Gảy đàn lặng lẽ tiếc lương duyên.
Kim Trục Lưu tỏ vẻ mừng rỡ: “Chúc mừng đại ca. Hai chữ duyên phận rất khó kiếm, không ngờ đại ca vô tình lại có được!”
Lý Nam Tinh cười rằng: “Ta xưa nay không thích nữ tử, không ngờ vừa gặp Sử cô nương đã điên đảo thần hồn, ngày đêm thương nhớ đến nàng, đó chẳng phải có duyên hay sao?”
Kim Trục Lưu hỏi: “Nhưng Sử cô nương có bày tỏ cho huynh biết chưa?”
Lý Nam Tinh lại cười: “Không phải ta tự cho mình đa tình, theo ta thấy, trong lòng ta có nàng, trong lòng nàng cũng đã có ta. Nếu không hôm ấy nàng đã không liều mạng vì ta đến thế”.
Kim Trục Lưu biết tính cách của Sử Hồng Anh, lòng thầm nhủ: “Hồng Anh là người ân oán phân minh, thị phi rõ ràng, coi trọng tình bằng hữu, trước đây nàng đã từng hết lòng giúp Lý Đôn, vì thế mà mình cũng hiểu lầm nàng”.
Những vấn đề không phải ở Sử Hồng Anh, Kim Trục Lưu chợt nghĩ lại: “Dù đại ca có tự cho đa tình hay không, y cũng đã thương mến Hồng Anh. Quân tử không đoạt thứ yêu thích của người, huống chi mình và y là huynh đệ kết nghĩa?” Rồi lại nghĩ: “Hình như Hồng Anh cũng có ý với mình, nhưng không chừng mình cũng tự cho đa tình? Thôi đi, dù nàng có ý với mình cũng được, không có ý cũng được, sau này mình phải tự kìm nén lánh xa nàng, để cho trái tim của nàng hoàn toàn hướng về đại ca”.
Lý Nam Tinh hỏi vội: “Hiền đệ, đệ đang nghĩ gì thế?”
Kim Trục Lưu đáp: “Đệ đang nghĩ... khi nào thì uống rượu mừng của đại ca”.
Lý Nam Tinh cười: “Vẫn còn sớm. Nay Sử cô nương đã bị nhốt trong tổng đà của Lục Hợp bang, không cứu nàng ra thì chẳng thể nói được chuyện gì. Hiền đệ, lúc nãy đệ đã nghe Sử Bạch Đô hẹn ta, chúng ta cùng đến tổng đà của Lục Hợp bang được chứ?”
Kim Trục Lưu ngần ngại: “Sử Bạch Đô có ý hứa hôn, đại ca còn lo gì?”
Lý Nam Tinh nói: “Nói là thế, nhưng phải đề phòng có cạm bẫy?”
Kim Trục Lưu: “Theo đệ thấy Sử Bạch Đô sẽ không hại huynh. Khi huynh xông vào, Sử Bạch Đô đã nhận ra huynh chưa khỏe hẳn, nếu có ý hại huynh thì chắc chắn đã ra tay rồi”.
Lý Nam Tinh hơi bất mãn, thầm nhủ: “Chả lẽ Kim Trục Lưu sợ, không dám mạo hiểm cũng mình? Nhưng y nói cũng có lý. Võ công Sử Bạch Đô hơn hẳn mình, hômnay lại chịu xuống nước với mình, xem ra là thật”.
Kim Trục Lưu lại nói: “Tiểu đệ còn một ít việc ở Bắc Kinh, e rằng tạm thời không thể bỏ đi”. Thực ra Kim Trục Lưu sợ nếu mình cũng đi, chắc chắn sẽ gây bất lợi cho hôn nhân của Lý Nam Tinh. biết rõ Lý Nam Tinh sẽ hiểu lầm mình, chàng cũng đành từ chối.
Lý Nam Tinh là người trọng tình cảm, trong lòng tuy không vui, nhưng cũng không nói lời oán trách. Nhưng chàng không ngờ Kim Trục Lưu lại từ chối, hai người vốn đang vui vẻ lại trở nên ngượng ngùng với nhau.
Lý Nam Tinh liếc mắt nhìn thì thấy cây cổ cầm ở trên bàn, Lý Nam Tinh hỏi: “Gần đây hiền đệ có học đàn không?”
Kim Trục Lưu đáp: “Đã học vài cổ phổ, nhưng đàn vẫn chưa hay. Đại ca đi lần này không biết chừng nào mới gặp lại. Mong đại ca tặng cho đệ một khúc!”
Lý Nam Tinh đang đầy tâm sự trong lòng, chàng cầm lấy cây đàn, nói một tiếng “được”, rồi gảy đàn hát rằng: “Phương dữ trạch kỳ tạp nhu hề, khương phương hoa tự trung xuất. Phân uất uất kỳ viễn thừa hề, mãn nội nhi ngoại dương. Tình giữ chất khả bảo hề. Khương cư tệ kỳ văn chương”.
Đây là tiết Tư mĩ nhân thiên trong Sở từ, đại ý là: “Thơm và thối trộn lẫn với nhau, tựa như là quân tử và tiểu nhân cùng một triều. Nhưng ai cũng có thể phân biệt được hoa thơm, mùi thơm của nó không thể nào phai nhạt. Phẩm chất tốt đẹp cuối cùng vẫn có thể giữ được, tiếng tăm tốt đẹp vẫn có thể truyền đến nơi xa, không cần người lo lắng cho nàng”. Sử Hồng Anh đang ở trong Lục Hợp bang, tựa như đóa sen thơm tho mọc trong chốn bùn nhơ, không cần nói “mỹ nhân” mà Lý Nam Tinh đang nhớ nhung chính là Sử Hồng Anh. Chàng còn muốn bảo Kim Trục Lưu rằng, Sử Hồng Anh rốt cuộc cũng có thể thoát ra khỏi vũng bùn Lục Hợp bang, dù Kim Trục Lưu không giúp cũng được, cũng không cần chàng lo lắng.
Kim Trục Lưu lòng rối như tơ vò, im lặng không nói. Lý Nam Tinh đưa cây đàn cho chàng rồi hỏi: “Hiền đệ đã học được cổ phổ nào? Có thể đàn cho ta nghe một khúc không?”
Kim Trục Lưu lẳng lặng gảy đàn, Lý Nam Tinh là cao thủ đàn cổ cầm, Kim Trục Lưu tuy chỉ đàn không hát, nhưng chàng vẫn có thể nhận ra đó là một bài trong kinh thi, vì thế cứ hát theo tiếng đàn rằng: “Nhật cư nguyệt chư, hồ điệt nhi vi? Tâm chi ưu hĩ, như phỉ hãn hoàn y, tịnh ngôn tư chi, bất năng phân phi”. Đại ý của bài này là: “Đã từng hỏi trăng, đã từng hỏi trời, tại sao sáng mà cứ như tối? Nỗi ưu phiền trong lòng tẩy cũng không sạch, tựa như một đống đồ dơ bẩn. Ta đè tay lên ngực suy nghĩ mãi. Làm sao có thể giang cánh bay cao?”
Kim Trục Lưu đàn khúc nhạc này cũng có hàm ý sâu xa. Chàng đang khổ vì mình không thể dứt bỏ tình riêng nhi nữ, cảm thấy rằng đó là sai lầm của mình, nỗi ưu phiền trong lòng tựa như một đống đồ dơ, cần phải tẩy rửa cho sạch. Có nhiều chuyện đang chờ chàng làm, cho nên chàng phải “Đặt tay lên ngực suy nghĩ mãi, làm sao có thể giang cánh bay xa?”
Lý Nam Tinh hoàn toàn không hiểu ý Kim Trục Lưu, nhưng cũng có thể cảm nhận được tâm trạng buồn bã của chàng.
Lý Nam Tinh giật mình: “Trục Lưu đang có tâm sự gì không cho mình biết?”
Chợt nghe ngoài cửa có người khen: “Đàn rất hay!” Té ra đã đến giờ cơm, Đới Mạc đến mời họ vào ăn cơm.
Lý Nam Tinh xin cáo: “Không, tôi phải mau chóng trở về. Rồi vội vàng bước ra khách sảnh, cáo từ Đới Quân.
Đến khi Lý Nam Tinh đã khuất dạng sau cánh cổng, Đới Quân cười nói: “Người này tính tình phóng khoáng, chẳng khác gì Kim lão đệ. Chả trách nào các ngươi lại kết thành huynh đệ”. Đường Kiệt Phu cũng bảo: “Võ công và đảm thức của người này quả thật bất phàm, Kim lão đệ, nói thực ta vốn có mấy phần tiếc nuối việc đệ đã tặngthanh huyền thiết kiếm cho y, nhưng nay ta xin chúc mừng vì ngươi đã tặng kiếm cho đúng người”.
Kim Trục Lưu gật đầu: “Đúng thế, sống trên đời khó gặp tri kỷ. Chỉ là một thanhkiếm có gì đáng tiếc!”
Đường Kiệt Phu cả cười: “Nói rất hay, lão đệ, ta cũng mời ngươi ba chén!” Kim Trục Lưu đã uống mười mấy chén rượu, lúc này mới ngà ngà say, chàng thầm nhủ: “Đường Kiệt Phu đúng là bậc danh túc trong võ lâm!” Đường Kiệt Phu thấy Kim Trục Lưu ngồi yên, hỏi: “Lão đệ, ngươi đang nghĩ chuyện gì thế?” Kim Trục Lưu hỏi lại: “Hôm nay là ngày mấy?” Đường Kiệt Phu cười nói: “Lão đệ, hình như đệ đã say, hôm nay là ngày mười ba tháng giêng, hai ngày nữa là đến Tết Nguyên Tiêu, đệ không biết sao?”
Kim Trục Lưu gật đầu: “Quả thực đã say?” thật ra sau khi Kim Trục Lưu đại náo Tát phủ, chàng đang chờ đợi Tết Nguyên Tiêu. Bởi vì chàng nhớ ngày đó cho nên mới buột miệng hỏi. Chàng nghe hai chữ “Nguyên Tiêu”, tửu ý đã giảm mấy phần.
Chàng nhớ rằng cha mình đã bảo mình đem bức thư đến cho Giang Hải Thiên, người căn dặn vào canh ba đêm Nguyên Tiêu, Giang Hải Thiên đeo một chiếc nhẫn hàn ngọc đến Bí Ma Nhai ở Tây Sơn, gặp một người cũng đeo một chiếc nhẫn như thế. Chàng cũng không biết người đó là ai.
Kim Trục Lưu thầm nhủ: “Ngày kia là Tết Nguyên Tiêu, không biết sư huynh đã đến Bắc Kinh chưa? Sư huynh kết giao rộng rãi, Đới lão liền bối cũng rất giỏi dò hỏi tin tức. Nếu sư huynh lên Bắc Kinh họ chắc chắn sẽ gặp nhau. Hai ngày nữa chắc Trần Quang Chiếu cũng đến tìm mình, mình cứ chờ ở đây, qua Tết Nguyên Tiêu sẽ đến Lục Hợp bang”. Kim Trục Lưu biết khinh công của mình hơn Lý Nam Tinh, nếu ban ngày cưỡi ngựa, ban đêm chạy bộ thì dù Lý Nam Tinh đi trước hai ngày, chàng vẫn có thể đuổi kịp. Số là Kim Trục Lưu tính âm thầm theo dõi, không lộ mặt, đến tổng đà của Lục Hợp bang sẽ tùy cơ hành sự. Nếu Lý Nam Tinh không cứu nổi Sử Hồng Anh thì chàng sẽ ra tay.
Hôm sau vẫn chẳng thấy Trần Quang Chiếu, cũng chẳng nhận được tin tức của Giang Hải Thiên, Kim Trục Lưu cảm thấy ngạc nhiên, thầm nhủ: “Sư huynh đi vòng qua Tây Xương, có thể đã tính toán đúng thời gian, ngày mai sẽ tới. Nhưng tại sao Trần Quang Chiếu vẫn không đến tìm mình? Phải chăng đại ca quên không báo tin của mình cho y? Hay là y lại có chuyện khác”. Hai nhà Kim, Trần có mối thâm giao với nhau, Trần Thiên Vũ lại nhờ Kim Trục Lưu chăm sóc cho con trai của mình, Kim Trục Lưu cũng muốn gặp mặt Trần Quang Chiếu.
Ngày thứ hai đã trôi qua, đến đêm Nguyên Tiêu, trời đã tối mà vẫn chẳng nhận được tin tức của Giang Hải Thiên, cũng chẳng thấy Trần Quang Chiếu đến tìm mình. Vì thế Kim Trục Lưu lấy cớ ra ngoài xem đèn, lẳng lặng ra khỏi thành. Người trong kinh thành rất coi trọng Tết Nguyên Tiêu, vừa đến tối thì lễ hội hoa đăng đã diễn ra, cho đến trời sáng mới tan. Cho nên Kim Trục Lưu mượn cớ ra ngoài xem đèn, có thể đến sáng mới quay về.
Trần Quang Chiếu không đến tìm chàng là vì có một nguyên nhân.
Lại nói Lý Nam Tinh đêm ấy chạy về Tây Sơn, đến chùa Ngọa Phật thì đã tới canh ba. Chú tiểu giữ cửa nói: “Trần công tử không thấy ngài quay về, đã đi tìm ngài khắp núi. Giờ đây không biết đã quay về hay chưa? Có cần tôi báo với phương trượng không?” Lý Nam Tinh thầm hổ thẹn, đáp: “Tôi có việc vào thành, tưởng rằng sẽ về sớm, nên không báo với phương trượng và Tôn huynh biết. Không ngờ gặp phải người bằng hữu cho nên về trễ. Không cần kinh động phương trượng, ngày mai tôi sẽ đến xin lỗi”.
Lý Nam Tinh lẳng lặng về phòng, Trần Quang Chiếu quả nhiên vẫn chưa về. Lý Nam Tinh vừa cảm kích vừa áy náy, đợi một hồi, đang muốn chạy ra tìm Trần Quang Chiếu thì y đã về tới.
Dưới ánh đèn, chỉ thấy Trần Quang Chiếu vừa vui mừng vừa kinh hãi, Lý Nam Tinh vẫn chưa nói lời xin lỗi, y đã nắm lấy tay Lý Nam Tinh mà nói rằng: “Huynh đã về đấy ư? Tôi tưởng rằng huynh xảy ra chuyện!”
Lý Nam Tinh xin lỗi: “Hôm nay tôi vào thành, đã gặp Kim Trục Lưu ở nhà lão tiêu đầu Đới Quân. Huynh đoán thử y là ai?” Trần Quang Chiếu nói: “Huynh dã bảo y là huynh đệ kết nghĩa của huynh”. Lý Nam Tinh cười đáp: “Đúng thế, nhưng y cũng là huynh đệ kết nghĩa của huynh, huynh có biết không?” Trần Quang Chiếu ngẩn ra, rồi cười nói: “Huynh nói phải lắm, huynh đệ của huynh vốn cũng là huynh đệ của tôi”. Lý Nam Tinh bảo: “Cũng có thể nói như thế, nhưng tôi không phải nói ý này. Hai mươi năm trước, có một Kim đại hiệp nổi tiếng thiên hạ, ông ta và cha của huynh là bằng hữu, có đúng không?”
Trần Quang Chiếu vỡ lẽ ra, kêu lên: “Ô, té ra Kim Trục Lưu ấy là con trai của Kim đại hiệp?” Lý Nam Tinh: “Đúng thế. Y hẹn huynh đến gặp mặt với y.
Trần Quang Chiếu vui mừng: “Kim đại hiệp và nhà tôi có mối thâm giao, cha tôi vẫn thường nhắc đến ông ta. Lẽ ra tôi phải đến gặp Kim huynh, nhưng đáng tiếc...” Lý Nam Tinh ngạc nhiên, vội hỏi: “Đáng tiếc chuyện gì?”
Trần Quang Chiếu đáp: “Đáng tiếc vài ngày nay tôi sẽ không thể rời khỏi nơi này”. Lý Nam Tinh kinh ngạc: “Ở đây xảy ra chuyện gì?” Trần Quang Chiếu: “Không có gì, nhưng tôi đã phát hiện một số nhân vật khả nghi đến Tây Sơn. Hòa thượng lên núi hái thuốc đã phát hiện vài nhóm, có kẻ là những nhân vật lợi hại trong hắc dạo, có kẻ là đầu lĩnh của bang hội, lại có hai người là đại nội cao thủ, cũng trà trộn trong đám người này. Đây không phải là lúc du xuân, những kẻ này tụ tập ở Tây Sơn, phương trượng không thể không đề phòng”.
Lý Nam Tinh giật mình: “Ta đã hiểu, hình như bọn chúng đến tìm ta?”
Trần Quang Chiếu gật gù: “Chắc là bọn chúng có âm mưu, nhưng có đối phó với lão huynh hay không tôi không biết”.
Lý Nam Tinh nói: “Đã như thế, tôi sẽ lẳng lặng đi để khỏi liên lụy đến mọi người”.
Trần Quang Chiếu xua tay: “Không, không”. Chàng ngừng lại hạ giọng thì thầm: “Lý huynh không phải người ngoài nên tôi mới nói. Phương trượng trụ trì chùa này là Không Chiếu đại sư, bí mật qua lại với nghĩa sĩ phản Thanh. Cho nên phương trượng mới để ý đề phòng, không hoàn toàn là do huynh, huynh vừa mới khỏe, nếu đi lúc này thì phương trượng sẽ càng lo hơn”.
Lý Nam Tinh hỏi: “Những kẻ này còn trên núi không?”
Trần Quang Chiếu nói: “Sau khi trời tối, hòa thượng trong chùa sợ bọn chúng nghi ngờ cho nên không dám ra ngoài. Cũng chẳng biết bọn chúng đã đi chưa! Nhưng tôi vừa mới xuống núi cũng chẳng gặp ai”.
Lý Nam Tinh rất cảm kích: “Trần huynh, vì tôi mà huynh lên núi tìm kiếm, tôi không biết phải đa tạ huynh thế nào”. Lòng nhủ thầm: “Đáng tiếc thanh huyền thiết bảo kiếm này là Kim Trục Lưu tặng cho mình, không thể tặng cho người khác được”.
Trần Quang Chiếu nói: “Tôi là khách ở đây, khi chùa xảy ra chuyện, tôi không thể rời khỏi nơi này. Cho nên phải ở lại thêm vài ngày nữa điều tra rõ tung tích của bọn người này, nếu biết bình an vô sự tôi mới có thể vào kinh thành tìm Kim Trục Lưu”.
Lý Nam Tinh bàn: “Tôi nghĩ mọi người có thể yên tâm, chỉ cần tôi không lộ mặt ở ngoài, bọn người này sẽ không đến quấy nhiễu. Qua Tết Nguyên Tiêu, có lẽ bọn chúng cũng đã rút khỏi nơi này”.
Trần Quang Chiếu ngạc nhiên: “Sao huynh biết?”
Lý Nam Tinh trả lời: “Tôi chỉ suy đoán mà thôi. Nếu quan phủ biết được chuyện bổn tự và các nghĩa sĩ kháng Thanh âm thầm qua lại với nhau, bọn chúng đã xua binh bao vây chùa, không cần sử dụng các nhân vật giang hồ đến dò thám. Dò thám trước chẳng phải đã đánh cỏ động rắn hay sao?”
Trần Quang Chiếu gật: “Đúng thế, đến trưa những kẻ này mới lục tục kéo lên núi, nhưng đến giờ vẫn chưa thấy vào chùa bắt người, xem ra không phải là đối phó với chùa Ngọa Phật. Nhưng làm sao huynh biết bọn chúng sẽ rút lui sau đêm Nguyên Tiêu?
Lý Nam Tinh đáp: “Có lẽ bọn chúng đến đây điều tra xem thử có đào phạm ẩn nấp hay không, hoặc có lẽ là vì chuyện khác. Chùa Ngọa Phật là một trong những thánh địa Phật giáo nổi tiếng, là nơi giữ thanh quy giới luật. Bọn chúng không dám nghi ngờ phương trượng che chở cho tôi. Cho nên chỉ cần tôi không lộ mặt trong chùa, chắc là không có gì đáng lo. Mà những kẻ này quá nửa là nhân vật giang hồ, thói quen trong học đạo là không bao giờ dừng lại ở một nơi xa lạ quá ba ngày. Nên dù bọn chúng vì chuyện gì, trong vòng ba ngày nếu không có kết quả thì sẽ rút lui”.
Trần Quang Chiếu gật đầu: “Huynh nói rất có lý. Song chúng ta vẫn phải đề phòng, hai ngày nay chúng ta nên ở lại trong chùa, cùng chúng tăng bảo vệ chùa”.
Lý Nam Tinh đồng ý: “Đương nhiên, thôi được, vì tôi mà huynh đã mệt nhọc cả ngày, huynh cũng nên ngủ đi thôi”.
Lý Nam Tinh thì không ngủ được, số là chàng đoán rằng những kẻ này không phải đối phó với chùa Ngọa Phật, bọn chúng sẽ bỏ đi sau đêm Nguyên Tiêu không phải là suy đoán mà là chàng biết chính xác.
Nửa năm trước, đã có nhân vật đối đầu với chàng, hẹn chàng canh ba đêm Nguyên Tiêu sẽ bí mật gặp gỡ tại núi Tây Sơn.
Lần này Lý Nam Tinh vào kinh, vốn là sẽ đi gặp gỡ kẻ này, nhưng giờ đây chàng đã đổi ý muốn cứu Sử Hồng Anh trước. Chàng định hôm nay sẽ bí mật khắc chữ lên tảng đá ở Bí Ma Nhai trên núi Tây Sơn, hí lộng kẻ ấy một phen rồi bỏ đi.
Nhưng bây giờ chàng không thể nào không đến, một là vì kẻ đối đầu với chàng đến sớm hơn chàng dự liệu, nay đã mời rất nhiều nhân vật giang hồ đến nấp trong núi, hơn nữa chàng chịu ơn cứu mạng của Trần Quang Chiếu và phương trượng chùa này, do đó chàng mới đứng ra chịu trách nhiệm để khỏi liên lụy đến họ. Lý Nam Tinh đã quyết định cho nên chưa thổ lộ với Trần Quang Chiếu.
Hôm sau hòa thượng trên núi hái thuốc vẫn không thấy tung tích của bọn người này, cũng không biết bọn chúng đã đi hay đã nấp lại. Nhưng không có ai tìm đến chùa sinh sự, các nhà sư đã yên tâm mấy phần. Vào ngày Nguyên Tiêu, ban ngày cũng bình yên chẳng có chuyện gì xảy ra. Đến tối trong chùa tuy không theo phong tục trong dân gian, tổ chức mừng Nguyên Tiêu, nhưng cũng làm Phật sự, hai người Trần, Lý là người ngoài không tiện tham gia cho nên ngủ sớm.
Trần Quang Chiếu đang lo trong bụng, tuy nhắm mắt nhưng vẫn chưa ngủ. Khoảng canh ba chợt có tiếng loạt soạt, Lý Nam Tinh hình như bò dậy. Trần Quang Chiếu ngạc nhiên thầm nhủ: “Đêm hôm khuya khoắt, y dậy làm gì?” Đang định lên tiếng, chợt một luồng u hương xông vào mũi, chàng cảm thấy rất thoải mái trong người, mi mắt như muốn sụp xuống, chàng vội vàng cắn đầu lưỡi, lấy ra một viên thuốc cho vào miệng, đó là loại bích linh đơn có thể giải bách độc.
Trần Quang Chiếu giả vờ ngủ nhưng trong lòng vẫn tỉnh táo, phản ứng đầu tiên của chàng là rất bất ngờ, thầm nhủ: “Chả lẽ tên tiểu tử này là gián điệp đến chùa Ngọa Phật? Không xong, võ công của y hơn mình, nếu để y biết mình chưa ngủ thì chỉ e mạng mình khó giữ!”
Trần Quang Chiếu tuy mới xuất đạo chưa quá hai năm nhưng cũng coi như là một người già dặn giang hồ. Chàng cũng biết các loại mê hương thường dùng trong giang hồ. Sau khi nuốt bích linh đơn, chàng lập tức có thể phân biệt được đây là loại mê hương không có độc, nhưng dược tính lợi hại hơn những loại mê hương phổ biến trên giang hồ.
Trần Quang Chiếu thầm nhủ: “Võ công của y hơn hẳn mình, muốn giết mình thì dễ như trở bàn tay. Dù không giết, chỉ cần điểm hôn huyệt của mình thì mình cũng đành bó tay. Y sử dụng mê hương không độc, chắc là giấu mình làm chuyện gì đây! Được, mình tạm thời không lên tiếng xem thử y rốt cuộc muốn là m gì?”
Thật ra dùng mê hương hay điểm vô hôn huyệt cũng có hiệu quả như nhau, nhưng thủ đoạn điểm huyệt là bất kính đối với bằng hữu, vả lại ít nhiều cũng tổn hại đến sức khỏe. Cho nên Trần Quang Chiếu mới nghĩ Lý Nam Tinh không có ác ý với mình.
Thế rồi, Trần Quang Chiếu giả vờ ngủ say, chỉ thấy Lý Nam Tinh bò dậy, đánh đá lửa lên, lấy ra một tờ giấy, vội vàng viết mấy chữ rồi hàng lặng nhảy tọt ra cửa sổ.
Trần Quang Chiếu ngồi dậy, khêu đèn lên xem, chỉ thấy Lý Nam Tinh viết tám chữ “Ngày mai sẽ về, đừng lên tiếng”. Xem ra Lý Nam Tinh tuy sử dụng mê hươngnhưng cũng đề phòng chàng chưa sáng thì đã tỉnh dậy cho nên viết mấy chữ.
Trần Quang Chiếu đã nuốt bích linh đơn, lúc này chẳng còn buồn ngủ gì cả vì thế liền theo dõi ngay. Đêm nay là đêm Nguyên Tiêu sáng ngời, Trần Quang Chiếu đứng trên mái nhà, thấy Lý Nam Tinh đã ra khỏi chùa Ngọa Phật, lẩn vào trong rừng.
Chàng ta chợt nhớ lại mấy lời của Lý Nam Tinh, Lý Nam Tinh bảo chỉ cần không công nhiên lộ mặt ở chùa, những kẻ ấy sẽ không xâm phạm đến chùa Ngọa Phật. Nghĩ đến đây, Trần Quang Chiếu chột dạ, đã đoán được mấy phần hành tung bí mật của Lý Nam Tinh, thầm nhủ: “Chả lẽ y muốn lén người gặp những kẻ này?” Lý Nam Tinh đã để lại mấy chữ bảo chàng không lên tiếng, Trần Quang Chiếu suy nghĩ rồi quyết định một mình theo dõi, không báo với phương trượng.
Mẹ của Trần Quang Chiếu là thị nữ của Băng Xuyên Thiên Nữ, có sở trường về khinh công, nên võ công của Trần Quang Chiếu tuy không bằng Lý Nam Tinh nhưng khinh công cũng không kém bao nhiêu. Chàng đi theo sau Lý Nam Tinh, còn Lý Nam Tinh thì một lòng nghĩ đến cuộc hẹn ở Bí Ma Nhai nên không phát giác có người theo dõi.
Bí Ma Nhai nằm ở phía nam núi Tây Sơn, cách chùa Ngọa Phật ở phía bắc khoảng hơn mười dặm. Ở đó vạn tảng thạch lô nhô, không hề có cỏ mọc, là nơi hoang vắng nhất núi Tây Sơn, bình thường thợ săn không tới. Trần Quang Chiếu thấy Lý Nam Tinh cứ đi thẳng tới Bí Ma Nhai, lòng ngạc nhiên, thầm nhủ: “Y đến đó làm gì? Chả lẽ có người nấp ở Bí Ma Nhai? Nhưng sao y lại biết?”
Lý Nam Tinh gia tăng cước bộ, chỉ trong chớp mắt đã lẩn vào trong đống loạn thạch. Trần Quang Chiếu nghỉ chưa dứt, chợt nghe có giọng nói già nua vang lên: “Lệ công tử quả nhiên giữ lời hứa, bội phục, bội phục!”
Trần Quang Chiếu ngỡ ngàng, lòng thầm nhủ: “Ồ, sao bọn họ lại kêu Lý Nam Tinh thành Lệ công tử?, Lý Nam Tinh lớn giọng hỏi: “Bọn ngươi hẹn ta đến đây là muốn gì?”
Giọng nói già nua ấy lại vang lên: “Trước mặt chân nhân không nói dối, Lệ công tử, ngươi đừng giấu giếm thân phận trước mặt bọn ta! Sư tổ của Thiên ma giáo Lệ Thắng Nam có phải là bà cô của ngươi không?”
Lệ Thắng Nam qua đời đã hơn hai mươi năm, nhưng võ công của bà ta nổi tiếng võ lâm, cả chưởng môn đời trước của phái Thiên Sơn là Đường Hiểu Lan cũng từng bại trong tay bà ta, cho nên Trần Quang Chiếu thấy ông già nói ra thân phận của Lý Nam Tinh thì không khỏi thất kinh, thầm nhủ: “Chả trách nào y vẫn còn trẻ mà bản lĩnh ghê gớm đến thế, té ra là người nhà họ Lệ. Ôi chao, Thiên ma giáo là tà giáo đã bị tiêu diệt, nếu đúng như ông già kia nói, y họ chẳng phải là người xuất thân từ tà phái hay sao?”
Lý Nam Tinh ỡm ờ: “Phải thì thế nào? Không phải thì thế nào?”
Ông già cười ha hả: “Lệ công tử đừng đa nghi, chúng tôi không có ác ý, chỉ là muốn mời ngươi đến núi Tồ Lai, dựng lại thanh oai của Thiên ma giáo. Chúng tôi chấp nhận tôn ngươi làm giáo chủ kế nhiệm”.
Lý Nam Tinh lạnh lùng: “Ta không muốn làm giáo chủ gì cả, ta cũng không rảnh đến núi Tồ Lai”.
Ông già ấy gạt đi: “Lệ công tử đã nói sai rồi, cha của công tử là cháu duy nhất của Lệ tổ sư, mẹ của công tử cũng từng là giáo chủ Thiên ma giáo. Chả lẽ công tử không muốn trùng trấn gia thanh?”
Lý Nam Tinh đáp: “Cha mẹ ta đã rửa tay gác kiếm từ lâu, đừng nhắc đến ba chữ Thiên ma giáo nữa!”
Ông già gằn tiếng: “Lệnh tôn lệnh đường đã rửa tay gác kiếm, công tử có thể nhóm lại lò lửa kia mà? Lệ công tử, không thể bỏ qua cơ hội, có bọn chúng tôi ủng hộ công tử, sợ gì việc lớn không thành?”
Lý Nam Tinh hừ một tiếng: “Các người là cái thá gì, ta không rảnh làm đầu lĩnh của các người!”
Ông già cười ha hả: “Lệ công tử, công tử đừng coi thường người khác. Công tử có biết rằng, năm xưa cha mẹ công tử không dám coi thường chúng tôi hay không?” Lý Nam Tinh sẵng giọng: “Mặc kệ ngươi là ai, ta không muốn nợ ngươi, ngươi muốn thế nào?”
Ông già ấy cười lạnh lẽo: “Tên tên tiểu tử cuồng vọng, nói như thế, ngươi không muốn uống rượu mời mà muốn uống rượu phạt!”
Lý Nam Tinh cũng lớn giọng: “Các người cùng xông lên hay thay phiên nhau? Tùy các người!”
Ông già ấy cười ha hả: “Tên tiểu tử nhà ngươi quả thật không biết trời cao đất dày, dám coi thường lão phu! Hừ hừ! Chỉ cần ngươi đỡ nổi một trăm chiêu của ta, Dương mỗ này sẽ cho ngươi xuống núi, từ rày về sau không đến tìm ngươi nữa, nếu trong vòng một trăm chiêu ngươi thua ta, hừ hừ! Ta cũng không lấy tính mạng của ngươi, ngươi chỉ cần đi theo ta, được chưa?”
Lúc này tình thế giữa hai bên đã như kiếm rút cung căng, Trần Quang Chiếu thầm nhủ: “Mặc cho Lý Nam Tinh xuất thân như thế nào, mình cũng đã là bằng hữu của y, không thể để cho bằng hữu thiệt thòi. Nếu đối phương đơn đả độc đấu thì thôi,nếu quần đấu thì Trần Quang Chiếu này dù mất mạng cũng giúp y!” Trần Quang Chiếu đã thấy võ công của Lý Nam Tinh, tuy không biết ông già là ai, nhưng đoán rằng công phu của Lý Nam Tinh có thể đối phó với một ông già khí lực đã suy, không thể nào thua trong vòng một trăm chiêu. Cho nên Trần Quang Chiếu quyết định không lộ mặt, xem thử thế nào rồi tính tiếp.
Nghĩ chưa đứt, chợt tiếng gió nổi lên, có hai bóng đen nhảy về phía Trần QuangChiếu, đồng thanh quát: “Bằng hữu phương nào?” Lúc này Trần Quang Chiếu đành lộ mặt.
Hai hán tử ấy thấy Trần Quang Chiếu lạ mặt, lập tức nhảy bổ tới tấn công. Lý Nam Tinh kêu: “Trần huynh, chuyện này không liên quan đến huynh, huynh hãy trở về thôi!” Rồi quay sang ông già tiếp: “Người này là bằng hữu của tôi, nhưng y không biết chuyện chúng ta gặp nhau. Hãy bảo bọn chúng ngừng tay?”
Ông già lạnh lùng: “Ta không thể tin lời ngươi, ta cũng không để cho y dễ dàng quay về. Trước tiên ta sẽ bắt y hỏi cho rõ ràng rồi mới định đoạt”.
Trần Quang Chiếu nhờ thân pháp linh hoạt, né tránh đòn tấn công của hai người này, nhưng hai người này cũng chẳng phải là hạng kém cỏi, một người sử dụng đôi phán quan bút, một người sử dụng cây tiểu hoa thương, chiêu nào cũng đánh vào huyệt đạo của Trần Quang Chiếu. Trần Quang Chiếu nổi giận, quát: “Ta đã nhường các ngươi mấy chiêu, ngươi tưởng rằng ta dễ bắt nạt ư?” Rồi rút soạt thanh kiếm ra khỏi bao lập tức trả đòn.
Bản lĩnh thật sự của Trần Quang Chiếu chưa chắc hơn hai hán tử này, nhưng thanh kiếm của chàng là một món báu vật. Mẹ của chàng là thị nữ của Băng xuyên Thiên Nữ, năm xưa Băng Xuyên Thiên Nữ lấy hàn ngọc ngàn năm trong hố băng luyện thành một cây băng phách hàn quang kiếm, số ngọc còn lại thì luyện thành bốn thanh bảo kiếm, chia cho bốn thị nữ, mẹ của Trần Quang Chiếu được chia cho một cây. Cây kiếm này tuy không bằng băng phách hàn quang kiếm, nhưng kiếm vừa rút ra khỏi bao có thể khiến cho đối phương cảm nhận được luồng khí lạnh buốt tỏa ra.
Trần Quang Chiếu rút kiếm ra khỏi bao, hai hán tử này đều rùng mình, trong lòng kinh hãi vội vàng thối lui. Một người sử dụng khinh công Đảo thái thất tinh vọt người ra sau, chân chưa hạ xuống đất thì chợt cảm thấy đầu gối tê rần, thế là ngã quị xuống. Té ra người ấy bị khí lạnh xâm nhập, huyết lưu ngừng trệ, tay chân đều lạnh ngắt đến cứng đờ, đương nhiên không thể thi triển khinh công như bình thường. Những tên hán tử đứng gần đó đều tưởng rằng y bị trúng ám khí.
“Hảo tiểu tử, ngươi dám ám toán!” Y vừa quát ra thì đã phóng năm ngón ám khí về phía Trần Quang Chiếu.
Trần Quang Chiếu cười lạnh lùng: “Bọn cường đạo đui mắt, ai phóng ám khí? Các người đã vu oan cho ta, cũng được, ta sẽ cho các người coi ám khí của ta!” Rồi bốc ra một nắm Băng phách thần đạn, vung tay ném về phía bọn cường đạo.
Băng phách thần đạn là loại ám khí kì lạ nhất trong thiên hạ, các loại ám khí khác thì trúng vào người mới có tác dụng, nhưng chỉ có loại Băng phách thần đạn này khống chế đối phương bằng loại khí hàn âm của nó. Trần Quang Chiếu vừa ném Băng phách thần đạn ra, những kẻ này không biết lai lịch của ám khí, có người né tránh, có người dùng binh khí đánh bạt ra, những kẻ né tránh thì còn đỡ hơn, những kẻ dùng binh khí thì vừa chạm vào băng đạn đã tan ra, hóa thành một luồng khí lạnh lẽo xâm nhập vào xương cốt, máu huyết hầu như bị ngưng tụ! Còn kẻ bị bặng đạn bắn vào huyệt đạo thì càng thê thảm hơn, y té sầm xuống đất run lẩy bẩy, tựa như phát bệnh sốt.
Vài hán tử vẫn chưa ngã thì lạnh đến nỗi răng đánh vào nhau lập cập, chạy ngược trở lại, miệng cứ kêu lên oai oái: “Ôi... Ôi chao! Tên tiểu tử này... biết... biết yêu pháp!” Trần Quang Chiếu đánh lùi bọn hán tử ấy, chuẩn bị dùng băng đạn và bảo kiếm giúp Lý Nam Tinh.
Lý Nam Tinh vốn muốn chạy ra giúp cho Trần Quang Chiếu, lúc này thấy chàng ta vung Băng phách thần đạn, đánh lùi bọn đang vây công mình, bất đồ vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, chàng bật cười ha hả.
Ông già ấy sầm mặt, cười lạnh lùng: “Chẳng có gì đáng sợ, đồ nhi, các người hãy bắt tên tiểu tử này lại cho ta?” Một hán tử mặt có vẻ bệnh hoạn, người cao ốm bước ra nói lớn: “Đệ tử tuân lệnh!” Người lập tức nhảy về phía Trần Quang Chiếu.
Trần Quang Chiếu thấy y lao đến hung dữ như thế, biết rằng đây là một kẻ kình địch, nên không đợi đối phương ra tay đã phóng ra ba viên Băng phách thần đạn.
Hán tử này chẳng hề lộ chút tình cảm trên khuôn mặt, bao nhiêu Băng phách thần đạn bay tới trước mặt y, chỉ thấy y gạt nhẹ qua rồi lạnh lùng nói: “Ta tưởng là thử gì, té ra chẳng qua là loại băng đạn của Băng Xuyên Thiên Nữ. Hừ, Băng phách thần đạn có thể làm gì được ta?” Ba viên Băng phách thần đạn rơi vào trong tay y, chỉ thấy y mở bàn tay ra, ba viên băng đạn đã tan ra thành nước!
Băng phách thần đạn gặp phải những người có nội công cao cường, không làm gì được đối phương cũng chẳng có điều gì lạ. Nhưng điều kỳ lạ là thân phận của hán tử này chẳng qua là đồ đệ của ông già, nhưng lại có thể dám tiếp băng đạn, điều đó khiến cho Trần Quang Chiếu ngạc nhiên.
Trần Quang Chiếu đương nhiên cả kinh, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, hán tử ấy đã vỗ một chưởng về phía chàng.
Trần Quang Chiếu lướt người, trở tay đánh ra một kiếm. Kẻ địch đang lao tới, chiêu này là lối đánh lấy công làm thủ, kiếm thế linh hoạt phiêu hốt, là một chiêu số cực kỳ tinh diệu trong Băng xuyên kiếm pháp.
Trần Quang Chiếu tưởng rằng đối phương sẽ thối lui, nếu không sẽ trúng kiếm.
Nào ngờ đối phương chẳng lùi cũng chẳng né, chỉ nghe keng một tiếng, hán tử trông bệnh hoạn ấy hóa chưởng thành chỉ, búng nhẹ một cái đã đánh bật thanh hàn ngọc kiếm của Trần Quang Chiếu ra.
Thanh hàn ngọc kiếm không lợi hại ở mũi kiếm mà là ở luồng khí âm hàn tỏa ra từ kiếm. Trần Quang Chiếu thầm nhủ: “Gã này đã tiếp Băng phách thần đạn của mình, nay lại có thể chạm vào hàn ngọc kiếm của mình, như thế e y sẽ không thể chịu nổi, trừ phi y chẳng là thân máu thịt”. Nào ngờ chưa nghe xong thì chợt cảm thấy một luồng khí lạnh từ chuôi kiếm truyền vào lòng bàn tay mình. Hán tử ấy vẫn không hề run rẩy mà Trần Quang Chiếu lại cảm thấy lạnh đến khó chịu, bất đồ rùng mình.
Trần Quang Chiếu vốn luyện Thiếu dương nội công tâm pháp, đó là loại thần công hộ thể mà Băng Xuyên Thiên Nữ truyền cho mẹ chàng, ai luyện loại thần công hộ thể này mới có thể dùng hàn ngọc kiếm và băng đạn. Nay hán tử ấy chỉ búng nhẹ một cái mà đã đánh bật được thanh hàn ngọc kiếm của chàng, chuôi kiếm chợt trở nên lạnh lẽo, cả bản thân chàng cũng cảm thấy khó chịu. Đó là chuyện chưa từng xảy ra bao giờ?
Hán tử ấy buông giọng cười: “Hàn ngọc kiếm chẳng qua chỉ có thế mà thôi, ngươi còn có bản lĩnh gì nữa? Hừ hừ, ngươi chẳng xứng dùng thanh kiếm này, chi bằng cứ cho ta đi thôi!” Miệng thì nói, chưởng vẫn đánh tới không ngừng, khi nói chuyện đã liên tục sử dụng ba chiêu Không thủ nhập bạch nhẫn, rõ ràng là muốn cướp thanh hàn ngọc kiếm của Trần Quang Chiếu.
Trần Quang Chiếu thấy hàn ngọc kiếm chẳng làm gì được đối phương, trong lòng kinh hãi không dám tiếp sức, chỉ nhờ vào khinh công tránh đông né tây. Lúc này bảo kiếm cũng đã thành phế vật, trong nhất thời chàng không biết nên ứng phó thế nào.
Trần Quang Chiếu càng lúc càng nguy ngập, trong lúc kịch chiến hán tử ấy đánh ra một chiêu Loan cung xạ điêu, chưởng chỉ đều sử dụng, Trần Quang Chiếu không còn đường thối lui, đành đẩy một chưởng về phía đối phương.
Hai chưởng giao nhau, bình một tiếng, hán tử ấy thối lùi ba bước, Trần Quang Chiếu cũng lắc lư người. Luận về chưởng lực thì hai bên không hơn kém nhau bao nhiêu. Nhưng Trần Quang Chiếu cảm thấy ngạc nhiên, bất đồ vừa mừng vừa lo!
Té ra Trần Quang Chiếu tưởng rằng đối phương không sợ ngọc kiếm và băng đạn của mình, chắc hẳn nội công rất thâm hậu, nay thử mới biết chưởng lực của đối phương tuy không kém nhưng cũng chỉ như thế mà thôi.
Song chưởng lực của đối phương tuy không hơn chàng, nhưng Trần Quang Chiếu tiếp xong chưởng ấy thì người cảm thấy lạnh lẽo, tựa như rơi vào hố băng.
Hán tử ấy cười ha hả: “Ngươi cũng cảm thấy khó chịu. Hì hì, đó gọi là lấy gậy ông đập lưng ông, ngươi hãy chờ xem còn có trò hay nữa?”
Chính là: Đạn băng kiếm báu tiêu âm sát, hiệp sĩ ma đầu lại gặp nhau.
Muốn biết chuyện tiếp theo thế nào mời xem hồi 23 sẽ rõ.