Hồ Sinh Tử

Chương 49

Ngày 19 tháng 6 năm 2012, ngày giỗ thứ mười bảy của Thân Minh.

Vầng trăng non treo lơ lửng trên nền trời, xuyên qua con ngõ nhỏ trên đường Nam Minh, giữa nền móng của hai tòa nhà mới xây sẽ thấy được khu nhà xưởng hoang phế. Dưới những ống khói cao chót vót là những bụi cỏ um tùm vang vọng tiếng côn trùng vo ve và tiếng ếch kêu ộp oạp. Chui qua khu xưởng ọp ẹp, ánh sáng đèn pin cứ rọi thẳng mãi đến lối đi ngầm loang lổ.

Khu Ma nữ.

Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy... nhẩm đúng bảy bước, vừa hay là đầu kia của đường hầm, đối mặt với một cánh cửa kim loại dày cộp có nắm cửa hình tròn, bên trên chăng đầy mạng nhện.

Hít sâu.

Tưởng tượng ra thi thể nằm giữa đống máu me của thầy Thân Minh, thân xác 25 tuổi giờ rữa nát... cô không dám mở cửa.

Đúng 10 giờ.

Trèo lên được mặt đất của khu nhà xưởng hoang phế, cô nửa ngồi nửa quỳ, mở túi giấy mang theo người, lôi ra một ít vàng mã màu trắng bạc, rồi nhóm lên một đốm lửa. Người đang ngồi đốt những những đồ vàng mã dành cho người âm ấy là một cô gái mặc váy trắng, mái tóc đen xõa xuống che nửa gương mặt, những ngón tay mảnh dẻ cứ chốc chốc lại tiến gần vào ngọn lửa. Cô không phải là Nhiếp Tiểu Sảnh trong “Sảnh Nữ u hồn”, cũng không phải là ma nữ hay hồ ly tinh trong truyền thuyết, chỉ là trẻ đến mức không khác gì yêu tinh - chẳng trách bạn học đều gọi cô là “Hiện thân của thần tiên tỉ tỉ”. Thì ra, cô chưa từng lỗi hẹn, chỉ tiếc đã muộn mất mười bảy năm mà thôi.

Ánh lửa nhuộm hồng gương mặt cô gái, cô cẩn thận vuốt phẳng nếp váy, tránh bị lửa bén vào. Vài mẩu trò tàn bay liệng trước mắt, nước mắt từ má cô lã chã rơi xuống ngọn lửa, phát ra những tiếng ì xèo của hơi nước bốc lên.

Bỗng phía sau có tiếng động gì đó - ai đang khóc vậy?

Âu Dương Tiểu Chi quay ngoắt đầu lại, trong giây phút đó, cô thấy bóng người đứng dậy từ lối ngầm đi vào khu Ma nữ, tựa như người chết sống lại. Chàng thiếu niên 17 tuổi Tư Vọng.

Cô khẽ kêu lên một tiếng bi thảm tới mức làm cho tất cả u hồn dã quỷ ở chốn hoang vu này phải sợ hãi lùi bước. Cô đưa ống tay áo lên bưng lấy mặt: “Em... sao em lại ở đây?”

“Tiểu Chi.”

Đợt thi cuối kỳ của lớp 10 đã kết thúc từ tuần trước, chỉ còn một mình Tư Vọng chưa rời trường. Cậu bước qua đám lửa đốt vàng mã, chậm rãi nhích lại gần chiếc váy trắng của cô như thể muốn lột bỏ lớp da của yêu quái.

“Không được đụng vào tôi!”

Cậu túm chặt lấy đôi bờ vai đang giãy giụa của cô giáo: “Đừng sợ! Có tôi đây rồi!”

“Tư Vọng, em điên rồi sao?” Cô lại một lần nữa ngẩng cao đầu, trở về với dáng vẻ một giáo viên đang nghiêm khắc tra hỏi: “Đã nghỉ hè rồi, sao em còn chưa về nhà? Nửa đêm đến đây làm gì?”

“Câu hỏi này, phải để em hỏi cô mới đúng.”

Cậu thiếu niên nhìn thẳng vào mắt cô, nước mắt chưa khô vẫn long lanh trên khóe mi, cho tới tận khi đám lửa sau lưng cô tắt hẳn, chỉ còn lại tro tàn màu vàng và đen.

“Đó không phải là việc của em, khi anh ấy chết, em vẫn còn chưa ra đời.” Cô lại một lần nữa liều mạng giãy giụa: “Buông tay tôi ra!”

Tư Vọng giờ đã mạnh mẽ hơn rất nhiều, đôi bờ vai vững chãi không chút suy suyển, năm đầu ngón tay như thép kẹp chặt lấy cổ tay cô: “Có còn nhớ Câu lạc bộ thơ Chết không?”

Nghe được giọng nói trầm tĩnh của cậu, trái tim Tiểu Chi đập điên cuồng, cô nhìn về phía cánh cửa đường hầm rồi quay lại lắc đầu: “Em đang nói về bộ phim Mỹ kinh điển nào à?”

Khi cô còn học cấp 3, tại tòa nhà tổng hợp, thầy giáo ngữ văn Thân Minh từng chiếu bộ phim này cho học trò xem, vì thế mà bị hiệu trưởng và chủ nhiệm giáo vụ phê bình.

“Không chỉ có thế đâu, cô quên rồi ư?”

Tư Vọng cất giọng trong trẻo ngâm: “Từ ngày mai, tôi sẽ làm một người hạnh phúc/ Nuôi ngựa, đốn củi, ngao du khắp nơi/ Từ ngày mai, tôi sẽ để tâm đến đồ ăn và rau củ/ Tôi có một căn nhà, bốn bề là biển lớn, xuân tới hoa cười.”

Răng cô bắt đầu đánh vào nhau lập cập, đêm Thanh minh năm 1995, thầy Thân Minh đã dắt cô cùng với Mã Lực, Liễu Mạn trèo tường ra khỏi trường, tiến vào khu Ma nữ dưới lòng đất, ngâm vịnh những bài thơ của Hải Tử.

Câu lạc bộ thơ Chết của thầy Thân Minh là như thế đấy, nó là bí mật của bốn người bọn họ, đến cả vợ chưa cưới của thầy cũng không biết, lỡ như bị lãnh đạo nhà trường phát hiện, ở cương vị chủ nhiệm, thầy rất có thể sẽ bị đuổi việc.

Ý nghĩa của khu Ma nữ đối với bốn người bọn họ mà nói, không phải là một chốn bí mật đáng sợ, mà là Câu lạc bộ thơ Chết.

Hai tháng sau, hai thành viên trong câu lạc bộ lần lượt liên tiếp qua đời, một người chết trên đỉnh nóc thư viện, một người chết ở tầng hầm khu Ma nữ.

“Khi đó, hai nhà thơ mà Câu lạc bộ thơ Chết thường xuyên ngâm vịnh nhất chính là Hải Tử và Cố Thành, cả hai người này đều đã qua đời, một người nằm trên đường ray xe lửa tự vẫn, người còn lại đã dùng rìu chém chết vợ rồi sau đó tự sát trên một hòn đảo nhỏ ở Nam Thái Bình Dương.”

“Em đang ám chỉ cái chết của thầy Thân Minh năm đó ư?”

“Ngày 19 tháng 6 năm 1995, cô cũng ăn mặc như thế này.”

Cô cúi đầu nhìn xuống chiếc váy trắng của mình, rồi lại nhìn chằm chằm vào mắt cậu: “Em... rốt cuộc em là ai?”

“Tiểu Chi, nếu như tôi nói với em rằng - tôi là Thân Minh, liệu em có tin không?”

Giọng nói ấy vọng ra từ cổ họng, ánh mắt của cậu lúc này hoàn toàn thuộc về một người đàn ông 35 tuổi.

“Không!”

Cho nên, cậu lạnh lùng đọc lại một đoạn thoại:

“Thầy Thân.”

“Đừng nói chuyện với tôi, càng không được đến gần tôi, tôi giờ đã không còn là thầy giáo nữa rồi.”

“Nghe nói, ngày mai thầy sẽ không ở trường chúng ta nữa, khi nào thì thầy đi ạ?”

“Tối nay, tám giờ.”

“Thầy có thể đi muộn hơn một chút được không? Mười giờ tối nay, em sẽ đợi thầy ở khu Ma nữ.”

“Khu Ma nữ? Có việc gì quan trọng sao?”

“Em có một số việc muốn nói với thầy, ban ngày e là không được tiện lắm.”

“Được rồi,, tôi đồng ý với em, vừa vặn tôi cũng có điều muốn nói với em.”

“Đúng 10 giờ, gặp nhau ở cửa khu Ma nữ!”

Chiều ngày 19 tháng 6 năm 1995, ngày cuối cùng Thân Minh còn sống, đó là đoạn đối thoại cuối cùng của anh trước bức tường rào của sân vận động trường.

“Câm miệng... không... dừng lại đi... xin cậu... đừng nói tiếp nữa... cầu xin cậu...”

Cô bịt chặt tai, miệng không ngừng lắp bắp.

“Tiểu Chi, cũng vào tối này mười bảy năm trước, đúng 10 giờ, tôi đã đến, nhưng lại chẳng thấy em đâu.” Tư Vọng buông cánh tay cô ra, khẽ vuốt tóc cô, “Cái đêm trời mưa to bão lớn đó, rốt cuộc em... có tới hay không?”

Không cất nổi lời nào nữa, cô chỉ còn biết ra sức lắc đầu.

“Em không đến?” Cậu ngửi mùi hương trên tóc cô, “Được, tôi tin em.”

“Hãy để tôi đi!”

Chui ra khỏi khu nhà xưởng bẩn thỉu, vành trăng khuyết đã dần mờ nhạt, thay vào đó là bầu trời sao mênh mang của khu ngoại ô, khiến người ta nhớ lại mùa xuân của mười bảy năm trước, thầy giáo Thân Minh cùng với đám học trò ngồi trên bãi cỏ dại ngắm những vì sao rơi.

Bỗng nhiên, tà váy của Âu Dương Tiểu Chi lay mạnh, cô cố xông ra bên ngoài, nhưng cổ tay lại bị Tư Vọng giữ chặt.

Cậu học sinh thở dốc, kéo cô giáo chạy như bay về bến tàu điện ngầm, nhưng cuối cùng vẫn lỡ mất chuyến tàu cuối.

Tiểu Chi vẫy một chiếc taxi, Tư Vọng giữ chặt cửa xe không chịu buông, ánh mắt cô run rẩy nhưng lời nói ra vẫn nghiêm khắc vô cùng: “Buông tay ra! Để tôi về nhà!”

Ngày 19 tháng 6 năm 2012, 10 giờ 45 phút tối, cô ngồi trên chiếc taxi đi xa dần, cách lớp cửa kính mờ mờ nhìn về phía bầu trời không một bóng sao, trong đầu hiện lên khu Ma nữ mười bảy năm trước - trên mặt đất lạnh lẽo âm u, thầy Thân Minh cùng các thành viên Câu lạc bộ thơ Chết ngồi xung quanh vài cây nến trắng, tựa như đang tham gia nghi thức hiến tế cổ xưa nào đó, trên tường phản chiếu những cái bóng lung lay chẳng khác gì bích họa của những người tiền sử. Âu Dương Tiểu Chi mặc chiếc áo len to màu trắng giọng đầy cảm xúc ngâm bài thơ của Cố Thành: “Trời màu xám/ Đường màu xám/ Nhà màu xám/ Mưa màu xám...”