Suốt hai năm 1958 và 1959, cứ ba hay bốn tuần tôi lại đi thăm Devan Nair, Lim Chin Siong, Fong Swee Suan, Woodhull và Puthucheary tại trại giam của họ, nằm ngay phía ngoài Nhà tù Changi, tôi thường mang cho họ một hũ lớn cà-ri gà do đầu bếp của tôi nấu, bánh mì nóng của một tiệm bánh trên đường tới Changi và khi được phép, tôi còn mang thêm vài chai bia Anchor. Trong những lần gặp gỡ ấy, tôi đã bóng gió nói rằng tôi rất đỗi nghi ngờ khả năng chiến thắng trong kỳ bầu cử kế, vì một chính phủ của PAP sẽ mau chóng gặp rắc rối với MCP. Điều này khiến họ lo lắng, vì họ có thể sẽ phải ngồi tù nhiều năm nữa trừ phi PAP thắng và nắm chính phủ. Dần dần, họ tỉnh táo lại và hứa hẹn công khai ủng hộ PAP. Tôi biết những lời hứa này là không có giá trị, nên tôi yêu cầu họ viết ra những điều kiện cho việc họ ủng hộ chúng tôi. Nair phác thảo và họ bàn bạc rất lâu về văn bản đó, vì vốn dĩ những người bị giam có dư rất nhiều thời giờ.
Nair, bị giam từ 1956, đã bắt đầu mất niềm tin vào chính nghĩa của ông ta. Sau vụ nhóm cán bộ thứ hai của CUF mưu nắm quyền kiểm soát PAP, ông ta hết hy vọng khiến họ hiểu ra vấn đề. Một ngày nọ, Corridon dàn xếp cho tôi gặp riêng Nair trong một ngôi nhà biệt lập trên đảo St. John và tôi đã ở đó gần trọn một ngày. Ông ta nói với tôi về sự tỉnh ngộ của mình và tỏ ý muốn rời khỏi hoạt động chính trị. Tôi lắng nghe, trấn an ông ta và khuyên ông đừng nên làm chuyện gì manh động.
Tôi cảm thấy rằng một người Ấn như ông ta sẽ chẳng bao giờ thoải mái trong một phong trào có tư tưởng bá quyền Trung Quốc. Nhưng ông ta đã rơi vào một vị trí khó khăn, ông đã là thành viên của Liên đoàn bài Anh, và là đối tượng đảng của MCP. Đảng MCP chỉ có một ít đảng viên kiên định không phải người Hoa, và Nair là một trong số những người Ấn theo Anh học đáng tin cậy. Ý nghĩ ly khai của ông – hay có thể là phản bội – sẽ là một đòn nặng đối với họ, và phản ứng của họ có thể sẽ rất cực đoan. Điều này thì ông ta hiểu rất rõ.
Bản phác thảo đầu tiên của Nair không trùng hợp hoàn toàn với chính sách của PAP mà chúng tôi dự định công bố vài tháng trước kỳ bầu cử, nên tôi yêu cầu ông ta soạn thảo lại lần nữa. Tôi bảo với ông ta rằng Raja, Keng Swee, Chin Chye và tôi đang biên soạn một tài liệu mang tên là “Những nhiệm vụ trước mắt” và chương đầu của nó sẽ minh định lập trường chính trị của chúng tôi – độc lập cho Singapore thông qua việc hợp nhất với một Malaya dân chủ, xã hội chủ nghĩa và phi cộng sản. Ông ta bị giằng xé giữa quan điểm không khoan nhượng của chúng tôi và sự lưỡng lự của các bạn tù thân cộng của ông ta trong việc chấp nhận quan điểm đó.
Đầu năm 1959, Nair đã soạn xong tuyên bố chính trị sẵn sàng cho năm người bạn tù chủ chốt của ông ta cùng ký tên. Bản tuyên bố dành sự công khai ủng hộ cho lập trường của PAP là Singapore sẽ độc lập và hợp nhất với một Malaya dân chủ, xã hội chủ nghĩa và phi cộng sản. Đây là điều căn bản. Không có sự cam kết này, tôi có thể dự đoán họ sẽ tiến hành một phong trào để đạt được điều đó bên ngoài Liên bang Malaya. Họ chẳng có chọn lựa nào khác, vì Malaya có một chính phủ chống cộng với hậu thuẫn vững chắc của người Malay mà họ không thể tuyên truyền thuyết phục và cũng không thể tiêu diệt bằng vũ lực được khi quân đội Malay ngày càng lớn mạnh với sự hỗ trợ của quân đội Anh. Và cũng đến ngày Lim Chin Siong đồng ý ký vào bản tuyên bố, và những người khác theo sau. Tôi nhận được bản sao của nó một vài tuần trước ngày quyết định danh sách ứng cử của PAP vào 25/4 và hiểu rằng khi được tự do họ sẽ lập tức tuyên bố lập trường của mình và đưa bản tuyên bố đó ra trong một cuộc họp báo.
Điều gì đã khiến Lim Chin Siong ký vào đó? Ông ta có thể đã tính toán rằng không có sự bảo đảm cộng tác của họ, chúng tôi sẽ không tranh đấu để thắng trong kỳ bầu cử này. Như vậy, đó là một thế lưỡng nan phân đôi nghiêm trọng. Tôi biết rằng chính phủ sắp tới sẽ đối mặt những vấn đề rất to lớn. Tỷ lệ thất nghiệp là khoảng 12%. Mỗi năm, lại thêm 62.000 đứa trẻ ra đời. Với mức tăng dân số hàng năm là 4%, viễn cảnh phát triển kinh tế rất u ám. Chúng tôi không có một vùng đại lục, không có một thị trường nội địa lớn cho những ngành công nghiệp quốc gia, và có một bầu khí xung đột chủ thợ bất lợi. Tôi hoàn toàn không chút tin tưởng rằng chúng tôi sẽ đương cự được những đợt tấn công chắc chắn sẽ xảy ra của phong trào công nhân.
Raja, một người lý tưởng và là một nhà lập thuyết, ủng hộ việc hình thành một lực lượng đối lập mạnh mẽ. Keng Swee và Kenny, vốn là những nhà hành chính, lại tin rằng chúng tôi phải thành lập chính phủ. Họ lý luận rằng nạn tham ô sẽ lan tràn từ các Bộ trưởng xuống toàn bộ nền hành chính, và nếu chúng tôi đứng ngoài thêm một nhiệm kỳ năm năm nữa dưới sự cai trị của Lim Yew Hock thì sẽ không còn một guồng máy hành chính đủ hữu hiệu để thực thi những chính sách của chúng tôi. Không giống như lực lượng khuynh tả, chúng tôi không có một đội ngũ cán bộ để thay thế guồng máy ấy. Đến tháng 2, chúng tôi đã quyết định phải chiến đấu để chiến thắng, và để chuẩn bị, Keng Swee và Kenny đã từ nhiệm chức vụ của họ trong chính phủ theo một điều luật đặc biệt cho phép những công chức cao cấp được ra tranh cử và tiếp tục nhận trợ cấp hưu bổng. Đối thủ chính của chúng tôi sẽ là Liên minh nhân dân Singapore (Singapore People’s Alliance – SPA), một tổ chức thống nhất của Mặt trận Lao động và đảng Xã hội Tự do mà Lim Yew Hock đã tạo ra vào tháng 11 năm trước.
Chúng tôi phác thảo những tài liệu chính sách về kinh tế, giáo dục, y tế, gia cư, phát triển nông thôn, lao động và nữ quyền, rồi cho ấn hành dưới dạng một loại những tập mỏng dưới tên chung là “Những nhiệm vụ trước mắt”.
Chúng tôi phát động chiến dịch tranh cử vào Chủ nhật ngày 15/2 với một cuộc mít–tinh tiền bầu cử tại Hong Lim Green, tại đó Chin Chye tiết lộ rằng người Mỹ đã ủng hộ 600.000 đôla cho SPA:
“Một bí mật mà ai hiện cũng biết là việc kiểm tra thuế lợi tức về một tài khoản nửa triệu trong National City Bank tại New York dưới tên một ủy viên chính phủ đã bị ngăn chặn một cách mau lẹ và chu đáo bởi vì số tiền này là một khoản ủng hộ chính trị, không thuộc loại bị đánh thuế lợi tức.”
Quả là một tiếng bom.
SPA tố cáo lời buộc tội đó là dối trá. Tổng lãnh sự Mỹ đưa ra một bản tuyên bố phủ nhận việc chính phủ Mỹ có đóng góp gì đó cho SPA – Mỹ không hề có chính sách can thiệp vào nội tình chính trị của các nước khác. Vào ngày 18/2, tôi đưa ra một kiến nghị trước Hội đồng lập pháp trong đó nêu rõ người đứng tên tài khoản đó là Chew Swee Kee và yêu cầu lập một ủy ban điều tra. Khi kiến nghị này sắp được thảo luận vào ngày 4/3, Chew từ chức ủy viên giáo dục và đại biểu trong Hội đồng lập pháp. Trong một văn bản tuyên bố, ông ta nói: “Tôi muốn làm trong sạch tên tuổi của SPA. Tôi chẳng có gì phải giấu diếm.”
Trong cuộc thảo luận, tôi nói vào năm 1957, Chew đã nhận 300.000 đôla cho đảng của ông ta, một phần trong đó được dùng cho cuộc bầu cử Hội đồng thành phố, và năm 1958, ông ta lại nhận thêm 500.000 nữa cũng dùng cho những mục đích chính trị. Tôi tiết lộ rằng tôi đã được Francis Thomas đồng ý cho tôi nói ra rằng chính ông ta là người đã cho tôi biết chuyện Chew nhận 800.000 đôla. Khi tôi nói điều đó, Thomas rời dãy ghế của chính phủ và đi qua ngồi vào dãy ghế của phe đối lập23. Sau này ông ta giải thích với báo chí rằng ông ta đã không tiết lộ vấn đề vào cái lúc nó có thể hủy hoại đảng Lao động và có lẽ hại cả chính phủ nữa mà chính phủ lúc ấy đang làm được việc. Tuy nhiên vào giữa năm 1958 ông bắt đầu thấy rõ rằng Mặt trận Lao động không còn trong sạch hóa được nữa và ông ta đã nói với tôi về vụ tiền bạc ấy và yêu cầu tôi giữ kín (và tôi đã làm thế). Đến thời điểm ấy, ông ta đã từ chức ủy viên chính phủ của mình.
Khi đạt được mục tiêu vạch trần chuyện SPA nhận tiền của người Mỹ, tôi ngỏ ý rút lại kiến nghị của mình, nhưng Lim Yew Hock, một cách thiếu khôn ngoan, đã từ chối điều đó. Ông ta tuyên bố chính phủ không có gì phải giấu diếm và muốn ủy ban điều tra tìm cho ra, không phải chuyện lời tố cáo đó đúng hay không, mà là chuyện làm sao mà tin tức ấy từ Sở thuế lợi tức lại rò rỉ ra ngoài. Ủy ban khởi sự điều tra vào ngày 6/4, dưới quyền của chánh án Murray Buttrose, một người Úc đã phục vụ quân đội Anh từ hồi chiến tranh, và tôi ra trước ủy ban thay cho Kenny và Chin Chye. Những chi tiết phơi bày thêm sau đó đã gây tai hại hơn cho chính phủ SPA. Chew thừa nhận rằng, với 800.000 đôla ấy, ông ta đã mua một căn nhà tại Ipoh đứng tên vợ ông với giá 51.000 đôla, đầu tư 250.000 đôla vào công ty Perak Mining Enterprise Ltd dưới tên Chong, một thành viên đáng tin cậy trong đảng, và đang định đầu tư thêm 30.000 đôla nữa vào một công ty khai mỏ khác cũng tại Ipoh dưới tên Chong. Ông đã tặng một số cổ phiếu trị giá 50.000 đôla của công ty khai mỏ cho bà Hamid Jumat, vợ của ủy viên UMNO phụ trách chính quyền địa phương. Đại diện của National City Bank tại New York từ chối công khai nêu tên của người đã tặng số tiền đó, nhưng đã viết tên ấy vào một mảnh giấy và đưa nó cho chủ tịch ủy ban, và ông này cũng không tiết lộ ra.
Những phát hiện của ủy ban được công bố ngày 25/5 đã khẳng định một cách cụ thể những gì Chin Chye đã nói trong diễn văn trong cuộc mít–tinh nọ. Bản báo cáo của ủy ban được công bố cho báo chí vào ngày 27/5, hai ngày trước hôm bầu cử. Nó cũng chỉ khẳng định điều mà mọi cử tri đã biết – rằng chính phủ của Lim Yew Hock là thối nát, và tệ hơn, hiện nay nó đã nhận tiền của Mỹ.
Như tôi đã dự liệu, các đảng đối lập rối tung lên khi tới gần ngày công bố danh sách ứng cử. Tôi biết Lim Yew Hock muốn có UMNO và MCA trong SPA của ông ta bên cạnh Mặt trận Lao động và đảng Xã hội Tự do. Ông ta nóng lòng muốn ngăn chặn việc tái diễn cảnh chia cắt số phiếu của tầng lớp ôn hòa như đã từng xảy ra trong kỳ bầu cử Hội đồng thành phố. Nhưng nó đã không được như thế. Hậu quả tai hại của vụ Chew Swee Kee và kết quả bất lợi do ủy ban điều tra công bố đã khiến cử tri ngoảnh mặt đi với họ. Trong khi đó, sự bất đồng quan điểm giữa các đảng viên Xã hội Tự do đã dẫn tới tình trạng hoàn toàn rối loạn khi tất cả các đảng viên có chân trong Hội đồng lập pháp và cả các đảng viên thường đã rời khỏi đảng. Thay vì sáp nhập vào SPA như họ đã đồng ý trước đó, những người Xã hội Tự do đã tham gia cuộc bầu cử với tư cách độc lập.
Vào ngày công bố danh sách ứng cử, 25/4/1959, SPA ra tranh cử 39 ghế, Xã hội Tự do 32 và có 34 ứng viên tự do. PAP ra tranh cử 51 ghế với 34 ứng viên người Hoa, 10 người Malaya, 6 người Ấn và một người Á lai Âu. Chúng tôi có tỷ lệ nhiều người Malay và người Ấn hơn so với tỷ lệ dân số, nhưng chúng tôi nghĩ như thế sẽ tốt cho tinh thần của các khối thiểu số hơn.
Chúng tôi tổ chức sáu cuộc đại hội cử tri và từ 60 tới 100 cuộc mít–tinh trên đường phố trong 33 ngày đêm vận động tranh cử, ngay từ những ngày đầu, giới cá cược đã đánh cá về số ghế chúng tôi sẽ giành được, đó là một dấu hiệu tốt. Những đảng phái khác biết điều này và rất nản chí nhưng không tiến hành vận động mạnh mẽ và rõ ràng được. Trong khi đó, các tay vận động tranh cử của PAP tỏ ra cực kỳ năng động. Rất nhiều ứng viên của chúng tôi ở độ tuổi dưới 30 và những diễn văn của họ đã gợi lên nhiệt huyết mạnh mẽ trong giới cử tri trẻ. Chúng tôi đã phá vỡ truyền thống của người Hoa bằng cách đưa ra tranh cử ba người Hoa làm nghề hớt tóc – theo truyền thống, thợ hớt tóc, đồ tể và giới xướng ca thì không được dự những kỳ thi của triều đình. Chúng tôi tiêu biểu cho trật tự mới có thể tách ly khỏi những thái độ kiểu phong kiến ấy.
Giữa cuộc vận động sôi nổi kích động đó, tôi cảm thấy Thủ tướng Malaya và đồng sự tại Kuala Lumpur đã không nhìn viễn tượng chiến thắng của PAP phi cộng sản tại Singapore bằng con mắt thiện cảm. Hamid Jumat đã nói trong một đại hội UMNO tại Geylang Serai rằng trong khi Malaya chống cộng thì PAP chỉ phi cộng sản thôi. Dân Malay không thích những kẻ có quan điểm lưng chừng, và việc hợp nhất với Malaya như thế chỉ là chuyện viễn mơ. Ngày kế tiếp, sau khi tôi gọi cuộc nói chuyện ấy là “điên loạn”, ông ta đã ép buộc tôi phải dứt khoát chống cộng. Đây là một điều lạ ở Hamid, và tôi tin rằng ông ta đã nhận được thông điệp từ Kuala Lumpur. Thế là rõ Thủ tướng Malaya ủng hộ phía nào.
Chủ nhật ngày 22/3, Keng Swee đọc một bài diễn văn “Về chính sách kinh tế”, vốn là một phần của “Các nhiệm vụ trước mắt”, và giải thích nhu cầu hợp tác giữa Singapore và Malaya. “Để đổi lấy một thị trường chung, chúng ta có thể đề nghị Liên bang cùng kiểm soát các cảng của chúng ta vốn là cửa ngõ cho phần lớn hoạt động ngoại thương của Malaya”. Nhưng Tan Siew Sin, hiện là Bộ trưởng công thương liên bang, đã tuyên bố rằng “PAP không hiểu họ đang nói gì. Ý nghĩ về một thị trường chung là không thực tế. PAP phải nhận ra rằng người ta không thể cùng lúc có được cả một thị trường chung lẫn một hải cảng tự do. Ta phải chọn một trong hai.”
Vào lúc ấy, tôi nghĩ ông ta chỉ nỗ lực hỗ trợ phía bên kia trong cuộc bầu cử. Rất lâu sau này tôi mới hiểu ra ông ta kiên định với những quan điểm ấy đến mức nào. Keng Swee vốn là anh em họ với Tan, nhưng Tan sẽ chẳng bao giờ nhượng bộ Singapore điều gì như sau này chúng tôi nhận ra. Bầu không khí chung ở Kuala Lumpur là thù nghịch với PAP. Thủ tướng Malaya đã phong tặng tước hiệu Tun cho Lim Yew Hock, vốn là phần thưởng cao quý nhất ở Malaya, và nói rằng tuy ông ta không tham gia vào chiến dịch vận động tranh cử, nhưng ông ta sẽ đứng sau hỗ trợ cho UMNO. Ông ta ủng hộ hàng ngũ chống cộng trong PAP, và cảnh cáo rằng bất kỳ phần tử thân cộng nào trong UMNO sẽ bị khai trừ nếu họ ra ứng cử với tư cách độc lập.
Chính phủ Mỹ cũng không ủng hộ PAP lắm. Tờ Straits Times ghi nhận tiên đoán trên trang thương mại của tờ Foreign Commerce Weekly rằng Singapore có thể ngả sang phe tả và từ bỏ truyền thống kinh tế tư nhân của nó. “Khả năng này khiến người ta không thể đánh giá tầm nhìn kinh tế và viễn cảnh thương mại của đô thị này,” bài báo viết tiếp như thế. Tình hình tài chính của Singapore là lành mạnh, nhưng “trái với Liên bang, môi trường đầu tư ở Singapore tiếp tục xấu đi cho dù chính phủ bày tỏ ước muốn thu hút đầu tư nước ngoài”.
Một cách tất yếu, báo chí tiếng Anh có xu hướng kịch liệt chống PAP, không như các tờ tiếng Hoa và Malay vốn thân thiện hơn. Sự thù ghét này đã khơi ra một cuộc chiến khi tôi mở đợt công kích đầu tiên của mình vào 15/4:
“Đã thành một bí mật cho mọi người rằng (nếu PAP thắng cử) ban biên tập của tờ Straits Times sẽ cuốn gói về Kuala Lumpur. Những người đi theo quan điểm của tờ báo cũng phải cuốn gói theo họ. (Vì) nếu bạn đọc những gì được in trên báo, bạn sẽ nghĩ chúng tôi là những người cực đoan và man rợ.”
Chuyện này xảy ra tại một cuộc mít–tinh tại quảng trường Fullerton ngay trung tâm thành phố, kế trụ sở bưu điện trung ương, gần những ngân hàng Anh quanh quảng trường Raffles. Những người tham dự chủ yếu là nhân viên kỹ thuật thuộc khối nói tiếng Anh. Tôi chỉ vào một bài báo có tựa in chữ lớn tường thuật rằng cảnh sát đã từ chối không cho PAP tổ chức mít–tinh tại quảng trường Empress, rồi đọc đoạn cuối cùng của bài viết, nói thêm rằng cuộc mít–tinh sẽ diễn ra tại nơi chúng tôi đang đứng đây. Tôi so sánh bài này với bài tường thuật quy mô về một cuộc mít–tinh của SPA. Đây là một sự thiên vị trắng trợn. “Nếu người ta cố gắng hại chúng ta,” tôi cảnh cáo, “chúng ta sẽ trả đòn mạnh như đòn họ đã ra.”
Tại cuộc mít–tinh kế tiếp, Raja công kích tiếp vào tờ Singapore Standard. Ông ta nói họ hô hào tự do ngôn luận, nhưng họ lại bóp nghẹt quan điểm của những ai không đồng quan điểm với họ. Ông ta có đủ tư cách để nói điều đó. Là một biên tập viên trợ lý của tờ báo từ năm 1950 đến 1954, ông đã được lệnh rằng phải thay đổi chính sách hoặc ra đi. Ông ta đã ra đi và tờ báo trở nên chống PAP. Một tuần sau, ông ta quay sang tờ Straits Times, nơi ông ta từng làm việc sau khi rời khỏi tờ Standard. Ông ta biết rõ ai điều hành tờ báo và nêu tên bốn người, tất cả đều là người da trắng, trong đó có A.C. Simmons, người điều hành công việc hàng ngày. Simmons hiểu rằng Raja và tôi không đùa khi nói rằng nếu chúng tôi lập chính phủ, chúng tôi sẽ đối đầu với họ. Họ đã chuẩn bị di chuyển cả ban biên tập về Kuala Lumpur vì họ e ngại một chiến thắng của PAP. Tôi biết chắc họ quyết tâm chiến đấu chống lại chúng tôi ngay từ thủ đô liên bang. Khi tôi viết cho họ:
“Nếu những tờ báo của dân địa phương phê phán chúng tôi, thì chúng tôi biết rằng những phê phán ấy, dù đúng hay sai, cũng là sự phê phán thành thật, bởi vì họ phải ở đây và chịu đựng hậu quả của bất kỳ chính sách hay động cơ ngu xuẩn nào mà có thể họ đã chủ trương. Những kẻ tạm trú đang điều hành tờ Straits Times thì không như thế. Họ phải chạy về Liên bang và với sự an toàn nơi đây, họ dõng dạc tuyên bố sẵn sàng chết cho nền tự do của Singapore.”
Leslie Hoffman, biên tập viên, đã trả lời ngay trong ngày:
“Tôi không phải kẻ tạm trú. Tôi, người chịu trách nhiệm về chủ trương và nội dung xã luận của tờ báo này, vẫn có ý định ở lại Singapore, cho dù ông Lee và PAP có lên nắm quyền, và cho dù họ có sử dụng pháp lệnh PPSO để chống lại tôi… thì quê hương tôi vẫn là Singapore.”
Nhưng ông ta đã về Kuala Lumpur trước khi cuộc bầu cử kết thúc. Năm ngày trước hôm bỏ phiếu, Hoffman phát biểu trong cuộc họp hàng năm của International Press Institute (IPI – Học viện báo chí quốc tế) tại Tây Berlin trước các nhà báo, biên tập viên và nhà xuất bản rằng những đe dọa của chúng tôi có thể được hiểu như “những lời thống trách của một nhóm các chính khách điên lên vì quyền lực”. Ngược lại, tờ Straits Times viết: “Tờ báo được xuất bản và điều hành bởi những người Malay ra đời tại đó, những người đã ở đó trọn đời của họ, và là những người thực tình trong tinh thần dân tộc và lòng trung thành của mình với đất nước.” Ông ta sẽ không thừa nhận rằng chính các ông chủ người Anh của ông ta mới là người sở hữu tờ báo và chỉ đạo các chính sách của nó.
Simmons hiểu ông ta rất dễ bị tấn công. Nên ông ta đã chỉ bảo cho Hoffman, một người Âu lai Á, để đưa trường hợp của ông ta ra trước IPI. Hoffman nói thêm: “Trong ý nghĩa này, thật là độc đáo khi nó tạo cho hội đồng này một cơ hội để chấm dứt vĩnh viễn sự nỗ lực của một chính đảng muốn thu hút sự ủng hộ của quần chúng cho ý đồ công khai của họ là hạn chế tự do báo chí.” Nhưng đó chính là điều PAP dự định sẽ làm – thu hút sự ủng hộ của quần chúng đối với chủ trương rằng báo chí sẽ không còn nằm dưới sự sở hữu của người ngoại quốc nữa. Hoffman trích điều tôi đã phát biểu vào ngày 18/5:
“Bất cứ tờ báo nào muốn phá hoại hay làm căng thẳng các mối quan hệ giữa Liên bang Malaya và Singapore sau ngày 30/5 sẽ bị truy tố về tội mưu phản. Bất cứ biên tập viên, phụ tá biên tập hay phóng viên nào đi theo con đường này đều sẽ bị truy tố theo pháp lệnh PPSO. Chúng tôi sẽ truy tố và bắt giam những người đó.”
Thái độ của tờ Straits Times còn thậm chí không thể biện minh được vì chúng tôi, lực lượng quốc gia, đang kiểm soát chặt cuộc vận động tranh cử, một điều làm tôi rất hài lòng. Chúng tôi đã sắp xếp lịch trình, quyết định các chủ đề và viết những bài diễn văn quan trọng. Các lãnh tụ cánh tả không đem những tổ chức quần chúng của họ đến dự những cuộc mít–tinh của chúng tôi được. Mặc dù phái khuynh tả đang tập hợp trong các chi bộ PAP và một số có thể trở thành ứng cử viên, Pang Boon và tôi đã giảm thiểu mối nguy này qua việc chọn lọc rất cẩn thận các ứng viên Hán học. Không còn một Lim Chin Siong nào để thao túng đám đông nữa.
Ong Eng Guan không kém cỏi lắm khi thay thế Lim Chin Siong trong vai trò phát ngôn viên tiếng Hokkien trong các buổi mít–tinh. Nhưng Pang Boon thì nói lưu loát cả tiếng Hokkien lẫn tiếng Quan thoại, còn tiếng Quan thoại của tôi cũng đã cải thiện; tuy rằng vẫn chưa đủ để vận dụng các biện pháp tu từ, nhưng giờ tôi đã có thể diễn tả tư tưởng của tôi mà không cần đến văn bản viết sẵn. Có thể tôi chỉ lặp lại bằng một thứ tiếng Quan thoại kém nhuần nhuyễn những điều đã nói bằng tiếng Anh hay Malay, nhưng tôi đã được khối dân chúng nói tiếng Hoa coi trọng hơn vì đã chịu khó học ngôn ngữ của họ. Tình trạng với Chin Chye cũng vậy, ông là người thấp bé nhưng rất sinh động trên diễn đàn. Tiếng Quan thoại của ông ta kém hơn tôi nhưng ông ta rất bạo dạn và đám đông đã hoan hô chúng tôi, họ hài lòng vì chúng tôi đã nỗ lực để có thể giao tiếp được với họ.
Khi thắng phiếu, những Bộ trưởng tương lai của chúng tôi sẽ là một khối đa chủng tộc. Raja hóa ra là người rất sáng dạ, nói tiếng Anh rất hùng hồn và giảm văn phong xã luận của mình thành thứ ngôn ngữ đường phố rất sinh động. Ông ta cũng nói tiếng Malay bình dân và truyền đạt tư tưởng của mình bằng một giọng nói mạnh mẽ và một thứ ngôn ngữ “thân thể” biểu cảm. Ngược lại, Keng Swee lại quá dở; với tư duy tốt, ông ta chuẩn bị các bài diễn văn rất chu đáo nhưng lại phát biểu bằng giọng đều đều đáng chán, ấp úng, cứ phải xem văn bản và trông thiếu hấp dẫn.
Trong một xã hội đa chủng tộc, chúng tôi gặp phải một vấn đề tất yếu. Một số ứng viên của chúng tôi có thể là những tay hùng biện bẩm sinh, nhưng không ai có thể làm một bài diễn văn trong cuộc mít–tinh tranh cử và khiến toàn bộ cử tọa cùng cười, thở dài, khóc hay giận dữ với nhau. Dù có dùng thứ tiếng nào và dùng giỏi tới đâu thì cũng chỉ có một bộ phận trong đám đông là có thể hiểu được ngay, nên diễn giả phải truyền đạt tới những bộ phận còn lại bằng các cử chỉ, nét mặt và giọng nói.
Tiếng Malay bình dân là thứ ngôn ngữ đơn giản và được nhiều người thông hiểu nhất, và diễn giả giỏi nhất của chúng tôi bằng thứ tiếng này là Yaacob bin Mohamed với lối diễn đạt đầy kịch tính và sáng sủa lôi cuốn được cả những sắc dân khác ngoài người Malay. Để phê phán thói huênh hoang của đối phương, ông ta đã trích dẫn ngạn ngữ Malay của xứ Terengganu, quê nhà của ông ta: “Gà mái đẻ mỗi lần một trứng, cả làng nghe nó cục tác; con rùa đẻ một lần cả trăm trứng, không nghe một tiếng ồn nào.” Nói cách khác, PAP đem lại rất nhiều lợi ích cho công nhân nhưng không bao giờ khoe khoang điều đó. Lý luận này được đám đông tán thưởng nhiệt liệt. Đó là thời kỳ chưa có vô tuyến truyền hình nên một giọng nói tốt, một tác phong mạnh mẽ, lôi cuốn là những lợi thế rõ rệt.
Yaacob có xuất thân nghèo khó. Sinh ra ở miền bắc Malaya và học trong một trường của giáo hội địa phương, ông ta từng lái xe tải cho Quân đội quốc gia Ấn trong chiến tranh, và khi đến Singapore vào đầu thập niên 1950, ông ta làm nghề hớt tóc dạo trước khi trở thành một người dạy giáo lý. Ông ta đã gia nhập API, một đảng quốc gia Malay rất cấp tiến, rồi đổi sang UMNO vào năm 1954, rồi thấy đảng này quá bảo thủ và thiếu công bằng nên ông gia nhập PAP vào năm 1957. Sau này, tôi sẽ cử ông ta làm thư ký quốc hội, rồi Bộ trưởng Ngoại giao. Ông ta là một tài sản quý giá đối với người Malay. Bước thăng tiến của ông từ bậc thang thấp nhất đã thành một đặc điểm trong những thời kỳ cách mạng đó. Trật tự cũ đã không còn đứng vững nữa, xã hội đang trong một tình trạng biến đổi, và rất nhiều người ít học từ giới lao động đã có cơ hội ngoi lên đỉnh cao chỉ nhờ vào khả năng, nhiệt tình và may mắn.
Phần lớn dân chúng còn nghèo, nhiều người phải sống trong các khu ổ chuột, và vì là đảng của giai cấp công nhân, chúng tôi ít nhận được tiền của ủng hộ từ những người giàu nên buộc phải vận động tranh cử mà không có nguồn tài chính gì. Nhưng chúng tôi có thể trông cậy vào sự ủng hộ tận tình của những người tình nguyện. Các ứng viên phải tự lo chi phí vận động tranh cử của họ, PAP chỉ cung cấp những bích chương và tuyên ngôn in giống nhau, chỉ thay đổi hình chụp cho mỗi ứng viên và những dòng tiểu sử của họ. Chúng tôi mướn những xe tải lớn, xe tải nhỏ và xe thùng để dùng làm diễn đàn trong các cuộc mít–tinh, đậu hai chiếc kế nhau trong những cuộc mít–tinh lớn, thường những xe này được những ủng hộ viên trong ngành vận tải cho mượn miễn phí. Có thể họ trông chờ nhận được lợi lộc trong tương lai, nhưng nhiều người trong số này vẫn tiếp tục giúp đỡ chúng tôi trong các kỳ bầu cử sau, khi chúng tôi đã nắm quyền và chẳng đem lại cho họ một ưu đãi gì. Ban đêm, chúng tôi câu điện từ những cửa hàng quen biết để thắp sắng diễn đàn, và tuy rằng chúng tôi phải mướn loa phóng thanh nhưng tiệm cho mướn lại có thợ điện tới giúp kéo dây qua những ngọn cây và những trụ điện (đôi khi những đường dây thế này tạo ra tiếng hú inh tai ngay khi chúng tôi đang đọc diễn văn.)
Đi vận động bầu cử nghĩa là đi tới mọi xó xỉnh mà bình thường giới trung lưu Anh học chẳng bao giờ đặt chân tới. Mùi rác rưởi, những con chuột cống và chó mèo hoang lở lói, những đường mương đầy rác của những gánh hàng rong trong những phố Tàu là điều tôi nhớ được về khu Tanjong Pagar trong những năm 1950. Ban đêm, những người bán hàng rong chẳng biết từ đâu đã tập họp quanh chỗ chúng tôi tổ chức mít–tinh để mong bán được hàng. Ở phía ngoài đám đông sẽ có rất nhiều trẻ con, khiến chúng tôi nhớ lại tỷ lệ tăng dân số 4% của đảo này, chúng đến để coi chơi, có đứa đi cùng cha mẹ, có đứa đi một mình. Tại những khu nông thôn như Punggol, Sembawang và Yio Chu Kang, mùi kinh khủng của phân heo không thể nào quên được và thật dễ nhận ra vào năm 1976 khi tôi đi ngang qua miền nông thôn Trung Quốc. Đó là một cuộc vận động vất vả, gian nan. Trong một tối tôi có thể đọc ba bốn bài diễn văn, lái xe từ khu vực này đến khu vực khác, tại các cuộc mít–tinh bắt đầu từ lúc 7 giờ tối và phải kết thúc lúc 10 giờ. May thay tôi đã bỏ được thuốc lá và không hề bị mất giọng, nhưng vào một đêm thời tiết nóng ẩm, tôi ướt đẫm mồ hôi khi phải nói bằng hai, thậm chí ba thứ tiếng – Malay, Quan thoại và tiếng Anh. Khi người ta tụ tập đông, nồng nhiệt và có đáp ứng, tôi có thể nói lố 30 phút dành cho mình, và luôn luôn phải phát biểu sau cùng vì đám đông thường tan dần khi diễn giả chính kết thúc. Choo thường chuẩn bị sơ mi và áo lót cho tôi thay sau mỗi bài diễn văn. Hiện nay tôi đi lại một cách đường hoàng vì từ khi chúng tôi quyết định tranh cử để giành chiến thắng vào tháng 2/1959, Choo đã mua một chiếc Mercedes Benz 220 để thay cho chiếc Studebaker cũ kỹ. Cô muốn mọi người thấy chúng tôi đi xe đó để ai cũng rõ là tôi có thể sắm nổi Mercedes mà không cần phải làm đến thủ tướng, và cô còn đi cùng tôi đến các buổi mít–tinh, đôi khi còn tự tay lái xe đưa tôi đi.
Những cuộc mít–tinh vận động thật là đáng nản lòng cho các ứng viên của SPA và đảng Xã hội Tự do. Họ thu hút được rất ít quần chúng và không tổ chức nổi những buổi mít–tinh lớn. Giới Anh học thì đương nhiên không có mặt, họ không phải loại người đứng ngoài phố để nghe những bài diễn văn. Những công nhân nói tiếng Hoa thì dù sao cũng suốt ngày ở ngoài đường vì nhà cửa của họ thiếu tiện nghi, có khi đó chỉ là những căn buồng nóng bức và ngột ngạt. Với họ, những buổi mít–tinh ngoài trời của chúng tôi, với những bài diễn văn bằng tiếng Quan thoại hay các phương ngữ khác là trò giải trí miễn phí và là dấu hiệu cho những chuyện hấp dẫn sắp xảy ra.
Những buổi mít–tinh lớn ấy là những dịp náo nhiệt đa dạng. Các kỳ bầu cử làm lộ ra các thói quen và tập tục văn hóa của các chủng tộc khác nhau. Người Hoa bày tỏ sự ủng hộ bằng những biểu ngữ gồm bốn hay tám chữ Hán gắn trên băng vải lụa. Một biểu ngữ có thể dài đến ba bốn thước và cần đến nhiều người cùng lên diễn đàn và trương lên cho công chúng xem. Sau khi ứng viên nhận biểu ngữ đó với động tác cúi đầu tạ ơn, thường sẽ có tiết mục chụp hình kỷ niệm. Một ứng viên được ưa chuộng có thể nhận được từ 50 đến 100 biểu ngữ chữ Hán như vậy, và khi treo chúng lên cùng những dây đèn màu, cuộc mít–tinh liền có ngay một không khí lễ hội. Mỗi biểu ngữ sẽ có tên của người tặng, có thể đó là tên một bang hội hay nghiệp đoàn ủng hộ hết mình cho ứng cử viên nào đó và như thế lôi cuốn mọi thành viên của họ vào hoạt động để giúp ứng viên ấy thắng cử.
Người Ấn thì đem đến những vòng hoa tươi, thường là hoa đại trắng hay cúc vạn thọ kèm những giải băng kim tuyến màu vàng hoặc bạc, có khi cả tràng hoa nặng cả ký lô. Có những dịp, hết cử tri này đến cử tri khác lên quàng cho tôi từ 6 tới 12 vòng hoa như thế vào cổ cho đến khi đầu tôi ngập trong hoa và cần cổ tôi tê cứng vì mang nặng. Cũng may là tôi không bị dị ứng với những loại hoa đó. (Tuy nhiên, những điều tệ hơn có thể xảy ra. Rajiv Gandhi, Thủ tướng Ấn Độ, bị ám sát trong một buổi mít–tinh tranh cử như thế bởi một phụ nữ tiến đến gần, không phải để quàng hoa cho ông mà để kích nổ một trái bom bà ta mang trong người.)
Người Malay thì đem tặng những tanjak, một kiểu khăn trùm đầu bằng lụa có đan chen chỉ màu vàng hoặc bạc mà các vị chức sắc dùng trong những dịp nghi lễ long trọng. Những tấm khăn ấy thường đắt tiền và hiếm khi được trao tặng. Trong một lần phát biểu với khoảng 2.000 công nhân trong một khoảng sân rộng ngay phía ngoài khu căn cứ hải quân Sembawang vào ngày 17/5, tôi đã nhấn mạnh rằng họ không cần phải lo lắng về công ăn việc làm của họ một khi chúng tôi nắm quyền. Chúng tôi không hề tìm kiếm một nền độc lập riêng biệt cho Singapore, và do đó đã đồng ý rằng người Anh vẫn giữ được quyền kiểm soát các căn cứ quân sự của họ cho đến khi chúng tôi sáp nhập vào Liên bang Malaya. Điều này làm an lòng khoảng 45.000 công nhân dân sự làm việc cho quân đội, nhiều người trong số đó đã từ Ấn Độ theo chân quân đội Anh qua đây và có quyền bầu cử vì họ là công dân Anh.
Trong một cuộc mít–tinh vào buổi trưa ở cảng Clifford, tôi đã giải thích lý do chúng tôi duy trì pháp lệnh PPSO nếu chúng tôi nắm quyền, và nhấn mạnh rằng cuộc chiến đấu thực sự bây giờ sẽ xảy ra giữa PAP và MCP. Tôi kể lại việc Marshall đã dao động lập trường thế nào, bị đẩy từ quan điểm này sang quan điểm khác ra sao, và đã thoái lui khi đối diện các cuộc biểu tình của phái tả như thế nào; và chuyện Lim Yew Hock, ngược lại, đã sử dụng bạo lực ra sao cho đến khi người Anh và lực lượng trực thăng của họ kiểm soát được tình hình. Tôi nói thẳng thừng: “Chính phủ PAP sẽ không vướng vào cả hai kiểu sai lầm ấy. Chúng tôi sẽ không để bị khủng bố hay đe dọa, và cũng không sử dụng sự đàn áp như một phương tiện của chính quyền. Chúng tôi sẽ điều hành đất nước với thiện chí và ủng hộ của dân chúng, một cách kiên quyết, khôn ngoan và công bằng.” Tôi muốn tránh mọi lời buộc tội là đã thắng cử bằng những hứa hẹn giả trá.
Goode đã giữ liên lạc với tôi sau hội nghị về hiến pháp tại London hồi tháng 5/1958, và về các vấn đề liên quan tới chính phủ tương lai, ông luôn cho tôi cơ hội để bày tỏ quan điểm của mình. Chẳng hạn, ông ta đã hỏi ý kiến của tôi về việc chọn John Wyatt làm chánh án Tối cao pháp viện cho đến khi hoàn tất cuộc bầu cử khi thủ tướng mới có thể bổ nhiệm người khác. Người Anh không muốn phải đưa ra một quyết định bổ nhiệm rồi sau đó lại hủy bỏ hay thay đổi. Tôi không phản đối quyết định nào của họ. Thư ký của ông ta là Pamela Hickley có thể gọi điện cho Choo tại văn phòng Lee & Lee và hỏi tôi có thể đến gặp thống đốc được không, thường là vào giờ uống trà buổi chiều. Tôi thường đến gặp ông ta tại khu văn phòng của Dinh chính phủ ở tầng 2 (nơi tôi làm việc kể từ 1971). Chúng tôi sẽ nói chuyện khoảng một giờ bên tách trà, với bình trà bạc và thứ trà Anh pha với sữa và đường. Những cuộc gặp ấy vẫn tiếp tục ngay trong thời gian vận động tranh cử, khi đó có lần ông ta đùa cợt về việc chấm dứt ủng hộ Lim Yew Hock và những người khác cứ như tước những cây kẹo khỏi tay một đứa trẻ. Tôi đã cảnh giác ông ta khi chiến dịch tranh cử đang gay gắt dần rằng chúng tôi không thể không trung thành với những tuyên bố về chính sách trong “Những nhiệm vụ trước mắt” được. Quan điểm chính trị đang được vạch ra và chúng tôi phải tiếp tục theo đuổi nó. Tôi bảo đảm với ông ta rằng chúng tôi sẽ tiếp tục kiên định với chương trình của mình.
Ngày đầu phiếu, thứ bảy 30/5/1959, thì yên tĩnh và trật tự trái hẳn với kỳ bầu cử tháng 4/1955. Theo những điều luật mới mà tôi đã thuyết phục Lim Yew Hock thông qua, đi bầu là bắt buộc, việc dùng xe hơi chở cử tri tới địa điểm đầu phiếu là phi pháp, không có trò vận động hay cho thành viên của đảng đeo biểu tượng đảng xuất hiện gần các địa điểm đầu phiếu, nên đã không có những trò gây ảnh hưởng, áp lực, mua chuộc hay đút lót nữa. Cuộc đầu phiếu chấm dứt lúc 8 giờ tối; việc kiểm phiếu bắt đầu tại bảy trung tâm từ 9 giờ tốì và kết thúc lúc 2 giờ 45 sáng.
Chúng tôi chiếm được 43 trong số 51 ghế tranh cử, với 53,4% tổng số phiếu của 90% cử tri tham gia bầu cử. SPA giành được 4 ghế, UMNO 3 ghế và một ghế cho ứng viên độc lập (A.P. Rajah). Lim Yew Hock thắng cử tại Cairnhill (đánh bại Marshall) và Hamid Jumat thắng tại Geylang Serai. Tôi phát biểu trong một cuộc họp báo rằng: “Phán quyết của dân chúng rất rõ ràng và dứt khoát. Đó là chiến thắng của cái đúng đối với cái sai, trong sạch đối với thối nát và chân chính đối với tà ác.” Ứng viên có số phiếu cao nhất là Ong Eng Guan, cựu thị trưởng. Cử tri ở đơn vị Hong Lim của ông ta trong khu phố Tàu đã tán đồng những biện pháp thái quá của ông ta và sự ủng hộ này chỉ làm tăng thêm lòng tự phụ ở ông ta mà thôi.