Việc bơi vào bờ quá dễ dàng. Một khi đã lên bờ, có quá nhiều cảm mến giữa người Pháp và người Ai xơ len nên người Pháp chẳng có gì nghi ngờ người Ai xơ len. Hiển nhiên là không bao giờ một người Ai xơ len lại tố cáo một tù binh Pháp.
Người ta đã thoả thuận cho tù binh vào nhà tù của thành phố.
Vừa xuống khỏi bậc thang tàu, một tù nhân lại gần René và nói với anh bằng giọng Ai xơ len không trốn vào đâu được:
- Hãy chọn tôi vào phòng của ngài, ngài sẽ không phải hối hận về điều này đâu.
René liếc nhìn con người này. Anh ta có khuôn mặt thẳng thắn và cởi mở. Khi người ta hỏi anh muốn ở cùng ai, anh chỉ vào anh ta là người thứ ba, còn để năm người khác tự họ chọn.
Mỗi phòng giam gồm có tám người.
René không quan tâm đến chuyện đòi hỏi đặc ân nào. Anh không biết rằng một khi ra khỏi Cork, anh sẽ bị dẫn đến trại giam Poltsmouth và ai biết những hình phạt khủng khiếp gì sẽ xảy ra ở những trại kinh tởm ấy. Tuy thế anh cũng không hỏi han, anh nghĩ chuyện gì đến khắc tự nó đến và anh đã không nhầm.
Quả nhiên, các tù nhân vừa vào phòng giam dành cho họ - đó là một phòng dưới tầng trệt, quay ra sân có tường bao cao 16 bộ, cửa sổ có song sắt, cái sân suốt ngày đêm có hai đội lính gác đi qua đi lại - thì anh chàng người Ai xơ len, sau khi nhìn ngó ra sân chạy lại phía René và nói thì thầm bằng tiếng Anh:
- Có phải muốn trốn thì trốn ở đây, nếu chúng ta không muốn đến trại Porsmouth không?
- Đúng thế, - René trả lời - Bây giờ thì chỉ còn tìm cách nào thôi, tôi có tiền và nếu tiền có ích, tôi sẽ dùng nó cho những người bạn tốt của mình.
- Tiền là một thứ hay - Anh chàng Ai xơ len nói - Nhưng còn có thứ hay hơn.
Rồi anh ta chỉ cho René tám thanh sắt nhọn bọc trong tám cái chân ghế.
- Khi nhận ra chúng ta sắp bị bắt - Anh chàng Ai xơ len nói thêm - tôi đã nghĩ đến tương lai và tự nhủ: "Chẳng có nhà tù nào người ta lại không trốn thoát khi người ta có lòng can đảm và cánh tay khéo léo". Thế là tôi luôn mang theo túi gậy, tôi đã cắt tám chân ghế và lấy một cái dũa chỗ thợ sắt. Đấy là tư trang của tôi.
- Tôi thấy rõ rồi - René nói - Tôi thấy rõ tám con dao găm, một cái rũa để cưa thanh chắn nhưng còn thiếu một sợi dây để leo lên tường.
- Anh có tiền, chẳng phải anh đã nói thế với tôi là gì. Tôi là người Ai xơ len, tôi biết nước tôi và đồng bào tôi. Tàu của chúng ta ít nhất phải mất sáu tuần mới trở lại trạng thái hạ thủy được. Người Ai xơ len sẽ dành cho chúng ta một trong những đêm không có lính gác Anh nào ở ngoài trong giá lạnh. Chúng chỉ mở cửa và túm tụm lại trong phòng ấm cúng. Còn về những đồng bào của tôi, nói tới người Pháp tức là nói người giải phóng cho họ, bạn bè, anh em, liên minh. Về phía đồng bào tôi, không chỉ không có gì đáng ngại mà còn đầy hy vọng nữa kia. Anh nói anh có tiền, điều này không nhất thiết cần nhưng chẳng bao giờ thừa; chúng ta sẽ thấy một gã hay, biết đâu lại chúng là cai ngục ném dây từ đầu tường bên kia cho chúng ta: vậy nên chỉ còn chờ và luôn ở tư thế sẵn sàng. Hãy để tôi lân la với thầy cai và chưa đầy 8 ngày sau, chúng ta sẽ ở ngoài, như thế không có nghĩa là chúng ta đã thoát nhưng thế cũng gần thoát rồi. Bây giờ mới người đã thấy chúng ta nói chuyện với nhau, các bạn khác có thể nghi ngờ, hãy nói chuyện với họ đừng giải thích gì cả để họ im lặng và hy vọng.
Chỉ vài lời René đã hoàn tất ý định của anh chàng Ai xơ len.
- Chà xem nào, xem chúng ta có bao nhiêu người? - ông ta nói.
Rồi ông ta đếm.
- Tám, tức là cần tám cái nệm, vì không có chuyện để các anh ngủ trên ổ rơm. Nếu các anh là người Anh hay người Êcốt thì đừng hòng.
- Hoan hô, bố Donald! - Anh chàng Ai xơ len nói.
Thầy quản ngục rùng mình. Ông ta vừa nghe ai đó gọi tên mình bằng giọng Ai xơ len.
- Ông ấy đã không quên - Anh chàng Ai xơ len nói - rằng mình là bà con bốn mươi năm độ của tướng Mac Donald mà tôi đã phục vụ ở Naples và Calabre.
- Chà cậu là người Ai xơ len à?
- Con nghĩ con là người Ai xơ len, ở Youghal, cách đây 10 dặm. Bố không nhớ con sao, bố Donald, đúng là lâu quá rồi, hơn 20 năm, con vẫn đến chơi cùng hai cậu bé, Jame và Tom. Đó là hai cậu bé kháu lắm. Họ ra sao rồi bố?
Ồng quản ngục đưa mu bàn tay lên lau mắt.
- Chúng buộc phải xung quân phục vụ người Anh: James đã mất, nó bị bắn. Còn Tom, nó cũng bị chết ở Aboukir, tội nghiệp thằng bé!
Chàng Ai xơ len nhìn René như muốn nói: "Anh thấy chưa, cũng không khó như chúng ta tưởng".
- Bọn Anh chết giẫm! - Chàng ta nói - Chúng ta sẽ không bao giờ bỏ qua cho chúng.
- À! Nếu vào tay tôi - ông Donald nói và giơ nắm đấm lên - Tôi cũng chỉ nói thế.
- Bác theo đạo Cơ đốc à? - René hỏi.
Người cai ngục đáp lại bằng cách làm dấu thánh giá.
René tiến lại phía ông ta, lấy một nhúm vàng từ trong túi vừa đặt vào tay ông vừa nói:
- Bác cầm lấy, đây là để làm lễ cầu siêu cho linh hồn các con bác được an nghỉ.
- Ông là người Anh - Người cai ngục nói - Tôi chẳng lấy gì của người Anh cả.
- Tôi là người Pháp và là người Pháp tốt bụng bác ạ, như đồng hương của bác nói đấy. Nếu người ta cầu kinh ở thế giới bên kia, tôi cũng đã cử kha khá bọn Anh đến dự lễ như trẻ hát đồng ca và tu sĩ rồi.
- Thật thế chứ - Người cai ngục hỏi anh bạn đồng hương.
- Thật như thánh Trinité vậy - Anh này trả lời.
Ông già quay lại chìa tay cho René, René siết tay ông:
- Bây giờ bác đồng ý rồi chứ?
- Đồng ý tất thưa anh, vì anh không phải là người Anh.
- Mọi chuyện thế là ổn thoả - Anh chàng Ai xơ len nói - Chúng ta đều là bạn bè và là bạn tốt, chỉ cần đối xử với nhau như bạn bè, bánh mì ngon, bia ngon và lửa khi trời quá lạnh.
- Và cả thịt cho tất cả các bữa nữa. - René nói thêm - Đây là cho tuần đầu tiên.
Rồi anh đưa ra đồng năm Louis cho ông quản ngục.
- Chà, - ông già nói với anh chàng người Ai xơ len - Đây chắc là một đô đốc?
- Không phải. - Anh chàng Ai xơ len đáp - Nhưng anh ấy giàu lắm. Anh ấy đã kiếm được chiến lợi phẩm ở vùng biển Ấn Độ và đến với chúng tôi một hay hai hôm trước trận đấu.
- Trận đánh nào" - ông cai ngục hỏi.
- Thì trận Trafalgar chứ trận nào, trận mà Nelson đã bị giết ấy.
- Cái gì! - Người cai ngục kêu lên - Nelson bị giết rồi ư?
- Đúng thế, nếu cần người ta có thể chỉ cho bố bàn tay nào đã hạ ông ta.
- Cảm ơn cho hôm nay, chúng ta sẽ nói chuyện này sau.
- Tạm biệt bố Donald, và bánh ngọt, bia ngon và thịt tươi nhé.
Tù nhân chẳng có gì phải phàn nàn về ông quản ngục của họ.
Ngay buổi tối, họ đã thấy thành ý của ông Donald muốn hoàn thành lời hứa của mình với họ ra sao. Nhưng cũng ngay tối ấy hai lính gác đi đi lại lại trong cái sân hẹp mà cửa sổ song sắt phòng giam của họ nhìn ra.
Tám ngày trôi đi mà không có lời nào trao đổi giữa những người Pháp với thầy Donald. Nhưng đổi lại, không lần nào ông cai vào phòng giam mà không thì thầm to nhỏ với người đồng hương Ai xơ len của mình.
- Sẽ ổn thôi. - Người này nói sau mỗi lần hội nghị.
Thời tiết ngày càng lạnh. Có những lúc tuyết rơi dày đến mức đám lính canh người Anh túm tụm vào bót gác. Thế là anh chàng Ai xơ len dùng dũa cắt ba thanh chắn song sắt ở cửa sổ, cái ở giữa đã bị đứt chân.
Thời tiết chuyển từ xấu sang tệ hại.
- Đưa cho tôi 100 phăng. - Một buổi tối anh chàng Ai xơ len bảo René.
- René rút ra năm đồng 5 Louis và đưa cho anh ta. Anh này đi cùng quản ngục và trở về sau một tiếng.
- Chúng ta hãy cầu Chúa cho Người khiến thời tiết đêm nay không cho con quỷ nào canh ở cửa - Anh chàng Ai xơ len nói - và chúng ta sẽ tự do.
Bữa ăn tối hôm ấy thịnh soạn hơn thường lệ và mỗi người có thể bỏ chút bánh mì kẹp thịt vào túi cho bữa trưa mai. Khoảng chín giờ tối, tuyết bắt đầu rơi cuộn theo cơn gió bắc mạnh như muốn bẻ gãy hết sừng bò trong vùng. Mười giờ, các tù nhân lắng tai nghe cũng không thấy tiếng bước chân lính gác trong sân: Có thể tấm thảm tuyết dày phủ nền gạch đã ngăn tiếng động. Họ hé mở cửa sổ thận trọng nhìn ra. Lính Anh đã vào phòng trực sưởi ấm thay vì canh ở vị trí gác của chúng.
Anh chàng Ai xơ len lượm một hòn đá trong góc nhà ném qua bức tường. Tức thì một sợi dây ném từ bên kia bức tường, rơi vào sân và đung đưa trong không khí.
- Bây giờ chỉ còn cưa đứt nốt thanh sắt này.
- Được rồi - René nói - không cần phải mất thời gian, hãy đợi đấy!
- Anh dùng hai tay bẻ mạnh về mình, và ngay từ cố gắng đầu tiên, anh đã giật tung tảng đá xây nơi cái chắn song gắn vào đó.
- Đây là vũ khí của tôi, tôi chẳng cần cái gì khác - Anh nói.
Anh chàng Ai xơ len chui qua lỗ đầu tiên và chạy ra sân. Sân vắng ngắt. Anh ta kéo sợi dây, nó căng ra chứng tỏ đầu bên kia có người giữ, anh ta cắn thanh sắt gắn với chân ghế vào mồm, nhẹ nhàng leo lên đỉnh rồi biến mất.
René trèo lên thứ hai với vẻ nhẹ nhàng không kém, nhưng khi sang đến phía bên kia, anh chỉ thấy anh chàng Ai xơ len giữ cái dây, người giúp họ đã biến mất.
Những người khác lần lượt leo qua mà không gặp trở ngại gì khi người cuối cùng đi xuống, họ ném cái sợi dây vào sân.
- Đó là một đêm xứ Bắc Âu, người ta không nhìn rõ quá bốn bước. Chắc chắn không bị đuổi theo, anh chàng Ai xơ len nói cần một lát để định hướng.
- Đây là biển - Anh ta nói và chỉ về phía đông - cũng không chắc lăm, vì tiếng động không mạnh, chắc là vịnh Saint-Gerge.
- Nếu đuổi người ta sẽ đuổi theo chúng ta lối ấy, vì thế chúng ta phải đi theo hướng ngược lại. Chúng ta hãy theo hướng bắc đến khi tới Limenck, tôi biết chỗ này và tôi hầu như chắc chắn không để các anh bị lạc. Tuy nhiên giá có cái la bàn thi tốt hơn.
- Đây tôi có một cái - René nói và rút từ túi ra một cái la bàn nhỏ vật bất ly thân từ hồi anh ở Ấn Độ.
- Thế thì ổn rồi - Anh chàng Ai xơ len nói - Lên đường thôi!
Họ cần phải rời khỏi Cork. Thật may Cork không phải là một thành phố công sự nhưng nó có một quân đội đồn trú. Những kẻ lẩn trốn vừa đi được trăm bước thì họ nghe tiếng đội tuần tra của Anh.
- Anh chàng Ai xơ len ra hiệu im lặng, lùi lại cùng nhịp bước với đội tuần tra nấp dưới một cánh cửa lớn trong phố nhỏ.
Đội tuần đi lướt qua trước mặt họ, tất cả đều nín thở. Một tên lính Anh lẩm bẩm.
- Thuyền trưởng có thể để chúng mình ở đồn gác. Phải có con quỷ trong người mới khiến bọn Pháp có ý nghĩ bỏ trốn trong thời tiết thế này.
Tiếng bước chân xa dần, những người chạy trốn ra khỏi chỗ nấp đi ngược lại con đường đội tuần vừa đi qua. Mười phút sau họ đã ra khỏi Cork và cảm thấy quất vào mặt những cơn gió phương Bắc lạnh buốt mà Hamlet từng than vãn trên thềm Elseneur. Đến đây toán người dừng lại vài giây.
- Chúng ta đang trên đường đến Blamey - Anh chàng Ai xơ len nói - Nếu các anh muốn ngủ, tôi có vài người bạn ở đó, tuy nhiên tôi nghĩ sẽ thận trọng hơn nếu đi tiếp đường này đến Mallow, con đường hoàn toàn vắng vẻ chẳng có lấy một mái nhà.
- Thế ở Mallow anh có biết ai không? - René hỏi.
- Ở Mallow, chúng ta mỗi người có cả chục bạn.
- Thế thì đến Mallow - René nói - Như thế càng lợi thế cho những kẻ muốn đuổi theo chúng ta ngày mai.
Họ đến Mallow vào sáu giờ sáng, tức là một tiếng trước khi trời sáng. Anh chàng Ai xơ len đi thẳng đến một ngôi nhà, gõ cửa và hỏi "Ai ở dưới ấy?" từ cửa lầu một, anh ta hỏi lại thay vì trả lời:
- Farrill vẫn sống ở đây chứ?
Phải - Giọng nói đáp - Farrill là tôi, còn anh là ai?
- Tớ là Sullivan.
- Chờ nhé, chờ nhé, tớ xuống mở cửa cho cậu.
Cánh cửa mở ra, hai người đàn ông lao vào vòng tay của nhau. Farrill lôi bạn vào nhà nhưng anh này đã sắp xếp cho các bạn nấp vào tường nói:
- Tớ không đi một mình, tớ còn bận, tớ phải bảo đảm cho họ đến tận đêm nay.
- Dù bạn có 10 người hay 100 người cũng không sao. Không những Farrill này muốn mời họ nghỉ mà còn tiếp đãi bằng hết khả năng. Dù các anh là ai, hãy vào đi!
Những tù nhân lại gần:
- Thưa ngài - René nói - Chúng tôi là những tù nhân Pháp tối qua mới trốn khỏi nhà tù Cork. Anh bạn Sullivan của chúng tôi đã giới thiệu ngài và chúng tôi đến đây xin trao mạng sống của chúng tôi vào tay ngài.
Cánh cửa mở ra. Farrill ra hiệu, tất cả lẻn vào không để bị lộ và cánh cửa lại khép lại sau lưng họ.
Khi đi vào Sullivan báo cho René là không phải tặng cho Famli cái gì trước tấm thịnh tình hiếu khách của anh ta, mọi món quà đều làm anh ấy bị tổn thương sâu sắc.
Họ đã đi sáu dặm rưỡi. Ngày hôm ấy dùng để ăn, ngủ cho lại sức.
Nhìn bề ngoài hiển nhiên Farrill không phải là người giàu có, tuy nhiên lòng hiếu khách của anh quả đúng như anh chàng Ai xơ len đã hứa, tuy không sang trọng và thịnh soạn nhưng rất thân tình và đầy đủ. Họ còn bột mì, vài chai vang Dublin ngon; thế là đành để uống luôn vào dịp ấy. Buổi tối, ngay từ bảy giờ, những người chạy trốn đã lên đường. Đêm ấy họ phải tới Bruree tức là phải đi bảy dặm nữa. Giày của hai người bỏ trốn đã hư hỏng nhưng trong ngày Farrill sau khi ướm chân mình vào những chiếc giày cũ đã đi mua hai đôi mới để họ không phải bận tâm về chuyện giày dép.
Khoảng 5 giờ sáng, họ đến Bruree.
Sullivan đi về phía hữu ngạn con sông Maigue bé nhỏ dẫn đến làng đã định. Ở đây anh ta có một người quen không kém hiếu khách như anh chàng Farrill trung hậu. Mọi việc lại diễn ra gần tương tự, những người bỏ trốn ăn uống, ngủ nghỉ như ý rồi khởi hành đêm đó đi Askeaton. Chỉ có điều lần này, vì con đường khó đi hơn trước nên người bạn của Sullivan muốn làm người hướng dẫn cho họ, vả lại, Sullivan thú thật anh không quen ai trong thành phố Askeaton.
Thế là họ đồng ý sự giúp đỡ của người bạn Sullivan với lòng biết ơn sâu sắc. Họ đến Askeaton dưới sự dẫn lối của người này.
Với mỗi từ ma thuật: "Đây là những người Pháp!" lập tức những cánh tay giang rộng và những cánh cửa rộng mở. Lần này, người dẫn đường đưa họ đến nhà anh rể mình.
Không cần giải thích dài dòng, dù còn chặng đường hôm sau nữa nhưng René muốn mua một chiếc thuyền và về Pháp bằng chiếc thuyền ấy sau khi chất đủ lương thực cần thiết, nhưng Sullivan lắc đầu anh ta không tin tưởng dân trong cảng, bằng người dân sâu trong lục địa vì họ có buôn bán với quân Anh. Vậy là anh ta đưa ra ý kiến sẽ bất ngờ chiếm một con thuyền và sở dụng nó bất kỳ tình trạng nó ra sao. Nếu cần họ sẽ đổ ở nơi khác để lấy lương thực. Vả lại, khắp nơi người ta đã thấy lính Anh đi lùng sục những người bỏ trốn. Tiếng đồn đã lan khắp bờ biển rằng có tám tù nhân Pháp đã vượt ngực khỏi Cork.
Nghĩ sao làm vậy, họ đi bốn dặm nữa đêm hôm ấy và đến ngủ tại Loghill. Tại đây họ dò la những con tàu đang thả néo bên dòng sông Shannon.
Có một tàu Slúp ở Foynes nhưng nó ở quá sâu trong lạch. Người dẫn đường khuyên họ nên chiếm một con tàu có cột buồm như chiếc Slúp đang thả neo giữa Tarbelt và hòn đảo nhỏ đối diện là hơn.
Mọi người bàn nhau việc này sẽ diễn ra lúc ba bốn giờ sáng. Thật ra khoảng bảy giờ họ mới vớ được một chiếc ca nô để hờ hững ngoài bờ biển do thói vô lo của người Ai xơ len. Họ lên đó, tiến về phía chiếc Slúp rồi xông vào trong. Trong tàu có ba người đàn ông và một phụ nữ. Nhận thấy tám người bất ngờ xông vào, đám người này kêu lên.
Nhưng Sullivan ra hiệu cho họ, nhờ tiếng Ai xơ len tuyệt vời, rằng nếu họ không im, mọi người sẽ dùng luật bắt họ im và chìa ra thanh sắt nhọn. Những kẻ khốn khổ đành làm theo.
Một lát sau, tàu nhổ neo, cánh buồm bung ra đón gió Bắc tiến vào Đại Tây Dương bệ vệ như một chiếc tàu chiến hạng nặng.
Đi được một dặm biển, họ cho bốn người Ai xơ len lên một chiếc tàu ngang qua chiếc Slúp. René đưa cho họ khoảng 20 đồng louis và hứa nếu anh về Pháp bình an vô sự, anh sẽ gửi sang một nhà băng ở Dublin khoản tiền ít nhất là gấp đôi giá trị con tàu của họ.
Đám người ấy không cho đó là điều nghiêm túc song vì họ không đòi mà vẫn nhận được 20 đồng louis nên cũng không mất hy vọng sẽ nhận được khoản kia. Họ vui vẻ trở về phía sông Shannon. Họ đến chỗ thả neo cũ trước khi kịp hoàn hồn xem tai nạn vừa xảy ra với mình là thật hay là một giấc chiêm bao.