng. Sau đó người ta thấy sỹ quan Nhật ở nhiều địa điểm khác nhau xếp những thanh gươm võ sĩ đạo của họ thành đống. Họ thừa nhận sự bại trận, bị tước vũ khí, và trở thành tù nhân chiến tranh. Nhưng bảy vị tướng hiện đang bước lên các bậc thềm Tòa thị sảnh thì đại diện cho một đội quân chưa bị đánh bại trên chiến trận. Họ có lẽ sẽ chiến đấu cho đến chết, và họ đã khiến cho những người Singapore căm ghét họ phải tin rằng họ thà xuống địa ngục, mang theo tất cả mọi người, còn hơn là phải đầu hàng.
Khoảng mười lăm phút sau, ngài Louis Mountbatten, Tổng tư lệnh Anh, Tư lệnh Đông Nam Á, xuất hiện trong bộ quân phục hải quân màu trắng của mình. Ông ta được các tướng lĩnh, các đô đốc của mình, và khoảng bảy hoặc tám sỹ quan đại diện cho quân đội Đồng minh hộ tống. Tay phải của ông đưa cao chiếc mũ hải quân của mình và hoan hô ba lần với những toán quân đang lập thành hàng rào ngay trước các bậc thềm. Ông yêu thích các bộ quân phục, các cuộc duyệt binh cùng các nghi lễ.
Đây là những phút giây tràn ngập phấn khởi. Cơn ác mộng thời Nhật chiếm đóng đã qua và người dân nghĩ thời kỳ đẹp đẽ sắp trở lại. Có những dấu hiệu hứa hẹn tốt. Những toán lính hào phóng với những điếu thuốc của họ – loại thuốc Players Navy Cut trong bao giấy, thứ không thể kiếm được trong ba năm qua. Bia chất lượng tốt, rượu Johnnie Walker và rượu gin Gordon đã có mặt trong chợ, và chúng tôi tin rằng nay mai sẽ có đầy các thứ gạo, trái cây, rau quả, thịt và đồ hộp. Điều này không phải một sớm một chiều. Nhưng suốt mấy tuần lễ đầu tiên, không khí tưng bừng hớn hở. Người dân thật sự hạnh phúc hân hoan đón mừng người Anh trở lại.
Đầu năm 1946, người dân nhận ra rằng không hề có chuyện trở lại một Singapore tự do thoải mái, ổn định và hòa bình như cũ. Thành phố chật ních những người mặc quân phục. Họ đầy trong các quán cà phê, các quầy rượu và quán bia mới mở. Những công sở thuộc địa trước chiến tranh không thể hoạt động lại ngay được, vì những nhân viên người Anh ở đó đã chết hoặc đang hồi phục sau thời gian tù đày. Tàu cập bến thưa thớt và hàng hóa thì ngay tại nước Anh cũng còn khan hiếm. Có vẻ như phải mất nhiều năm nữa thì nguồn hàng hóa như thời trước chiến tranh mới hồi phục lại. Ngay cả dân bản xứ đã từng làm việc cho chính phủ cũng không thể quay lại chỗ làm cũ của họ, và nhiều người vẫn đang thất nghiệp. Đó là một thế giới hỗn loạn, nơi bọn đầu cơ phát triển ở Singapore cũng như đã phát triển ở Anh (ở đó chúng được gọi là bọn chợ đen). Nhiều việc kinh doanh hàng ngày vẫn được tiến hành trên thị trường đen – giờ gọi là thị trường tự do.
Nhiều xe jeep quân đội và xe mô tô trên đường phố, nhưng không có xe buýt và ở tô mới. Xe điện thì cũ nát, và đường phố đầy ổ gà; điện thoại thì cũ và đường dây nghe không rõ vì không có sẵn thứ để thay thế; nguồn điện lại thiếu thốn. Sẽ phải mất một thời gian để ổn định các thứ. Chúng tôi đã sống với quá nhiều mong đợi về “những ngày tháng tốt đẹp xa xưa” suốt những năm tháng đau khổ đó. Những hy vọng của chúng tôi, dựa trên nỗi luyến tiếc quá khứ, thì quá cao, và chắc chắn chúng tôi sẽ bị thất vọng. Cơ sở hạ tầng đã xuống cấp, tài sản bị mất đi hoặc bị phá hủy, người dân kẻ chết, kẻ già yếu hoặc bệnh tật. Cuộc sống phải tiếp tục nhưng nó sẽ không còn được như những ngày tháng tốt đẹp xa xưa.
Tuy nhiên, Chính quyền Quân đội Anh, dù có những thiếu sót, vẫn là một xoa dịu lớn lao so với sự đàn áp và khủng bố của người Nhật trước đó. Các sỹ quan và thường dân Anh biết rằng dân bản xứ hân hoan chào đón họ trở lại, và họ đã đáp lại sự nồng nhiệt đó và làm những điều tốt nhất cho chúng tôi. Nhiều binh lính và sỹ quan đã chia sẻ khẩu phần quân đội của họ cũng như thuốc lá và rượu với những người dân mà họ tiếp xúc. Nhiều người Singapore hiểu tiếng Anh, văn hóa Anh và chính thể Anh. Thậm chí những người thất học cũng lờ mờ quen thuộc với những bộ phận của hệ thống thuộc địa Anh mà họ đã được tiếp xúc.
Có lẽ những người Hoa ở vùng eo biển sẽ sung sướng được trở lại với hình thái xã hội mà họ đã đồng hóa từ lâu. Dù vẫn còn giữ nhiều nét văn hóa Trung Quốc, nhiều người trong số họ đã thôi sử dụng tiếng địa phương của mình, và chỉ nói tiếng Malay. Họ là con cháu của những người nhập cư đầu tiên không mang phụ nữ từ Trung Quốc theo và vì thế họ đã cưới những phụ nữ bản xứ. Phần lớn bọn họ trung thành với nước Anh, và họ gởi con cháu đến các trường tiếng Anh ở địa phương với hy vọng rằng cuối cùng chúng sẽ trở thành những viên chức chính phủ và những chuyên viên trong một thuộc địa được cai trị bằng tiếng Anh. Phần tử trung thành nhất gia nhập Hội Anh Hoa vùng eo biển, và được dân chúng gọi là người Hoa quý tộc. Các thành viên lãnh đạo của họ được phong tước quý tộc.
Nhưng những người Hoa quý tộc này chỉ chiếm một phần mười dân số. Còn lại là những người Hoa nói tiếng Hoa mới đến Singapore gần đây. Họ không nói tiếng Anh mà nói tiếng địa phương của họ – chủ yếu là tiếng Hokkien (tiếng Phúc Kiến), Teochew (Tiều Châu), Cantonese (Quảng Đông), Hakka và Hainanese (Hải Nam). Con cái họ học ở các trường tiếng Hoa, ở đó chúng học tiếng Quan thoại. Sự giao tiếp của họ với chính quyền Anh thì rất ít, họ có một cuộc sống riêng và sau chiến tranh họ cũng không bị đồng hóa gì nhiều hơn thời trước đó.
Lòng trung thành của họ hướng tới Trung Quốc chứ không phải nước Anh. Chính họ đã dấn sâu vào rừng rậm Malaya để chiến đấu chống Nhật như những du kích quân trong Quân đội Nhân dân Malay kháng Nhật (MPAJA), vốn là lực lượng quân sự của Đảng Cộng sản Malay. Họ hướng tới cái ngày mà họ không chỉ tống cổ bọn Nhật, mà cả bọn Anh nữa. Trong tình hình quyền lực còn lơ lửng khi người Nhật bất ngờ đầu hàng mà người Anh chưa trở lại, họ là lực lượng hoạt động mạnh hơn cả.
Ở Malaya, họ tiếp quản vài thị trấn nhỏ hơn, lập cổng chào để đón mừng du kích quân như những người hùng thật sự trong cuộc chiến chống Nhật, và hoạt động như chính quyền địa phương trên thực tế.
Thật may họ không thử làm điều đó ở Singapore, nhưng họ cũng gây nhiều rối loạn. Họ xuất hiện trên đường phố trong những bộ quân phục kaki đủ kiểu với những chiếc mũ vải bắt chước kiểu mũ của Đệ Bát lộ quân Cộng sản Trung Quốc – mềm, rũ, với ba ngôi sao đỏ ngay bên trên lưỡi trai. Trong men chiến thắng, họ khá mạnh tay. Họ dùng vũ lực trưng dụng tài sản và lập ra tòa án nhân dân để trừng phạt tức thì và đơn giản những người cộng tác với Nhật bất kể chủng tộc. Trong một vụ nọ, 20 mật thám người Hoa bị vây bắt và tống vào cũi nhốt heo chờ xét xử.
Cũng có trò truy bức cung và ngấm ngầm đe dọa các doanh nhân về sự cộng tác trước đó của họ với kẻ thù. Nhiều người tên tuổi bị ép buộc, ở mặt tâm lý hoặc thể chất, phải đóng góp thật nhiều cho MPAJA để chuộc lại những tội ác trong quá khứ của họ. Bọn lưu manh trẻ tuổi đi khắp thành phố công khai sử dụng giấy ủy nhiệm của MPAJA để moi tiền hoặc hàng hóa của những ai đã từng làm ăn với người Nhật. Quân đội Anh không thể tái lập an ninh trật tự trước thế mạnh của MPAJA và trước chủ nghĩa cơ hội của bọn găng–xtơ đang giả vờ như từng góp phần trong cuộc kháng Nhật. May thay, vì họ không có phương tiện để tới Singapore, nên hầu hết thành viên MPAJA vẫn ở tại Malaya, nơi họ hoạt động hữu hiệu hơn vì đó là vùng đất quen thuộc. Chính quyền Quân đội Anh đề nghị trả MPAJA 350 đôla cho mỗi du kích quân chịu giao nộp vũ khí. Từ tháng 12/1945 đến tháng 1/1946 có khoảng 6.500 du kích nộp vũ khí như thế, trong đó có vài trăm quân ở Singapore. Vào ngày 6/1, người Anh tổ chức một nghi lễ bên ngoài Tòa thị sảnh, tại buổi lễ có một toán nhỏ quân MPAJA mặc quân phục diễu hành qua trước mặt Huân tước Louis Mountbatten, người đã gắn mề đay cho 16 vị chỉ huy của họ. Chin Peng, được mô tả trên báo chí như một lãnh tụ của du kích quân cộng sản, nhận huy chương Burma Star (1939–1945) và War Star, sau đó ông ta giơ nắm đấm lên chào. Việc thừa nhận chính thức sự đóng góp của MPAJA trong việc đánh bại quân Nhật đã cho họ một cơ hội mà họ sẽ tận dụng để tăng cường thực lực. Trong khi đó, họ vẫn bí mật tích trữ vũ khí để sử dụng trong tương lai.
Cộng sản đã có thể tuyển mộ một số người có giáo dục Anh vào một mặt trận liên kết mà họ lập ra. Một nhóm những người trí thức
– luật sư, giáo viên, những sinh viên đại học Raffles và những sinh viên trở về từ đại học Cambridge – lập thành tổ chức Liên hiệp Dân chủ Malay, mà bộ chỉ huy của nó đặt ở những căn phòng tồi tàn bên trên sàn nhảy của quán rượu Liberty trên đường North Bridge. Họ lôi cuốn được Phillip Hoalim, một luật sư và là bạn của gia đình tôi, ngồi vào chiếc ghế chủ tịch của tổ chức. Họ cần ông ta như một thứ vỏ bọc để điều hành tổ chức, và tôi trở thành một người khách ngẫu nhiên đối với những hoạt động của họ thông qua sự quen biết với ông ta. Người Anh đã tuyên bố thành lập Liên hiệp Malay, bao gồm chín bang Malay và hai thuộc địa Penang và Malacca của Anh, không có Singapore. Điều này có nghĩa là Singapore vẫn là thuộc địa của Anh. Đó là điều không thể chấp nhận được, và Tổ chức Liên hiệp Dân chủ Malay đòi hỏi nền độc lập cho cả Malaya và Singapore như một thực thể thống nhất.
Phillip Hoalim giúp soạn ra dự thảo hiến pháp, nhưng dù tôi có xem qua bản dự thảo, tôi cũng không hề có dính dáng gì vào đó. Về phía họ, những người cộng sản xem mọi đàm phán về sự thay đổi hiến pháp là không quan hệ. Điều họ muốn là toàn bộ quyền lực. Tổ chức Liên hiệp Dân chủ Malay chỉ là một mặt trận để huy động giới Tây học (hay Anh học) giúp họ đạt được nó. Nhưng khi họ dùng đến đấu tranh vũ trang để chống lại người Anh vào năm 1948 nhằm giành chính quyền, thì tổ chức Liên hiệp Dân chủ Malay bị dẹp bỏ.
Tuy nhiên trước khi điều đó xảy ra, họ đã hành động khá nhiều. Ngay khi rời khỏi rừng, những người cộng sản bắt đầu phô diễn sức mạnh, sử dụng các nghiệp đoàn. Ngày 21/10/1945, họ huy động 7.000 công nhân trong các xưởng đóng tàu ở Tanjong Pagar và Khu cảng Singapore tham gia bãi công. Vài ngày sau họ tổ chức một cuộc mit–tinh quy mô với 20.000 công nhân tham gia và nhân đó ra mắt Tổng liên đoàn Lao động. Theo mô hình cộng sản tiêu biểu, công đoàn thu nhận công nhân từ mọi ngành nghề trong xã hội cũng như từ các tổ sản xuất. Khi họ kêu gọi một cuộc tổng đình công vào ngày 29/1/1946, trong một cuộc biểu dương sức mạnh sau khi Chính quyền Quân đội Anh giam giữ vài người cộng sản, khoảng 170.000 công nhân từ các bệnh viện, xưởng đóng tàu, căn cứ Hải quân, xưởng cao su, rạp hát, quán rượu và phương tiện vận chuyển công cộng ngưng làm việc, và các cửa hàng đóng cửa. Nó được gọi là một hartal, đóng cửa hiệu, một từ ngữ xuất phát từ phong trào dân sự bất tuân pháp luật ở Ấn Độ.
Cuộc đình công này không chỉ lôi cuốn những người buôn bán lẻ, mà cả những người đánh xe ngựa, xe kéo, tài xế taxi cũng tham gia, vì nhiều lý do. Cuộc sống trong thành phố tạm ngưng. Nhưng những người cộng sản e rằng họ không thể kéo dài cuộc đình công. Sau khi đã chứng tỏ họ có thể điều khiển mọi người hưởng ứng biện pháp đóng cửa hiệu của mình, họ ra lệnh ngưng đình công vào ngày thứ nhì.
Những gì tôi chứng kiến trong thời kỳ ngay sau chiến tranh đã hoàn thiện hiểu biết của tôi về sự bất công và ngu xuẩn của kiếp người. Nếu ba năm rưỡi Nhật chiếm đóng đã cho tôi tốt nghiệp về (môn học) thực tế cuộc sống, thì năm đầu tiên trên một đất nước Singapore mới giải phóng là khóa học sau đại học của tôi. Thật khác xa với ký ức của tôi về những năm 1930 dưới chế độ thuộc địa. Những công chức Anh sống sót qua tù đày đã được đưa về nhà để chữa bệnh và an dưỡng, và những sỹ quan lâm thời của Chính quyền quân đội Anh điều hành những bộ phận ứng phó.
Sự thật là họ được tăng cường với một số viên chức thuộc thế hệ tiền chiến, những kẻ đã xin nghỉ phép khi người Nhật đến, hoặc đã thoát đi được đúng lúc. Nhưng họ không tiếp cận được với những thay đổi đã xảy ra. Những người hữu trách hiện nay – những thiếu tá, đại tá, thiếu tướng – biết họ sẽ chỉ nắm quyền cho đến khi được giải ngũ, khi đó những ủy ban thời chiến sẽ tan biến như cỗ xe của Cô bé Lọ lem. Tận trong thâm tâm, họ biết rồi đây họ sẽ trở về đời sống dân sự, và nhiều người đã tận dụng quyền lực tạm thời của mình. Những nhu cầu của họ, than ôi, cũng giống y như của những sỹ quan Nhật – những thứ gì nhỏ bé có giá trị và dễ dàng cất giấu trong người để mang về quê hương nước Anh khi họ hết thời hạn. Người ta lại lùng mua những món hàng ấy. Để bù lại, họ cấp giấy phép và hàng hóa thuộc loại khan hiếm cho những người bản xứ, và đó là những cơ hội để kiếm tiền. Nhưng họ không phải là những kẻ áp bức tàn bạo như người Nhật.
Cùng với sự ra đi của người Nhật, nhiều ngôi nhà bỏ trống, tôi và mẹ tôi tìm một chỗ ở thích hợp để dọn đến, vì chúng tôi phải rời khỏi khu China Building, và hiệu buôn trên đường Victoria là không thích hợp. Trên đường Oxley, khu trung lưu, nơi những người châu Âu bỏ trống nhà họ từ năm 1942 và những viên chức dân sự Nhật đã chiếm ngụ, chúng tôi thấy hai căn nhà giống hệt nhau – số 38 và 40 – do một lái buôn Do Thái xây cất và đặt tên cho chúng là Castor và Pollux. Chúng trống trơn trừ vài món đồ cồng kềnh, và chúng tôi quyết định hỏi thuê căn số 38. Nó là một ngôi nhà lớn, nhiều ngóc ngách với năm phòng ngủ, và ba phòng nữa ở phía sau vốn được dùng làm phòng cho gia nhân. Tôi gặp Goerge Gaw, một người Java gốc Hoa bạn của gia đình, hiện đang phụ trách Văn phòng Quản lý Tài sản kẻ thù, và ông ta vui lòng cho chúng tôi thuê với giá như hồi trước chiến tranh. Tiền thuê hiện nay phải trả theo đôla Straits (đồng tiền thuộc địa dùng ở Singapore trước chiến tranh) – khoảng 80 đôla một tháng, một số tiền thật sự lớn – nhưng chúng tôi quyết định thuê.
Ba tôi trở lại làm việc cho hãng Shell, lần này thì phụ trách kho của họ ở Pasir Panjang tại Singapore. Trong khi đó tôi phải quyết định nên làm gì. Việc buôn bán trên thị trường công khai vẫn còn sinh lợi, nhưng chủng loại hàng hóa đã thay đổi và điều đó khiến công việc có nhiều rủi ro hơn. Tôi không thể đoán trước được món hàng đang khan hiếm nào sẽ bất ngờ trở nên dồi dào nếu như chúng được nhập khẩu vào để phục vụ quân đội. Vì vậy, như một giải pháp khác, tôi đã gặp nhiều sỹ quan Anh phụ trách về công chính để xem họ có công trình nào cần xây dựng hay không. Sau hai, ba lần dò hỏi, tôi đã ký được hợp đồng với một lữ đoàn Ấn Độ đang coi sóc kho quân nhu của Nhật trên đường Alexandra. Tôi nói chuyện với viên thiếu tá, một người Anh gầy cao lêu nghêu, đang cần lao động để chuyển hàng hóa của Nhật ra khỏi kho và thay vào đó bằng quân nhu của Anh. Người bạn Thượng Hải Low You Ling của tôi cung cấp cho ông ta 100 – 150 công nhân với giá 2 đôla một ngày, và em trai Dennis của tôi làm thủ quỹ kiêm người phát lương. Quân đội trả tiền cho chúng tôi sau khi đếm đầu người vào cuối ngày, rồi chúng tôi trả lương cho công nhân. Chúng tôi cũng có làm một số công trình xây dựng và được trả công từng vụ một. Công việc bắt đầu từ tháng 10/1945 và khiến tôi bận rộn mãi đến tháng 5/1946.
Vào tháng 3/1946, Dennis bị một tai nạn nghiêm trọng trong khi đạp xe về nhà vào một tối sau khi gom tiền để trả cho công nhân. Một chiếc xe tải chạy ngang đã đụng phải chú ấy và lôi chú ấy vài mét trên đường bên ngoài Đài Tưởng niệm Victoria. Cánh tay trái chú ấy hầu như bị xé rời khỏi vai, và mặt thì bị thương nặng. Tôi lao ngay tới bệnh viện để gặp chú ấy. Câu đầu tiên chú ấy hỏi tôi là không biết tiền có bị mất không. Tôi thấy nhói trong tim. Đó chỉ là vài trăm đôla, nhưng chú ấy rất quan tâm đến công việc của mình. Tôi hết lòng an ủi chú ấy. Bác sĩ phẫu thuật đã mổ thành công cho chú ấy, nhưng Dennis vẫn đau đớn và không thể làm việc trong nhiều tháng.
Suốt thời gian ấy, tôi cũng bận rộn với những gì tôi sẽ phải làm cho việc học còn dang dở của tôi và về sự gắn bó ngày càng tăng của tôi với Choo. Tôi không hề lạc quan về việc mình có thể hoàn tất khóa tốt nghiệp đúng thời hạn ở đại học Raffles. Ít nhất cũng phải một năm nữa trường mới bắt đầu dạy lại. Rồi tôi sẽ phải mất một hay một năm rưỡi nữa mới tốt nghiệp. Tổng cộng tôi sẽ mất hai hoặc ba năm. Tôi thảo luận chuyện này với mẹ tôi. Chúng tôi quyết định rằng, với số tiền tiết kiệm và nữ trang của mẹ tôi, cộng với tiền tôi kiếm được từ nguồn chợ đen và công việc xây dựng của mình, gia đình có thể nuôi tôi và Dennis học luật tại Anh. Tôi trù tính việc sang Anh càng sớm càng tốt thay vì quay trở lại trường đại học Raffles để giành học bổng Nữ hoàng.
Tháng 10 và 11/1945, tôi giới thiệu Choo với người thủ thư tại thư viện Raffles (giờ là Thư viện quốc gia) và cho cô một công việc tạm thời ở đó. Gia đình cô đã chuyển tới một ngôi nhà gỗ một tầng trên đường Devonshire, cách nhà tôi gần hai cây số, và tôi thường đi bộ đưa cô về nhà. Thỉnh thoảng chúng tôi ngồi vào một nơi yên tĩnh trong sân ngôi giáo đường Do Thái Chesed–El tại Oxley Rise, gần nơi đã từng là một trong những trụ sở của Kempeitai. Nhưng vào tháng 12/1945, tôi đã có đủ khả năng để mua một chiếc xe hơi cũ, một chiếc Morris tiền chiến được tân trang lại với đồ phụ tùng hiện có thể kiếm được từ quân đội Anh. Khi công việc làm ăn của tôi trở nên phát đạt hơn, tôi bán nó có lãi sau vài tháng và mua một chiếc Ford V8 tiền chiến, được sửa chữa lại ngon lành. Nó hẳn đã từng được một viên tướng Nhật sử dụng trong suốt thời kỳ chiếm đóng.
Vào ngày cuối năm, tôi đưa Choo đến dự buổi tiệc dành cho những người trẻ tuổi tại biệt thự Mandalay trên đường Amber, lâu đài cạnh bờ biển của bà Lee Choon Guan, một người Hoa sinh sống lâu đời ở đây và là một quả phụ giàu có. Trước khi buổi tiệc kết thúc tôi dẫn cô ấy ra khu vườn quay ra bờ biển. Tôi nói với cô ấy rằng tôi không dự định trở lại đại học Raffles nữa mà sẽ sang Anh học luật. Tôi hỏi liệu cô ấy có chờ tôi cho đến ba năm sau khi tôi trở thành luật sư không. Choo hỏi lại tôi có biết là cô ấy lớn hơn tôi hai tuổi rưỡi không. Tôi nói tôi biết và đã cân nhắc chuyện này cẩn thận rồi. Tôi đã già trước tuổi và dù sao thì phần lớn bạn bè tôi cũng già hơn tôi. Vả lại, tôi muốn một người ngang hàng với tôi, chứ không phải một người chưa đủ lớn và cần phải được chăm sóc, và tôi không chắc mình sẽ tìm được một người con gái khác ngang hàng và chia sẻ được những quan tâm của tôi. Cô ấy nói sẽ chờ tôi. Chúng tôi không nói chuyện này với cha mẹ. Thật khó làm cho họ đồng ý đối với một lời hứa lâu như vậy. Đây là cách hai chúng tôi cư xử với nhau; khi chúng tôi gặp phải những khó khăn cá nhân, chúng tôi đối mặt với chúng và phân loại chúng ra. Chúng tôi không tìm cách lẩn tránh hay che giấu chúng đi. Việc tìm hiểu nhau đã nở hoa. Tôi bắt đầu cho kế hoạch rời Singapore năm đó, 1946.
Tháng 3, tôi viết một lá thư cho Middle Temple, một trong bốn tổ chức pháp lý ở London, kèm theo kết quả học tập của tôi tại trường Certificate. Trong vòng một tháng họ trả lời rằng họ sẽ nhận tôi nếu như tôi trình diện và làm thủ tục nhập học. Với lá thư này, tôi đến đặt vấn đề với viên thiếu tá Anh mà tôi đang làm việc cho ông ta và hỏi cách để đi trên một trong những chiếc tàu đang bắt đầu đến Tanjong Pagar để chở quân lính giải ngũ về Anh. Viên thiếu tá giới thiệu tôi với viên sỹ quan lo việc vận chuyển binh lính. Tháng 5 tôi gặp một người trong bộ tham mưu của ông ta. Có thể nói tôi đã gây được ấn tượng vì trong những ngày ấy, ít người bản xứ có thể nói tiếng Anh đúng văn phạm và chuẩn như dân Anh mà không nặng giọng. Tôi giải thích tình trạng khó khăn của mình, về việc học của tôi bị gián đoạn bởi chiến tranh ra sao khiến bây giờ tôi bị phí mất cả ba năm rưỡi, ngoài ra tôi còn được Middle Temple thu nhận. Tôi trưng ra lá thư của Middle Temple và nói tôi rất cần một chuyến đi để tới nước Anh. Ông ta đồng tình và hứa sẽ giúp. Vào tháng 7, ông ta tặng tôi một vé ưu tiên trên một tàu chở quân mà nó sẽ đưa tôi đến London vào tháng 10.
Trong hai tháng quay cuồng trước khi rời khỏi Singapore, tôi cùng mẹ tôi lùng kiếm khắp nơi để tìm quần áo len cho mùa đông ở Anh. Chúng tôi mua chúng trong khu chợ trời trên đường Sungei, nơi thường buôn bán những đồ ăn cắp trước chiến tranh và đã sinh hoạt lại nhờ vào những món ăn cắp vặt hoặc những thứ mua từ binh lính Anh, phần lớn đồ ở đó được binh lính bán lại sau khi họ được cấp phát để chuẩn bị giải ngũ, hoặc trở về Civvy Street, theo cách họ thường nói. Mẹ tôi mua một cái hòm gỗ thật to, có bịt kim loại ở mỗi góc, và xếp vào đó một cái mền, một cái mền bong, một áo khoác, hai áo khoác thể thao, mấy túi vải và một bộ com–lê may ở tiệm may nổi tiếng nhất ở High Street.
Trước khi tôi xuống tàu, mẹ tôi cũng đã làm hết sức mình để chắc rằng tôi sẽ rời khỏi Singapore sau khi đã thề hứa với một cô gái người Hoa nào đó, và như thế sẽ khó có thể trở về với một cô gái Anh. Nhiều sinh viên đã trở về với những cô vợ người Anh, với kết quả thường không hạnh phúc. Gia đình họ bị xào xáo, các cặp chia tay nhau, nếu không thì phải qua sống ở nước Anh vì họ không thể hòa nhập vào xã hội thuộc địa Anh, nơi mà họ bị đối xử như kẻ kém đẳng cấp nếu không muốn bị tẩy chay công khai. Bà lần lượt giới thiệu cho tôi ba cô gái đàng hoàng có kiến thức phù hợp và địa vị xã hội tốt. Tôi chẳng quan tâm. Họ hợp tuổi, gia đình họ khá giả, họ coi được. Nhưng họ chẳng khiến tôi chú ý. Tôi hoàn toàn hạnh phúc khi ở bên Choo. Cuối cùng tôi quyết định nói hết với mẹ. Bà là một phụ nữ sắc sảo. Một khi bà nhận ra tôi đã quyết định rồi, bà thôi việc tìm kiếm. Thái độ của bà với Choo đã đổi thành một tình cảm thân thiện nồng ấm của một bà mẹ chồng tương lai.
Trước đây tôi đã nói với bà về Choo, cô gái đã đánh bại tôi trong kỳ thi môn kinh tế và tiếng Anh tại Đại học Raffles. Bà cũng đã gặp Choo trong suốt những ngày chúng tôi làm hồ dán và đã đến thăm gia đình cô. Cha của Choo, Kwa Siew Tee, giám đốc một chi nhánh ngân hàng của Oversea–Chinese Banking Corporation, một người Java gốc Hoa giống như cha và bà nội tôi. Mẹ cô ấy là người Hoa sinh tại Singapore như mẹ tôi vậy. Chúng tôi có cùng gốc gác, nói cùng thứ ngôn ngữ ở nhà và chia sẻ những lề thói xã hội như nhau.
Choo đã từng học tại trường nữ Methodist, và đã đậu đệ nhị cấp Cambridge, khi mới 16 tuổi, cô vào lớp đặc biệt tại Học viện Raffles dành cho những học sinh đang tranh đua nhau suất học bổng Nữ hoàng, nhưng cô không đạt được. Sau này cô nói với tôi là cô đang chờ hoàng tử của lòng mình. Tôi đã xuất hiện, không phải trên một con ngựa trắng mà trên một chiếc xe đạp lốp đặc! Năm 1940 cô vào Đại học Raffles, và chúng tôi gặp nhau trong những bữa tiệc và cắm trại, nhưng lúc ấy tôi giữ một thái độ cách biệt vì mới vào học năm đầu tiên và đang cực nhọc trong việc điều chỉnh lối sống. Hơn nữa tôi không hào hứng chuyện tiếp xúc bất kỳ cô gái nào vì tôi chưa sẵn sàng cho một sự ràng buộc nào cả. Vài lần chúng tôi gặp nhau vì xã giao hay trong các giảng đường. Chúng tôi thân thiện nhưng không có chủ ý. Tuy nhiên năm 1943–1944, chúng tôi cùng bước vào một môi trường khác – bản thân tôi đã trưởng thành hơn trong ba năm chiếm đóng của người Nhật và nhìn cô ấy với đôi mắt khác; Choo nhốt mình trong nhà làm việc nội trợ, học tiếng Quan thoại, đọc bất cứ sách gì kiếm được và sẵn sàng tham gia việc làm hồ dán với chúng tôi.
Cô ấy thuộc một đại gia đình có tám người con và có thời thơ ấu êm đềm hạnh phúc trong ngôi nhà thủ cựu. Ba mẹ cô sống khá sung túc và lúc nào cũng có một chiếc xe hơi đưa cô đến trường, đến đại học Raffles hoặc bất cứ nơi nào cô cần tới. Họ cũng có một ý thức sắc bén về lễ nghi. Có lần, sau khi gia đình cô dọn về ở đường Devonshire, việc Choo ngồi trên yên sau chiếc xe gắn máy của tôi từ thư viện về nhà đã khiến mẹ cô ấy sửng sốt. Cô ấy bị mắng thẳng vào mặt vì cách cư xử không thích hợp như thế. Rồi người ta sẽ nghĩ sao đây! Còn ai muốn cưới cô ấy nữa! Ngay sau đó, gia đình cô ấy quay trở lại Pasir Panjang, nơi họ sống trước đây. Thật may là lúc đó tôi đã có xe hơi.
Trong những tháng ngày sôi nổi trước tháng 9/1946, chúng tôi đã dành nhiều giờ bên nhau. Trước khi đi, tôi nhờ cậu em họ Harold Liem, đang trọ tại nhà tôi ở số 38 đường Oxley, chụp cho chúng tôi nguyên một cuộn phim, chỉ trong vòng vài ngày. Chúng tôi còn trẻ và yêu nhau, khát khao ghi lại phút giây này của cuộc đời chúng tôi, hầu có một cái gì đó để nhớ về nhau trong suốt ba năm tôi du học ở Anh. Chúng tôi không biết bao giờ mới gặp lại nhau một khi tôi ra đi. Cả hai chúng tôi đều hy vọng cô ấy sẽ quay lại đại học Raffles, nhận được học bổng Nữ hoàng để học ngành luật, và sum họp với tôi ở bất cứ chỗ nào tôi sống. Cô ấy đã thề hứa trọn vẹn với tôi. Tôi cảm nhận được điều đó. Tôi cũng quyết tâm giữ lời thề hứa với cô ấy.
Khi tôi rời Singapore vào ngày sinh nhật lần thứ 23 của tôi, ngày 16/9/1946, trên con tàu Britanic, và đứng trên boong vẫy tay chào, cô đã đầm đìa nước mắt. Tôi cũng vậy. Cả gia đình và vài người bạn của tôi, gồm cả Hon Sui Sen, đứng trên cầu tàu chúc tôi may mắn và vẫy chào tạm biệt tôi.