Hồi ức sống động và xa xưa nhất của tôi là chuyện bị xách lỗ tai trên miệng giếng trong khuôn viên một tòa nhà gia đình tôi sống hồi đó, nơi bây giờ là đường Tembeling của Singapore. Lúc ấy, tôi được chừng 4 tuổi.
Tôi rất nghịch ngợm và đã phá phách hộp dầu chải đầu hiệu 4711 màu xanh nhạt thơm phức và đắt tiền của cha tôi. Tính tình của ông rất nóng nảy và tối hôm đó cơn giận của ông đến tung cả mái nhà. Ông tóm lấy gáy tôi, lôi từ trong nhà ra giếng và xách tôi lơ lửng ở trên đó. Làm sao tai tôi lại dai đến nỗi không toác ra cho tôi rơi xuống giếng như thế? Năm mươi năm sau, vào thập niên 1970, tôi đọc trong tờ Scientific American một bài báo giải thích sự đau đớn và chấn động đã tiết chất peptit vào não bộ thế nào, rồi ghi dấu ấn sâu đậm trong các tế bào thần kinh nên chắc chắn rằng biến cố đó sẽ được ghi nhớ mãi rất lâu sau này.
Tôi chào đời ở Singapore ngày 16/9/1923 trong một căn nhà lớn hai tầng số 92 đường Kampong Java. Mẹ tôi, bà Chua Jim Neo lúc đó 16 tuổi. Cha tôi, ông Lee Chin Koon, mới 20. Ông bà hai bên của tôi đã tổ chức đám cưới cho cha mẹ tôi một năm trước đó. Cả hai gia đình hẳn đã nghĩ như thế là môn đăng hộ đối, vì sau này họ còn cưới em gái cha tôi cho em trai mẹ tôi nữa.
Cha tôi là con nhà giàu có. Ông thường tự hào kể với chúng tôi rằng khi còn nhỏ, cha của ông, tức ông nội tôi, đã cho ông một sổ nợ vô giới hạn tại hai cửa hàng bách hóa hàng đầu trong thương xá Raffles hồi đó là Robinson và John Little, tại đây ông có thể ghi sổ bất cứ bộ quần áo hay món hàng nào mà ông muốn có. Ông được học chương trình Anh tại Học viện Thánh Joseph, một trường học Thiên chúa giáo do các ông cha dòng De La Salle thành lập năm 1802. Ông kể rằng ông đã đậu tiểu học, sau đó ông thôi học khiến cả ông lẫn mẹ tôi còn tiếc mãi. Không nghề nghiệp, ông chỉ có thể xin được chân bán hàng cho Công ty xăng dầu Shell khi tài sản của cả hai nhà nội ngoại đều tan tành vì cuộc Khủng hoảng kinh tế thế giới.
Lịch sử gia đình tôi tại Singapore bắt đầu với ông cố nội của tôi, Lee Bok Boon, một người Hakka (người Hẹ). Người Hakka là người Hán miền đồng bằng Hoa trung và Hoa bắc di cư đến Fujian (Phúc Kiến), Guangdong (Quảng Đông) và các tỉnh khác ở Hoa Nam khoảng 700 đến 1.000 năm trước, và vì là kẻ đến sau, họ chỉ có thể sống chen chúc trên những mảnh đất đồi kém màu mỡ không có dân địa phương cư ngụ. Theo văn bia trên mộ ông cố ở sau căn nhà của ông tại Trung Quốc, Lee Bok Boon ra đời năm 1846 tại làng Tangxi, quận Dabu, Guangdong. Ông theo tàu di cư sang Singapore. Gia đình chẳng biết gì về ông từ sau đó đến năm 1870 khi ông cưới một cô gái người Hoa, Seow Huan Neo, sinh tại Singapore trong gia đình một tiểu thương.
Năm 1882, ông cố tôi quyết định rằng mình đã kiếm được đủ tiền để trở về làng quê ở Trung Quốc, xây một cái nhà lớn và trở thành quan chức trong làng. Tuy nhiên, bà cố nội tôi không muốn xa gia đình bà ở Singapore để tới một nơi chưa từng biết tới. Theo lời ông nội tôi, lúc đó mới 10 tuổi, các con cái và bà cố nội tôi đã sang trốn bên nhà gia đình bà trên đường Ah Hood. Ông cố Lee Bok Boon trở về Trung Quốc một mình. Ở đó ông lấy vợ khác, xây một căn nhà lớn và đường hoàng mua một chức quan nhỏ. Ông cho vẽ chân dung mình trong quan phục rồi gửi sang Singapore cùng một bức khác vẽ một ngôi nhà kiến trúc kiểu Trung Quốc truyền thống cùng một khoảng sân và những mái ngói xám. Bức tranh về căn nhà thì nay đã mất, nhưng bức chân dung ông cố tôi thì còn.
Ông nội tôi, Lee Hoon Leong – mà tôi vẫn quen gọi là Kung, trong tiếng Trung Quốc nghĩa là ông – sinh ra ở Singapore năm 1871, cha tôi nói ông nội học tại Học viện Raffles tới lớp 5, tương đương với năm đầu cấp trung học ngày nay. Ông nội kể cho tôi nghe là ông làm việc pha chế thuốc trong tiệm thuốc khi thôi học, nhưng vài năm sau, ông đi làm quản lý trên một con tàu chở hàng đi lại giữa Singapore và vùng Đông Ấn thuộc Hà Lan2. Con tàu này thuộc một đội tàu của hãng Heap Eng Moh Shipping Line mà ông chủ là Oei Tiong Ham, một triệu phú người Tàu làm vua ngành đường mía ở Java.
Trong một đợt nghỉ, ông cưới bà nội tôi, Ko Liem Nio, tại Semarang, một thành phố miền trung Java. Có một văn bản bằng tiếng Hà Lan, ghi ngày 25/3/1899, do Tòa mồ côi Semarang3 cấp phát, cho phép Ko Liem Nio, 16 tuổi, được cưới Lee Hoon Leong, 26 tuổi. Phần bối thự ghi ở mặt lưng cho biết hôn lễ đã được cử hành ngày 26/3/1899. Cha tôi ra đời tại Semarang năm 1903. Nhưng ông là thần dân Anh theo dòng dõi, vì cha của ông – Kung – là dân Singapore. Sau khi có con, Kung mang vợ con trở về Singapore và sinh sống suốt đời ở đó.
Tài sản của ông tăng dần khi ông được Oei Tiong Ham tin cậy và ủy quyền cho ông quản lý mọi công việc của hãng tại Singapore. Kung nói cho tôi nghe ông đã được tin cẩn thế nào đến độ năm 1926, bằng quyền hạn của mình, ông đã tặng 150.000 đôla, hồi đó là số tiền rất lớn, từ quỹ của ông Oei cho việc xây dựng đại học Raffles.
Giữa cha tôi và ông nội tôi thì không thể xác định tôi kính trọng ai hơn. Ông nội thương và nuông chiều tôi. Còn cha tôi, người giữ kỷ luật trong gia đình, thì khó tính với tôi. Ông nội tôi đã gầy dựng được một gia sản lớn. Cha tôi chỉ là cậu con nhà giàu, chẳng có gì để kể về chính ông.
Khi tài sản gia đình suy kiệt trong thời khủng hoảng kinh tế thế giới vốn làm giá cao su giảm từ 80 xu một cân Anh (khoảng 450gr) năm 1927 xuống còn 20 xu năm 1930, Kung đã bị thiệt hại nặng. Rõ ràng ông không khôn ngoan trong kinh doanh bằng ông ngoại tôi là Chua Kim Teng. Tài sản của ông ngoại Chua cũng bị thiệt hại vì ông đã đầu tư vào đồn điền cao su và đầu cơ trong thị trường cao su. Nhưng ông cũng thâm nhập thị trường bất động sản nữa. Ông sở hữu nhiều sạp chợ và cửa hàng nên không bị sụp đổ hoàn toàn như ông nội Kung của tôi. Nên năm 1929 cha mẹ tôi đã dọn từ nhà ông nội sang ở trong căn nhà lớn mà bừa bộn của ông ngoại trên đường Telok Kurau.
Ông nội tôi đã bị Tầy phương hóa, do nhiều năm làm việc trên tàu buôn chung với người Anh, từ thuyền trưởng, máy trưởng tới các nhân viên. Ông thường kể lại cho tôi nghe những kinh nghiệm và chuyện trên tàu thì người ta kỷ luật tới mức nào. Thí dụ, dù cho khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm, thuyền trưởng và các thuộc viên vẫn phải mặc bộ đồ vải trắng gài nút kín cổ để ăn tối với đầy đủ dao muống nĩa và khăn ăn được bày dọn đàng hoàng. Qua lời ông kể về những chuyến hải hành trong khu vực thì rõ ràng các sỹ quan Anh ấy đã để lại trong ông dấu ấn sâu đậm về tính trật tự, sức mạnh và hiệu năng.
Khi tôi ra đời, gia đình đã hỏi ý một người quen thông thạo chuyện con cái để tìm tên tốt đặt cho tôi. Ông đã đề nghị chữ “Kuan Yew”, trong tiếng Quan thoại là guang yao, nghĩa là “thông minh và sáng láng”. Nhưng ông nội tôi, vì lòng ngưỡng mộ nước Anh, đã thêm cho tôi tên Harry, nên tên tôi thành Harry Lee Kuan Yew. Hai em trai tôi, Kim Yew và Thiam Yew, cũng có tên thánh Tây phương như thế – lần lượt là Dennis và Freddy. Thời đó ít có người Hoa không theo đạo Thiên chúa lại có tên thánh như thế, nên sau này đi học tôi thấy mình kỳ cục với cái tên Harry. Khi em út của tôi, Suan Yew, ra đời năm 1933, tôi đã thuyết phục cha mẹ tôi đừng đặt tên thánh làm gì vì gia đình đâu có theo đạo Thiên chúa.
Tuy ông nội tôi không còn đủ tiền để sống và ăn mặc đúng cung cách nữa, nhưng ông vẫn còn giữ được những dấu tích của thời sung túc trước đây, trong đó có mấy món đồ nội thất rất đẹp nhập từ Anh hồi thập niên 1910. Hơn nữa, ông còn là tay sành ăn. Mỗi bữa ăn với ông là một nghi thức. Bà nội tôi nấu ăn cũng giỏi. Bà có thể chiên thịt bò với nhục đậu khấu tới vàng sậm mọng nước, dọn chung với khoai tây được chiên vàng ươm nhưng không nhẫy mỡ, vốn là chi tiết mà ông nội tôi rất để ý. Tôi có ấn tượng rõ ràng rằng ông nội tôi là người đã vươn lên trong cuộc sống và biết sống sao cho ra sống.
Ông khác biệt rất rõ với ông ngoại tôi. Ông Chua Kim Teng không hưởng nền giáo dục Anh và cũng không làm ăn hợp tác với các viên chức Anh hay các triệu phú người Hoa trong ngành đường. Ông sinh ra ở Singapore năm 1865 trong gia đình gốc Hakka ở Malacca. Ông giàu lên nhờ làm lụng chăm chỉ và sống tiết kiệm, dùng tiền để dành được đầu tư một cách thận trọng vào ngành cao su và bất động sản.
Ông đã lấy vợ ba lần. Hai người vợ đầu đã mất và bà vợ thứ ba là bà ngoại tôi, Neo Ah Soon, một phụ nữ Hakka vai rộng quê ở Pontianak trong vùng đảo Borneo thuộc Hà Lan. Bà nói được tiếng Hakka và tiếng Malay của người Indonesia. Khi bà lấy ông ngoại tôi, bà đã có một đời chồng với hai con riêng, người chồng trước đã chết ít lâu sau khi có đứa con thứ hai. Bà có với ông Chua bảy người con trước khi chết vào năm 1935. Còn ông ngoại tôi chết năm 1944, thời người Nhật chiếm Singapore.
Mẹ tôi là con lớn nhất của hai ông bà, và khi mẹ tôi lấy cha tôi năm 1922 lúc bà 15 tuổi thì tình hình của gia đình cả hai bên còn rất sung túc. Bà còn mang theo được, như một phần của hồi môn, một cô hầu nhỏ có nhiệm vụ giúp bà tắm, lau chân, tháo hoặc đi giày cho bà. Tất cả những biểu hiện giàu sang ấy đều đã biến mất khi tôi nhận thức được môi trường xung quanh mình vào năm 4 hoặc 5 tuổi. Nhưng ký ức về thời kỳ tốt đẹp ấy vẫn còn trong những ảnh chụp xưa của tôi – một cậu bé mặc đủ thứ áo quần nhập từ Anh, hay nằm trong một chiếc xe nôi sang trọng. Nhà của ông ngoại Chua ở Telok Kurau là một căn nhà trệt rất rộng bằng gỗ và gạch. Ông và tất cả con cái của bà vợ thứ ba sống trong căn nhà đó, mẹ tôi, con gái lớn, cùng với cha tôi và năm anh em tôi chiếm một phòng ngủ lớn. Tất cả hợp thành một đại gia đình trong đó mọi người sống hòa hợp ngoại trừ những xung đột nho nhỏ, chủ yếu vì những đứa cháu nghịch ngợm và ưa gấu ó. Cứ thế tôi lớn lên cùng với ba em trai và một em gái cùng sáu anh em họ trong cùng một ngôi nhà. Nhưng vì tất cả chúng nó đều nhỏ tuổi hơn tôi, nên tôi thường chơi với những đứa trẻ con nhà ngư dân người Hoa hay người Malay sống trong khu gần đó, một cụm chừng hai ba chục ngôi nhà lá hay gỗ có mái tôn trong một ngõ đối diện nhà ông ngoại tôi. Những ngư dân này kiếm ăn dọc bãi biển Siglap cách đó chừng 200 thước.
Đó quả là một thế giới đơn giản. Chúng tôi chơi diều, bông vụ, bi và cả cá đá nữa. Những trò chơi đó hun đúc một tinh thần chiến đấu và khát khao chiến thắng. Tôi không biết có phải những chuyện đó đã chuẩn bị bản thân tôi cho những cuộc đấu tranh sau này trong lãnh vực chính trị hay không. Chúng tôi không mềm yếu, mà cũng không hư hỏng. Là một cậu bé, tôi không có những thứ quần áo giày dép lạ kỳ như của những đứa cháu tôi ngày nay.
Chúng tôi không nghèo nhưng chúng tôi cũng không tràn ngập những đồ chơi, và cũng không có TV. Nên chúng tôi phải tháo vát, phải sử dụng trí tưởng tượng. Chúng tôi đọc, và điều đó có lợi cho ngữ vựng của chúng tôi, nhưng hồi đó chẳng có mấy sách hình cho trẻ con, và lại đắt tiền nữa. Tôi mua những truyện rùng rợn rẻ tiền và theo dõi những cuộc phiêu lưu của các chú nhỏ – Harry Wharton, Billy Bunter và các bạn. Tôi sốt ruột chờ đợi con tàu bưu điện từ Anh mỗi tuần đến đậu tại bến Tanjong Pagar vào thứ Sáu, mang theo các tạp chí và truyện tranh của Anh. Nhưng những thứ này cũng không rẻ. Khi lớn hơn một chút, tôi sử dụng thư viện Raffles, nơi có thể mượn sách đọc trong hai tuần. Tôi đọc đủ thứ sách nhưng thích truyện miền viễn tây hơn truyện trinh thám.
Trong những đợt nghỉ, gia đình tôi có thể đến chơi cả tuần lễ trong ngôi nhà gỗ của ông ngoại tại đồn điền cao su của ông ở Chai Chee. Từ đường Changi, chúng tôi lên đường đi đồn điền trên một chiếc xe bò thắng hai con bò do người làm vườn của bà ngoại tôi điều khiển. Chiếc xe có bánh gỗ bọc niềng sắt và không có dàn nhún, nên nửa dặm trên con đường đất là đầy những cú dằn xóc rất buồn cười. Năm mươi năm sau, 1977, khi tôi đáp máy bay Concord từ London đi New York băng qua Đại Tây Dương trong vòng chỉ có ba giờ, tôi đã tự hỏi không biết có người khách đồng hành nào của tôi từng biết đến niềm vui của việc ngồi xe bò không.
Tuy nhiên cuộc sống không chỉ là những niềm vui đơn sơ. Thỉnh thoảng cha tôi lại về nhà với tâm trạng bực bội vì thua xì dách hay thứ bài bạc nào đó tại Câu lạc bộ bơi lội người Hoa ở đường Amber, và đòi mẹ tôi đưa món nữ trang nào đó để đem cầm rồi trở lại chiếu bạc thử thời vận lần nữa. Thế là có cãi nhau kịch liệt và đôi khi cha tôi rất thô bạo. Nhưng mẹ tôi là một phụ nữ can đảm quyết tâm giữ lấy tài sản và đồ cưới của ông bà ngoại cho. Là một con người mạnh mẽ với tài tháo vát và năng lực lớn lao, bà đã bị gả chồng quá sớm.
Ở thời của bà, người ta muốn phụ nữ phải là một người mẹ tốt, sinh nhiều con cái để rồi nuôi dạy chúng thành những người chồng người vợ tốt. Nếu bà ra đời chậm một thế hệ và được học cao hơn bậc trung học thì bà đã dễ dàng trở thành một nhà quản trị giỏi rồi.
Bà đã dành cả đời để lo cho con cái được học hành tử tế và có nghề chuyên môn, và bà đã đương đầu với cha tôi để bảo vệ tương lai cho con cái. Tôi và các em tôi ý thức rõ sự hy sinh của bà, chúng tôi hiểu mình không được làm bà thất vọng và đã cố hết sức để xứng đáng với bà và đạt được những điều bà mong muốn. Khi tôi lớn hơn, bà bắt đầu hỏi ý kiến tôi, đứa con cả, về mọi chuyện quan trọng trong nhà, nên tuy mới mười mấy tuổi, tôi đã thực sự đóng vai người đầu não của gia đình. Điều này dạy tôi cách đưa ra những quyết định.
Bà ngoại tôi có quan điểm rất rõ về việc học hành của tôi. Năm 1929, khi tôi chưa được 6 tuổi, bà đã nhất định tôi phải cùng các trẻ con nhà ngư dân đi học một trường gần đó; một ngôi trường bằng gỗ và lá với nền đất nện. Ngôi trường chỉ có một phòng học với những băng ghế gỗ, mặt bàn là tấm ván thô và một phòng nữa dùng làm chỗ ở cho ông thầy người Hoa trung niên gầy gò của chúng tôi. Ông bảo chúng tôi đọc theo ông mà chúng tôi chẳng hiểu nghĩa gì cả – nếu ông có giải thích thì tôi cũng không hiểu.
Tôi phàn nàn với mẹ và bà nói lại với bà ngoại. Nhưng bà mẹ 22 tuổi của tôi thì không thể cãi được bà ngoại đã hai lần lấy chồng, nuôi lớn đến chín đứa con và lại quyết tâm là tôi phải học được chút đỉnh tiếng Hoa. Nhưng bà ngoại tôi cũng cho phép đổi trường và tôi sang học trường Choon Guan ở khu Joo Chiat cách nhà tới một dặm và tôi phải đi bộ đến đó mỗi ngày. Ngôi trường này thì đường hoàng hơn, một tòa nhà gỗ hai tầng có nền xi măng, và khoảng 10 phòng học đúng quy cách có bàn ghế rời cho 35 tới 40 học sinh. Những bài học bằng tiếng Hoa thì vẫn gian nan như vậy. Ở nhà tôi nói tiếng Anh với cha mẹ tôi, tiếng Malay bồi – pha trộn giữa tiếng Malay với tiếng Hoa – với ông bà ngoại, rồi tiếng Malay pha một ít tiếng Hakka với bạn bè và những đứa trẻ con nhà ngư dân. Tiếng Quan thoại thì hoàn toàn xa lạ với tôi, và chẳng dính dáng gì tới cuộc sống của tôi. Tôi chẳng hiểu gì lắm những điều các thầy giáo nói.
Sau hai ba tháng như thế, tôi lại xin mẹ tôi cho chuyển sang một trường dạy bằng tiếng Anh. Lần này thì bà thuyết phục được bà ngoại và tháng 1/1930 tôi vào học trường tiếng Anh Telok Kurau. Bây giờ tôi hiểu các thầy giáo nói gì và chỉ cố gắng chút đỉnh là có tiến bộ. Học sinh đa số là người Hoa, có một ít người Ấn và một ít người Malay chuyển từ trường Telok Kurau tiếng Malay qua.
Cha mẹ tôi e rằng tôi kém chuyên cần, và mẹ tôi giao cho chú Keng Hee một nhiệm vụ là buộc tôi chuẩn bị bài ngày mai cho chu đáo. Mỗi tuần ba lần trước giờ ăn tối, tôi phải ngồi với chú một tiếng. Ngay từ hồi đó tôi đã thấy thật kỳ cục khi ông chú ít học nhất trong các chú của tôi lại được giao nhiệm vụ kiểm tra việc làm bài ở nhà của tôi.
Tôi được phép nhảy thẳng từ lớp đồng ấu 1 lên lớp 1, không phải qua lớp đồng ấu 2. Đến hết năm lớp 5, sau bảy năm tiểu học – mà tôi chỉ học trong 6 năm – chúng tôi dự một kỳ thi tổ chức cho toàn đảo để được tuyển vào các trường trung học công lập. Trong năm cuối ấy, 1935, tôi đã cố gắng hơn nhiều, được đứng đầu trường và được tuyển vào Học viện Raffles vốn chỉ thu nhận những học sinh xuất sắc.
Học viện Raffles, hồi đó cũng như bây giờ, là trường trung học tiếng Anh hàng đầu ở Singapore và mang tên người sáng lập ra nó. Nó sản sinh ra từng đợt ít ỏi những con người xuất sắc và có học vấn tốt, rất nhiều người trong đó được học bổng Nữ hoàng để đi học ở Cambridge, Oxford, London, Edinburg và nhiều học viện khác của Anh, về y khoa, luật và cơ khí.
Năm 1936, tôi vào Học viện Raffles cùng với khoảng 150 học sinh hàng đầu của 15 trường tiểu học công lập. Việc tuyển chọn hoàn toàn dựa trên tài năng. Học sinh thuộc đủ mọi chủng tộc, giai cấp và tôn giáo, và có cả nhiều học sinh từ lục địa Malaya ra nữa. Các vị hiệu trưởng đầu tiên của học viện này là người Anh và đã mô phỏng nó theo các trường công lập ở Anh.
Học trình ở đây chuẩn bị cho các học sinh tham dự những kỳ thi toàn đế quốc Anh để lấy bằng Trung học đệ nhất cấp Cambridge và Trung học đệ nhị cấp Cambridge. Các sách giáo khoa, nhất là sách về ngôn ngữ Anh, văn chương Anh, lịch sử đế quốc Anh, toán và địa lý là loại tiêu chuẩn cho mọi thuộc địa mà tôi chắc là cũng phỏng theo sách giáo khoa chuẩn của Anh. Việc giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh. Nhiều năm sau, bất cứ lúc nào tôi gặp các nhà lãnh đạo trong Khối Thịnh vượng chung4 từ những xứ xa xôi như quần đảo Caribbean hay vùng Thái Bình Dương, tôi đều khám phá ra rằng họ cũng từng đi qua một quá trình rèn luyện như tôi với cùng những cuốn sách giáo khoa và có thể trích ra cùng những đoạn thơ của Shakespeare.
Có bốn cấp lớp trong trường trung học: lớp 6 và lớp 7, rồi đệ nhất cấp Cambridge và đệ nhị cấp Cambridge. Tôi không phải loại chăm chỉ lắm nhưng tôi khá môn toán, khoa học và có căn bản tiếng Anh vững chắc. Do đó, cuối năm lớp 6, tôi nằm trong số những học sinh giỏi và được xếp vào lớp 7A, ở đây tôi không cần cố gắng lắm cũng nằm trong tốp ba người dẫn đầu lớp. Tôi vẫn không chú ý lắm trong lớp học và cố gắng bắt kịp bằng cách liếc vào tập của bạn ngồi cạnh. Teo Kah Leong không những đứng đầu lớp mà bạn ấy còn giữ tập vở rất đẹp. Nhưng nó thường lấy tay che vở lại. Tuy vậy, giáo viên phụ trách lớp của tôi, ông M.N. Campos người Ấn, vẫn phê trong học bạ của tôi những lời khen và khuyến khích: “Harry Lee Kuan Yew có quyết tâm giành một vị trí nổi bật, có thể đạt địa vị cao trong cuộc sống.”
Tôi lên lớp đệ nhất cấp A, lớp giỏi nhất trong khối. Phụ trách là một thầy người Anh, A.T. Grieve, là một người tốt nghiệp Oxford với mái tóc vàng hoe rất dày và phong thái thân thiện cởi mở. Gần ba mươi mà ông vẫn độc thân và làm việc ở hải ngoại lần đầu. Thầy Grieve không có thành kiến chủng tộc, có lẽ vì ông ở xứ thuộc địa chưa đủ lâu để hiểu rằng phải giữ một khoảng cách với dân bản xứ, tác phong này vẫn được coi như cần thiết để người ta phải tôn trọng sự cai trị của người Anh. Ông đã cải thiện tiếng Anh của tôi rất nhiều và tôi tiến bộ rõ rệt, đứng đầu trường trong kỳ thi của cấp lớp này. Bài thi quan trọng đầu tiên của tôi được trường Cambridge ra đề và chấm. Tôi cũng đạt hai phần thưởng trong năm đó là học bổng Tan Jiak Kim và học bổng Raffles. Tổng cộng, chúng đem lại cho tôi 350 đôla Straits. Số tiền này dư cho tôi mua được một chiếc xe đạp Raleigh giá 70 đôla, có bộ bánh răng ba đĩa để thay đổi tốc độ và dây xích chạy trong hộp kín. Tôi đường hoàng đạp xe tới trường mà vẫn còn tiền để dành. Nhưng tương lai còn những điều tốt đẹp hơn.
Tôi đã quyết tâm giành vị trí cao trong các kỳ thi đệ nhị cấp Cambridge, và tôi thật sung sướng khi kết quả được thông báo đầu năm 1940 là tôi đứng nhất trường và đứng nhất trong tất cả học sinh tại Singapore và Malaya.
Tôi rất sung sướng với thời gian học ở Raffles, giải quyết việc học hành khá nhàn hạ và tích cực trong phong trào hướng đạo sinh, chơi quần vợt và cricket, bơi lội và tham dự nhiều cuộc trần thuyết. Nhưng tôi chưa từng là một học sinh hoàn hảo, chứ đừng nói tới một học sinh đứng đầu lớp hoàn hảo. Ở tôi vẫn còn thói tinh nghịch ham chơi. Tôi thường bị bắt gặp không tập trung nghe giảng bài, lo viết cái gì đó cho bạn hay nhái theo điệu bộ của ông thầy nào đó. Với một ông thầy người Ấn khá chậm chạm dạy khoa học, tôi đã bị bắt gặp đang vẽ cái gáy của ông với mảng đầu hói.
Có lần tôi bị ăn roi của ông hiệu trưởng, D.C. McLeod, một con người kỷ luật nghiêm ngặt nhưng công bằng, luôn thi hành kỷ luật một cách công minh, và đã có một quy định rằng học sinh nào đi học trễ ba lần trong một học kỳ sẽ phải chịu ba roi. Tôi là đứa thường dậy trễ, thức khuya giỏi hơn dậy sớm, và khi tôi đi học trễ lần thứ ba thì giáo viên phụ trách buộc tôi lên văn phòng hiệu trưởng. Thầy hiệu trưởng biết tôi do từng được học bổng và đoạt nhiều phần thưởng. Nhưng tôi cũng không được tha với lời cảnh cáo qua loa, tôi phải cúi xuống ghế và lãnh ba roi đích đáng. Tôi không nghĩ là thầy có nương tay, và cũng chẳng bao giờ hiểu được tại sao các nhà giáo dục phương Tây lại tích cực chống việc trừng phạt thân thể đến thế. Chuyện đó không gây tổn thương gì cho tôi cũng như các bạn học sinh khác.
Tuy nhiên tôi hiểu ra rằng phải sống nghiêm túc hơn. Cha mẹ tôi đã chỉ cho tôi thấy một số bạn bè của ông bà sống sung túc như thế nào nhờ họ đã trở thành bác sĩ hay luật sư. Họ hành nghề độc lập nên không bị ảnh hưởng của Khủng hoảng kinh tế. Cha tôi cũng tiếc cho tuổi trẻ lêu lổng của ông và họ thúc ép tôi phải trở thành dân có chuyên môn. Nên ngay từ hồi còn nhỏ ấy, tôi đã nhắm tới việc trở thành luật sư, một người hành nghề chuyên môn, chứ không phải kẻ làm thuê. Kế hoạch của tôi là học luật ở London.
Nhưng năm 1940, chiến tranh ở châu Âu trở nên gay gắt hơn. Nước Pháp bị đe dọa và sắp bị chiếm. Kế hoạch đi học luật ở London tốt nhất là nên hoãn lại. Nhờ đậu đầu Singapore và Malaya trong kỳ thi Cambridge đệ nhị cấp, tôi được hưởng học bổng Anderson, thuộc loại cao giá nhất thời đó, để theo học tại Đại học Raffles. Tôi quyết định nhận học bổng này. Nó cao hơn các phần thưởng khác của chính phủ khoảng 200 đôla, dư để trang trải học phí, sách vở, chỗ ở và còn để dành được ít nhiều nữa.
Đại học Raffles được chính quyền Các thuộc địa vùng eo biển5 thành lập vào năm 1928. Nơi đây người ta dạy nhiều môn xã hội (tiếng Anh, sử, địa, kinh tế) và khoa học (lý, hoá, toán lý thuyết và ứng dụng). Chính quyền đã xây nhiều tòa nhà đẹp cho nó với kiến trúc bê tông chạy chung quanh tạo thành khoảng sân giữa, mặt tiền giả đá, giống kiểu đại học Oxford và Cambridge nhưng có điều chỉnh cho hợp với khí hậu nhiệt đới.
Là sinh viên có học bổng, tôi phải ở trong khu ký túc. Đó quả là một việc khó khăn. Để thích nghi với khí hậu nóng và ẩm của Singapore, các kiến trúc sư đã thiết kế những ký túc xá rộng lớn, trần nhà rất cao. Mỗi khu chia làm 20 phòng có cửa sổ lắp kính chạy từ trần xuống gần sàn mở ra hàng hiên rộng. Vách ngăn giữa các phòng chỉ cao ngoài 2 mét, hơn đầu người một chút, để không khí lưu thông dễ dàng. Điều này có nghĩa là tiếng ồn cũng truyền đi thoải mái suốt 20 phòng và 20 hàng hiên dành cho 20 sinh viên trẻ tuổi.
Mỗi sinh viên phải học ba môn. Tôi học tiếng Anh, vốn là môn bắt buộc đối với mọi sinh viên khoa học xã hội, và tập trung vào đó để tăng khả năng sử dụng và để giúp tôi học luật sau này, kế đó là toán, vì tôi thích và cũng giỏi môn ấy, và kinh tế học vì tôi nghĩ nó có thể dạy tôi cách kiếm tiền trong kinh doanh và thị trường chứng khoán. Tôi thật ngây thơ! Sau năm thứ nhất, sinh viên phải chọn một môn làm môn chính. Tôi đã chọn toán.
Cuối mỗi học kỳ, trong ba học kỳ của năm học, đều có kỳ thi, và trong kỳ thi đầu tiên của tôi ở đây, tôi đã về nhất môn toán, đạt hơn 90 điểm. Nhưng tôi choáng váng khi thấy mình không đạt điểm cao nhất trong môn tiếng Anh và kinh tế, mà đứng thứ hai, dưới một cô tên là Kwa Geok Choo. Tôi đã gặp cô Kwa này hồi còn học ở Học viện Raffles. Năm 1939, là học sinh nữ duy nhất trong một lớp toàn là nam, cô đã được hiệu trưởng mời trao phần thưởng trong lễ phát thưởng hàng năm, và tôi đã nhận từ tay cô ba cuốn sách. Cô học trong một lớp đặc biệt chuẩn bị để giành học bổng Nữ hoàng hai năm liên tiếp. Tôi thật bối rối và lo lắng. Mỗi năm chỉ có hai học bổng Nữ hoàng cho toàn bộ Các thuộc địa vùng eo biển, và không nhất thiết là chúng sẽ lọt vào tay hai sinh viên đạt điểm cao nhất. Trên hết là tôi sợ một kiểu phân chia đồng đều về mặt địa lý nhằm tạo cơ hội cho các sinh viên Malacca và Penang. Hội đồng xét học bổng có thể không muốn trao cả hai học bổng cho sinh viên Singapore, trong trường hợp đó thì đứng thứ nhì là không xong rồi.
Tôi không thoải mái với năm thứ nhất của tôi ở đây như năm đầu ở Học viện Raffles. Bắt nạt và ăn hiếp hồi đó là một phần trong bước khởi đầu của sinh viên năm thứ nhất và kéo dài suốt học kỳ. Là sinh viên đứng đầu, tên tuổi tôi còn tới trước cả tôi, và tôi nghĩ rằng tôi cũng là một trong những sinh viên năm đầu cao lớn và nổi bật, nên một số sinh viên đàn anh đã xử ép tôi.
Tôi đã phải hát, phải bò quanh sân trường dùng mũi đẩy một viên bi. Tôi phải đi dẫn đầu tập thể sinh viên năm đầu, thắt một cà vạt xanh lá cây tả tơi và cầm một cây cờ cũng xanh lá cây. Tôi nghĩ những trò đó thật ngu ngốc, nhưng đã trải qua tất cả như một phần của cái giá phải trả để hòa vào một ngôi trường thiếu trưởng thành và đang phát huy những truyền thống lệch lạc. Năm thứ hai, khi trở thành đàn anh, tôi chống báng trò bắt nạt và cố gắng ngăn cản trò đó, nhưng không thành công. Tôi hết sức phản đối những sinh viên làm trò đó với những sinh viên năm đầu để bù lại những gì mà họ đã phải chịu đựng khi còn là “ma mới”.
Khi lên giảng đường, chúng tôi phải mặc áo lớn, cà vạt. Giảng đường lại không có máy lạnh – nên một trong những phòng học của khối khoa học trở thành cái lò vào buổi chiều vì nó quay về phía Tây. Gặp gió lạnh khi cả người đầm đìa mồ hôi là chắc chắn tôi bị cảm và ho. Lại còn tình trạng mất quân bình do phải sống trong môi trường xa lạ, nhồi nhét cùng 19 sinh viên khác trong một khu và ăn những thức ăn nấu dở của ký túc xá.
Sau năm thứ nhất, tôi chuyển từ khu C sang khu E có vị trí tốt hơn, ở đó tôi có được một phòng mát mẻ và thoải mái hơn. Nhưng sự mất quân bình hẳn đã ảnh hưởng chất lượng học tập của tôi. Tôi nhớ trong một kỳ thi học kỳ, ngay cả với môn toán tôi cũng không chiếm nổi hạng đầu. Tuy nhiên trong các kỳ thi cuối năm học ấy (tháng 3/1941), tôi đã làm bài tốt và đứng đầu về môn toán lý thuyết. Nhưng cô Kwa Geok Choo lại đứng đầu môn tiếng Anh và kinh tế, và có lẽ trong môn sử, môn thứ ba của cô, cũng vậy. Trong bài thi thống kê, một phần của môn kinh tế, tôi đạt điểm cao hơn cô chút đỉnh. Tôi hiểu rằng mình sẽ phải ganh đua quyết liệt để giành học bổng Nữ hoàng.
Còn có những vấn đề khác nữa. Chính nhờ hồi tưởng mà tôi nhận ra rằng Đại học Raffles là bước đầu của tôi đi vào lĩnh vực chính trị về chủng tộc và tôn giáo. Trong một thuộc địa Anh không có phân biệt chủng tộc, người Malay ở Singapore đã quen được đối xử như mọi người khác. Nhưng vào tháng 6/1940, lần đầu tiên tôi gặp một số đáng kể những người Malay đã được sinh ra và lớn lên trong một chế độ khác. Trong các tiểu bang liên minh của người Malay (Federated Malay States – FMS) như Perak, Selangor, Penang và Negeri Sembilan, và hơn thế nữa tại những bang của người Malay không liên minh (Unfederated Malay States) như Johor, Kedah, Perlis, Kelantan và Terengganu, người Malay bản xứ có được những ưu quyền chính trị và kinh tế. Tại những bang FMS, chỉ có năm học bổng theo học Đại học Raffles là dành cho những người không thuộc chủng Malay, trong khy sinh viên Malay có lựa chọn nhiều hơn, cũng như tại các bang không liên minh. Trong số hàng trăm sinh viên được nhập học hàng năm thì có khoảng 20 người Malay từ lục địa với học bổng do chính quyền bang của họ cung cấp.
Có một tinh thần đoàn kết rất mạnh trong số những người Malay, mà sau này tôi hiểu ra là xuất phát từ cảm giác bị đe dọa, từ nỗi lo sợ bị lấn át bởi những sinh viên người Hoa và người Ấn năng động và chăm chỉ hơn. Một sinh viên Malay cùng năm với tôi sau này sẽ trở thành thủ tướng Malaysia, Abdul Razak bin Hussain, học chung lớp tiếng Anh và kinh tế với tôi, nhưng chúng tôi không phải bạn thân. Anh ta là dòng dõi quý tộc Malay tại bang Pahang, nên do đó ít nhiều xa cách các sinh viên Malay khác, mà những người này cũng kính trọng anh. Những người mà tôi dễ thân cận hơn là những sinh viên bình thường, trong đó có hai bạn chơi trong đội cricket của trường. Vì tôi có nhiều bạn Malay từ hồi nhỏ nên tiếng Malay của tôi rất lưu loát. Nhưng rồi tôi nhận ra thái độ của họ đối với người khác chủng Malay, nhất là người Hoa, thì hoàn toàn khác thái độ của người Malay ở Singapore.
Một sinh viên bang Kedah nói với tôi vào năm thứ hai, sau khi chúng tôi đã trở thành bạn. “Người Hoa các anh quá năng động và khôn ngoan so với chúng tôi. Ở Kedah chúng tôi đã có quá nhiều người Hoa. Chúng tôi không chịu nổi sức ép ấy.” Ý anh muốn nói là sức ép cạnh tranh để kiếm việc làm, để kinh doanh, để tìm chỗ đứng trong các trường trung và đại học. Người Malay là các chủ đất, vậy mà cũng có nguy cơ bị những người nhập cư hất văng khỏi các địa vị quan trọng, những người nhập cư này lanh lợi, có chí tiến thủ và quyết tâm hơn. Có lẽ bởi vì học giỏi hơn và tự tin hơn, nên sinh viên người Hoa và người Ấn thiếu tinh thần đoàn kết này. Không có sự thống nhất trong bọn họ vì họ không cảm thấy bị đe dọa.
Có một sự kiện in rõ trong trí nhớ của tôi. Vào năm thứ hai, có nhiều điều không vui trong cách sắp xếp bữa tiệc hàng năm của Hội sinh viên Raffles tại Khách sạn Seaview. Những sinh viên không phải người Malay lấy làm tức giận trước những câu trả lời gay gắt và bất cần của thư ký danh dự Ungku Aziz bin Abdul Hamid trước những phàn nàn của họ. Một số sinh viên bắt đầu vận động một đại hội bất thường để phản đối anh ta và đẩy anh ta khỏi chức vụ trên. Nhưng anh ta là người Malay. Khi những chữ ký đòi tổ chức đại hội bất thường tăng dần, các sinh viên Malay đã đoàn kết chung quanh anh ta, và tuyên bố rằng nếu anh ta bị bãi chức, họ sẽ đồng loạt rút khỏi Hội sinh viên. Điều này trở thành một thách thức cho những sinh viên còn lại. Tôi được họ đến gặp và yêu cầu đọc bài diễn văn khai mạc trình bày những phản đối của họ đối với Ungku Aziz. Tôi không dự buổi tiệc đó và cũng không có xung đột cá nhân gì với anh ta. Nhưng vì chẳng có ai muốn đảm đương công việc khó chịu này, nên tôi quyết định nhận lãnh. Đại hội diễn ra vào một chiều thứ Bảy, và suốt cả ngày sinh viên đã bỏ đi, có lẽ vì họ muốn tránh chuyện tranh cãi. Trong các khu ký túc, những sinh viên Malay tụ lại rất đông. Tình hình rất căng thẳng và tư tưởng chủng tộc dâng lên hừng hực.
Đó là kinh nghiệm đầu tiên của tôi về tinh thần chủng tộc Malay, một tình cảm sâu và rộng bênh vực người Malay và chống lại dân nhập cư. Tôi trình bày sự vụ bằng lời lẽ chừng mực, kiên định nhưng, tôi hy vọng, không quá khích. Ungku Aziz phát biểu bác bỏ mọi dẫn chứng về cách cư xử thô lỗ của anh. Tôi có thể cảm thấy đám đông khoảng 80 sinh viên cảm thấy rất khó chịu về sự đối đầu này. Khi bỏ phiếu, những sinh viên Malay đã giành được thắng lợi cho Ungku Aziz, nên không có vụ đồng loạt rút ra khỏi hội. Nhưng những sinh viên còn lại cảm thấy đã nói lên được quan điểm của họ. Chuyện ấy rồi cũng phai mờ trong tôi. Chỉ đến sau này, khoảng 1963–1965, khi chúng tôi ở Malaysia và cũng đụng phải những vấn đề với tinh thần chủng tộc Malay ấy thì tôi mới nhớ lại.
Nhưng nếu đó là thời kỳ đốì địch, thì nó cũng là thời kỳ tạo nên những tình bạn lâu dài. Nhiều người tôi quen biết lần đầu tại Đại học Raffles sau này đã trở thành đồng sự chính trị thân cận với tôi, trong đó có Toh Chin Chye, một sinh viên khoa học trên tôi một năm, chăm chỉ, có hệ thống, trầm lặng và kiên định, rồi Goh Keng Swee, một giáo sư kinh tế với trí tuệ siêu hạng, kém hùng biện nhưng có ngòi bút sắc bén.
Nhờ vậy khi tôi khởi sự hành nghề luật sư vào thập niên 1950, tôi đã có một mạng lưới những bạn bè và người quen giữ những địa vị quan trọng trong chính quyền và trong giới chuyên môn tại Singapore và Malaysia. Thậm chí có bạn không trực tiếp biết nhau, nhưng việc có chung một quá khứ khiến chúng tôi dễ tiếp nhận nhau, và mối dây trường cũ đã rất hữu hiệu tại Singapore và Malaya, cho dù là trong nhóm người Hoa, người Ấn hay Malay. Trước thời điểm hoạt động chính trị trở nên sôi nổi, khi quyền lực còn nằm gọn trong tay người Anh, tôi không hề cảm thấy có hiềm khích hay thù ghét gì về phía những bạn gốc Malaya. Tôi làm bạn với rất nhiều người trong số họ, kể cả hai vị thẩm phán người Malay mà sau này tôi phải trình diện trước mặt họ.
Đó là mạng lưới bạn học cũ trong một thành phần ưu tú của những người có giáo dục Anh được hệ thống giáo dục thuộc địa Anh bồi dưỡng nên. Chúng tôi đã cùng học qua nhiều trường, đọc cùng thứ sách giáo khoa và có chung một số đặc tính và thái độ sống. Trường công của người Anh không phải là hệ thống duy nhất khuyến khích xây dựng mạng lưới thông qua cách ăn nói, trang phục và phong cách, và một tác phong làm các việc trên đời.