Rượu quỳnh hiếm có khách trở về
Kim Trục Lưu đẩy cửa phòng, chỉ thấy màn gấm buông lơi, bàn ghế mờ bụi, Kim Trục Lưu cười bảo: “Nguyên Hạo huynh, nàng ta đã bỏ đi mấy ngày nay, cũng không để lại vật gì cho huynh, huynh có thất vọng không? Nhưng như thế cũng tốt, nàng không đi cùng Phong Tử Siêu, huynh đã yên tâm chưa?” Kim Trục Lưu thấy trên bàn ghế có bụi mờ cho nên đoán rằng Phong Diệu Thường đã bỏ đi mấy ngày. Bởi vì Phong Tử Siêu dẫu đã từng trở về nhà, nàng cũng không theo y.
Tần Nguyên Hạo hỏi: “Chúng ta còn vào làm gì nữa?” Đang hỏi, Kim Trục Lưu kéo chàng tiến vào phòng, chợt kề tai chàng nói: “Huynh hãy kéo thử bức màn” Tần Nguyên Hạo đỏ mặt: “Sao lại làm thế?” Kim Trục Lưu đẩy chàng tiến đến phía trước, nói: “Ta bảo huynh mở thì cứ mở, đừng sợ!”.
Té ra Kim Trục Lưu nghe bên trong có tiếng thở nhè nhẹ, ở đây có hai khả năng, một là Phong Diệu Thường đã bị thương, nằm trên giường không thể cử động được, cũng không thể lên tiếng, hai là có một cao thủ nấp trong giường của nàng. Người có nội công thâm hậu có thể khống chế hơi thở, cho nên Tần Nguyên Hạo không thể phát giác, nhưng Kim Trục Lưu thì có thể nghe ra. Kim Trục Lưu không biết bên trong trướng có phải là Phong Diệu Thường hay không, chàng không muốn tự tiện vạch màn cho nên mới bảo Tần Nguyên Hạo ra tay.
Chàng ta không thể nào nói rõ điều này được, cho nên Tần Nguyên Hạo không hiểu ý, cứ nói lớn lên. Nói chưa dứt lời, bên trong có một người ngồi bật dậy, vạch màn tóm lấy Tần Nguyên Hạo rồi quát: “Té ra tên tiểu tử họ Tần nhà ngươi, ngươi đã giấu Phong cô nương ở đâu?”.
Tần Nguyên Hạo gặp kẻ địch đánh ra bất ngờ, tuy hoảng nhưng không loạn, quát lên: “Ngươi là ai?” Rồi đánh ra một chưởng, giật mạnh tay ra.
Không ngờ hai chưởng chạm nhau, chưởng của người ấy lạnh như băng, Tần Nguyên Hạo bất đồ rùng mình một cái. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Kim Trục Lưu đã nhẹ nhàng lướt tới vỗ chưởng ra, xem ra như không dùng lực, nhưng trong đó đã chứa đựng rất nhiều biến hóa. Người ấy tuổi khoảng ba mươi, trông giống như một con bệnh, sắc mặt trắng bệch, không hề có biểu cảm, lạnh lùng nói: “Tên ăn mày nhà ngươi cũng nhiều chuyện thật, cho ngươi biết lợi hại của ta!” Y trông giống như người bệnh, nhưng nội lực thì không kém, có thể hóa giải được mấy phần kình đạo trong chưởng lực của Kim Trục Lưu.
Kim Trục Lưu lật bàn tay lại, nhả hết chưởng lực ra, người ấy trúng một chưởng, phun ra một ngụm máu, kêu lên: “Lợi hại thật!” Rồi không dám tiếp chưởng thứ hai của Kim Trục Lưu, nhảy vọt ra cửa sổ.
Nói ra thật kỳ lạ, trong khoảnh khắc người ấy phun máu, Kim Trục Lưu cũng bất đồ thối lui hai bước, chỉ đành mở to mắt nhìn người ấy bỏ chạy chức không ngăn cản kịp.
Tần Nguyên Hạo thất kinh, kêu lên: “Kim huynh huynh sao rồi?” Kim Trục Lưu cười ha hả: “Được ngươi đã biết lợi hại của ta, ta cũng để cho ngươi chạy, ngươi nên biết rằng, nếu ta đuổi theo ngươi, ngươi đừng hòng trốn thoát”.
Khi Kim Trục Lưu cười nói, trung khí rất sung mãn, đó là chàng muôn thị uy kẻ địch. Tần Nguyên Hạo nghe tiếng cười của chàng thì biết chàng không bị thương.
Kim Trục Lưu nói xong với người ấy thì quay đầu lại, mỉm cười với Tần Nguyên Hạo: “Ta không sao, ta chỉ lo lắng cho huynh. Sao thế, huynh rất lạnh phải không?”.
Tần Nguyên Hạo đáp: “Thật kỳ lạ, ta quả thật rất lạnh, nhưng đã đỡ hơn chút ít”.
Kim Trục Lưu nắm tay chàng, truyền nguồn nhiệt vào lòng bàn tay chàng rồi cười: “Người này luyện Huyền âm chỉ đã có sáu bảy phần hỏa hầu, Huyền âm chỉ là công phu của tà phái, biến hóa từ Tu la âm sát công, nhưng kém xa Âm sát công nhiều, chắc là kẻ ấy thấy Huyền âm chưởng dễ luyện cho nên mới học. Nếu y luyện thànhTu la âm sát công, có lẽ ta phải kiêng nể vài phần, nhưng Huyền âm chỉ thì làm gì được ta?”.
Tần Nguyên Hạo được Kim Trục Lưu dùng nội công thượng thừa tương trợ, trong chốc lát toàn thân đã ấm áp, chẳng còn thấy lạnh gì nữa. Kim Trục Lưu cười nói: “Huynh có thể thoát được một trảo của y mà không bị thương, công phu cũng đã không tệ”.
Tần Nguyên Hạo đáp: “Tôi đã từng nghe sư phụ nói hơn ba mươi năm trước, đại ma đầu Mạnh Thần Thông của tà phái đã từng dùng Tu la âm sát công xưng bá võ lâm, kẻ này biết Huyền âm chỉ chả lẽ là đồ tử đồ tôn của Mạnh Thần Thông?”.
Kim Trục Lưu nói: “Cũng chưa chắc. Tôi nghe cha tôi bảo, trừ ngoại tổ phụ của tôi, còn có một sư đệ họ Dương cũng luyện được Tu la âm sát công đến tầng thứ tám. Tu la âm sát công từ Thiên Trúc truyền vào, không chừng ở Thiên Trúc cũng có cao thủ truyền cho đệ tử người Hán”. Lúc này Tần Nguyên Hạo mới nhớ lại Cốc Chi Hoa, mẹ của Kim Trục Lưu là con gái của Mạnh Thần Thông, lòng nhủ thầm: “Chả trách nào y biết lai lịch của loại Huyền âm chỉ này”.
Kim Trục Lưu lại bảo: “Nhưng người này dẫu không phải là truyền nhân của ngoại tổ phụ tôi, sư phụ của y ắt hẳn là một cao thủ trong tà phái, ngoài Huyền âm chỉ, y còn biết Thiên ma giải thể đại pháp”. Loại Thiên ma giải thể đại pháp này sau khi ói máu, công lực sẽ tăng lên gấp hai lần. Thế mới biết Kim Trục Lưu lúc nãy tại sao đã đả thương kẻ địch mà trái lại bản thân thối lui mấy bước.
Kim Trục Lưu nghiêng tai lắng nghe, trong chốc lát nói nhỏ: “Trên núi có người đang đánh nhau, chúng ta lên xem thử”.
Hai người đi về hướng có phát ra tiếng. Được một hồi chỉ nghe tiếng quát vang lên như sấm bên tai, Kim Trục Lưu cười nói: “Té ra Trọng bang chủ đang đánh nhau ở đây. Công phu của người này hơn người lúc nãy rất nhiều. Chắc là y đã chẻ cây tre của Trọng bang chủ”.
Khi đến gần, chỉ thấy người đang ác đấu với Trọng Trường Thống là một hán tử trung niên, chưởng lực của hai người cực kỳ cương mạnh, cát đá trong chu vi mấy trượng đều tung bay. Chưởng phong của người này nóng như lửa. Tần Nguyên Hạo có công lực hơi kém, bị chưởng phong táp vào thì mồ hôi chảy như mưa, vội vàng thối lui. Kim Trục Lưu nghĩ bụng: “Lôi thần chưởng của kẻ này không kém, nhưng Trọng bang chủ vẫn hơn y một bậc, không cần mình giúp đỡ”.
Khi hai cao thủ tỉ thí, mắt có thể thấy bốn hướng, tai có thể nghe tám phương. Hai người Kim, Tần vừa đến, Trọng Trường Thống và hán tử trung niên ấy đều phát giác. Nhưng Trọng Trường Thống vẫn không thèm để ý, vẫn quát tháo xông vào đối thủ. Hán tử trung niên thì không khỏi giật mình, nhủ thầm: “Tên ăn mày này không sợ chưởng phong của mình, có lẽ nội công cũng không kém. Nghe nói Văn Đạo Trang đã từng thua một kẻ ăn mày ở nhà họ Giang, không biết có phải là kẻ này hay không?” Hán tử ấy sợ Kim Trục Lưu đến giúp Trọng Trường Thống, cho nên liều mạng tấn công gấp tới.
Đang lúc kịch chiến chợt nghe một tiếng hú dài từ xa dần vọng tới, tiếng hú rất gần, vả lại âm đuôi rất nhỏ, người có võ công cao cường vừa nghe thì đã biết kẻ ấy đã bị nội thương.
Kim Trục Lưu thầm cười: “Ai bảo ngươi dùng Thiên ma giải thể đại pháp, không làm gì được ta, trái lại tự làm tổn thương mình”. Kim Trục Lưu đã nghe được người phát ra tiếng hú chính là kẻ lúc nãy, đoán rằng y là đồng bọn của hán tử này, cho nên sau khi bị thương thì gọi đồng bọn cùng chạy trốn.
Hán tử ấy nghe tiếng hú thì không khỏi thất kinh, nghĩ bụng: “Mâu lão tam không biết có phải bị tên ăn mày này đánh bị thương không? Ôi! Nếu biết sớm như thế, mình không nên để y ở lại nhà họ Phong. Mình tưởng có thể thắng được lão ăn mày già, nào ngờ gặp phải đối thủ, đến muốn thoát thân cũng khó”. Thế rồi liều mạng, liên tục đánh ra những chiêu tấn công hiểm hóc, ý đồ muốn tìm thắng trong bại. Trong chốc lát, hán tử ấy đã đổ mồ hôi đầm đìa. Còn Trọng Trường Thống vẫn ý định thần nhàn, ung dung đối phó. Kim Trục Lưu nghĩ bụng: “Công lực của hán tử này không bằng Trọng bang chủ, cứ kéo dài rốt cuộc sẽ thua to”.
Chàng nghĩ chưa dứt, chợt nghe Trọng Trường Thống quát lớn một tiếng như sấm dậy, hai tay vung lên đánh bật hán tử ấy lảo đảo thối lui đến sáu bảy bước. Kim Trục Lưu nghĩ bụng: “Trọng bang chủ chỉ cần đánh thêm một chưởng nữa thì kẻ này sẽ bị thương. Ồ, có hội tốt như thế, tại sao ông ta lại bỏ qua?” Té ra Trong Trường Thống không thừa cơ đuổi theo mà thu tay lại.
Hán tử cũng cảm thấy bất ngờ, mở to mắt nhìn Trọng Trường Thống. Trọng Trường Thống lạnh lùng buông lời: “Âu Dương Kiên, Lôi thần chưởng của ngươi có thể bì kịp với cha của ngươi năm xưa, nhưng muốn đả thương ăn mày già này thì e rằng vẫn chưa thể”. Té ra kẻ này là con trai của Âu Dương Bá Hòa, ba năm trước Âu Dương Bá Hòa đã từng bại trong tay Trọng Trường Thống, đã bị Trọng Trường Thống phế võ công. Âu Dương Kiên thở phì phò, đáp: “Đúng thế, ta tưởng có thể thắng được ngươi, giờ đây đã biết không bằng ngươi, nhưng ta đang tuổi tráng niên, ngươi đã già, rốt cuộc có một ngày ta sẽ đánh bại ngươi. Lúc đó ta không giết ngươi nhưng sẽ phế võ công của ngươi, nếu ngươi sợ ta đến trả thù, chi bằng hôm nay ngươi cứ giết quách ta cho xong!”.
Trọng Trường Thống cười ha hả: “Ngươi muốn đánh bại ta ít nhất cũng phải mười năm nữa. Nhưng lúc đó không chừng lão ăn mày già này đã ‘quy vị’. Ngươi có được hào khí như thế vẫn còn khá hơn cha ngươi. Ta đã phế võ công của cha ngươi, nay không muốn phế võ công của ngươi nữa. Ta sẽ cho ngươi biết rằng, lão ăn mày già này tùy người mà đối xử, không phải đuổi tận giết tuyệt. Thôi được, ngươi hãy đi đi!”.
Âu Dương Kiên nói: “Được, hôm nay ngươi đã thả ta, ngày sau ta trả thù, ngươi đừng hối hận”. Trọng Trường Thống cười ha hả: “Ăn mày già này chưa bao giờ hối hận chuyện gì cả?” Âu Dương Kiên thầm mừng, nhưng vẫn không để lộ ra ngoài mặt, thản nhiên: “Mong mười năm sau ngươi vẫn còn sống, nếu không ta sẽ thất vọng lắm”. Thế rồi quay đầu đi.
Số là Âu Dương Kiên đã biết tính tình Trọng Trường Thống, bại trong tay ông ta nhưng không thèm cầu xin, do đó cứ tỏ ra là một người cứng cởi. Y không thèm nhận ơn của Trọng Trường Thống mà miệng cứ bô bô đòi trả thù, quả nhiên Trọng Trường Thống đã tha cho y.
Âu Dương Kiên bỏ đi, Kim Trục Lưu và Tần Nguyên Hạo bước tới gặp Trọng Trường Thống, Trọng Trường Thống hỏi: “Ăn mày con nhà ngươi muốn cùng Nguyên Hạo đến nhà họ Phong ư?”. Kim Trục Lưu đáp: “Đúng thế. Tôi còn thấy chín cây gậy tre của ngài cắm trong sân”.
Trọng Trường Thống hừ một tiếng: “Có phải các người đến tìm cô nương nhà họ Phong không? Có gặp chưa?” Tần Nguyên Hạo đỏ mặt, Kim Trục Lưu cười đáp: “Không gặp, nhưng đã gặp một hán tử sử dụng Huyền âm chỉ trong phòng của cô ta, không biết đó là ai?”.
Trọng Trường Thống nói: “Y là đệ tử của Dương Hạo, tên gọi Cung Bình Dã, là nhân vật thứ hai trong tà phái. Dương Hạo là con trai của Dương Xích Phù. Dương Xích Phù là đồ đệ của Mạnh Thần Thông, y còn sống đã luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ tám. Ta cũng không biết tại sao y lại cùng Âu Dương Kiên đến nhà họ Phong, nhưng Âu Dương Kiên coi như cũng có chút gan dạ, y thách ta quyết đấu, không cần Cung Bình Đã giúp đỡ. Nếu hai người bọn chúng vây đánh một mình ta, ta tuy không đến nỗi bại nhưng cũng khó thắng. Tuy làm nhiều chuyện ác, vả lại cũng là người cứng cỏi cho nên ta mới tha cho y”.
Kim Trục Lưu cười nói: “Té ra là thế, nếu vậy tên họ Cung cũng có chút quan hệ với tôi. Tôi chỉ cảnh cáo y mà không giết, coi như cũng đã làm đúng”. Bèn kể lại chuyện lúc nãy cho Trọng Trường Thống nghe.
Trọng Trường Thống nói: “Tính tình ăn mày con nhà ngươi cũng giống ăn mày già ta đây, cứ thích lo chuyện bao đồng. Chúng ta đều như nhau cả, ngươi có đúng cũng được không đúng cũng được, ăn mày già không quản ngươi. Nhưng Tần Nguyên Hạo đã làm không đúng, ăn mày già phải quản ngươi. Tần Nguyên Hạo, ngươi đã làm sai chuyện gì ngươi có biết không?” Tần Nguyên Hạo là người trong cứng ngoài mềm, chàng đã biết Trọng Trường Thống muốn trách mình chuyện gì, nhưng chàng vẫn không phục, trả lời cứng rằng: “Vãn bối không biết sai ở đâu cả, mong lão tiền bối chỉ dạy”.
Trọng Trường Thống nghiêm mặt: “Phong Tử Siêu là tên bại hoại võ lâm đã từng làm vệ sĩ đại nội, lão ăn mày đã điều tra tung tích của y. Hừ, thiên hạ có bao nhiêu cô gái tốt, tại sao ngươi cứ phải tìm con gái của Phong Tử Siêu?” Tần Nguyên Hạo đỏ mặt, cãi: “Đệ tử và Phong cô nương chẳng có gì cả, chỉ là lo lắng cho cảnh ngộ của cô ta, vả lại đi ngang đường thuận tiện ghé thăm mà thôi”. Trọng Trường Thống nửa tin nửa ngờ: “Ngươi thật sự không có tư tình với ả?”.
Kim Trục Lưu đáp: “Lão ăn mày, ông quản chuyện này là không đúng rồi đấy”. Trọng Trường Thống trợn mắt: “Ta không nói ngươi, ngươi lại trách ta. Được thôi, ngươi nói thử xem tại sao ta không nên quản?”.
Kim Trục Lưu hỏi: “Ông đã biết lai lịch của Phong Tử Siêu, nhưng ông đã tra xét lai lịch của con gái y chưa?”.
Trọng Trường Thống đáp: “Ngươi hỏi câu này thật vô lý”.
Kim Trục Lưu hỏi lại: “Tại sao là vô lý?” Trọng Trường Thống đáp: “Một ả nha đầu thì có gì mà điều tra?” Kim Trục Lưu nói: “Ông mới đúng là vô lý, tuổi còn trẻ thì cần gì phải điều tra? Người ta chỉ là một thiếu nữ, chuyện gì cũng phải nghe lời cha. Ông biết nàng là người tốt hay kẻ xấu? Tại sao không chịu điều tra mà đã bảo Tần Nguyên Hạo không đúng?”.
Trọng Trường Thống lúng túng: “Miệng mồm ngươi cũng sắc bén lắm, còn lợi hại hơn cha ngươi nhiều. Được, coi như ta đã nói sai. Nhưng chẳng qua ngươi mới tới Trung Nguyên, chả lẽ ngươi biết được điều gì về ả?”.
Kim Trục Lưu đáp: “Tuy không biết rõ nhưng cũng biết đại khái. Thứ nhất, tôi biết nàng ta tâm địa thiện lương, khác hẳn với người cha của nàng. Cha của nàng dùng thiên nhật túy chuốc say Tần Nguyên Hạo, nàng đã biết nên rất áy náy, còn lấy thuốc giải cho Tần Nguyên Hạo. Thứ hai, nàng đã cùng Tần Nguyên Hạo đánh đuổi hai tên vệ sĩ đại nội, hai tên này là đồng sự cũ của Phong Tử Siêu, ta và Tần Nguyên Hạo vì thế mới sợ nàng bị Phong Tử Siêu trách mắng nên mới tìm đến nàng. Chính tôi đã lôi Nguyên Hạo đến nhà họ Phong, ông không nên trách y”. Trọng Trường Thống nghe Kim Trục Lưu nói như thế thì áy náy mỉm cười: “Nói như thế, ăn mày già này đã không đúng?”.
Kim Trục Lưu nói: “Vốn là ông đã sai, cha là cha, con là con, sao lại nói gộp chung với nhau?”.
Trọng Trường Thống là người phóng khoáng, lúc này đã đuối lý, cho nên mau mắn nhận sai. Cười rằng: “Ngươi nói cũng đúng, cha là cha, con là con. Ngoại tổ phụ Mạnh Thần Thông của ngươi năm xưa là thiên hạ đệ nhất ma đầu, mẹ của ngươi là nữ hiệp được mọi người kính phục. Ăn mày già thật lẩm cẩm, sao lại quên cả chuyện này. Hôn sự của cha mẹ ngươi cũng do ăn mày già này kết hợp!” Nói xong thì quay đầu lại an ủi Tần Nguyên Hạo: “Thôi được, coi như ta đã trách nhầm. Sau này ngươi và Phong cô nương có như thế nào ta cũng không quản nữa!” Nói xong thì cười ha hả. Cười xong Trọng Trường Thống lại hỏi: “Nguyên Hạo, ngươi định về Võ Đang hay tiếp tục tìm Phong cô nương của người?”.
Tần Nguyên Hạo đỏ ửng mặt, đáp: “Vãn bối và Phong cô nương chẳng có mối quan hệ gì cả, lão tiền bối đừng hiểu nhầm. Nay vãn bối biết nàng đã ra đi một mình nên cũng yên lòng hơn”.
Trọng Trường Thống gật gù: “Ờ, ngươi bảo chẳng liên quan, nhưng ngươi lại đem lòng nhớ người chẳng liên quan! Song, ngươi hãy yên tâm, ta sẽ không nói cho sư phụ của ngươi nghe đâu. Vậy ngươi sắp về Võ Đang?”.
Tần Nguyên Hạo đáp: “Vâng. Đệ tử định về Võ Đang báo lại cho sư phụ rồi sau đó lại tiếp tục hành tẩu giang hồ”.
Trọng Trường Thống nói: “Được, ta định đến chỗ sư phụ của ngươi, ngươi có thể đi cùng ta ăn mày con, còn ngươi?”.
Kim Trục Lưu nói: “Ăn mày con này sợ làm phiền ăn mày già, xin thứ tôi không thể đi cùng các người”.
Trọng Trường Thống cười ha hả: “Đúng thế, ngươi vừa trở về cũng nên một mình hành tẩu giang hồ để gây dựng tên tuổi”.
Kim Trục Lưu lắc đầu: “Tôi không muốn gây dựng tên tuổi. Song nếu đi một mình ăn cắp đồ thì tiện lợi hơn nhiều, ít nhất không bị ai ngăn cản cả”.
Trọng Trường Thống cả cười: “Tính cách của ngươi hoàn toàn giống cha ngươi, cứ thích độc lai độc vãng”.
Kim Trục Lưu lắc đầu: “Không, không, cha tôi không muốn tôi hoàn toàn giống người, người bảo tôi cứ trôi theo dòng nước, tôi không biết có làm được hay không, nhưng tôi cũng muốn thử kết giao với bằng hữu tam giáo cửu lưu trên giang hồ”. Nói đến đây thì quay sang Tần Nguyên Hạo mỉm cười: “Huynh đừng vờ vịt, trọng bụng nhớ người ta nhưng miệng lại không chịu thừa nhận. Hì hì, ta sẽ giúp ngươi, khi đi lại trên giang hồ ta sẽ để ý cho ngươi, dò hỏi tin tức Phong cô nương của ngươi”. Tần Nguyên Hạo nghe thế thì giở khóc giở cười đỏ gay mặt: “Kim huynh nói đùa mãi”. Kim Trục Lưu cười: “Có gì mà nói đùa, ta nói thực đấy”.
Ăn mày già và ăn mày trẻ cười hi hi ha ha một hồi, Trọng Trường Thống bảo: “Nói thực, ăn mày già đã nhiều năm chẳng gặp được một người bạn tính tình hợp như ngươi. Ăn mày già thật không nỡ xa rời ăn mày trẻ nhà người. Nhưng thiên hạ chẳng có buổi tiệc nào không tàn, chúng ta cũng nên chia tay ở đây”.
Kim Trục Lưu vội nói: “Khoan đã, khoan đã. Ăn mày trẻ còn có một chuyện muốn hỏi ăn mày già”.
Trọng Trường Thống đáp: “Chuyện gì, chỉ cần ngươi hỏi, ăn mày già nếu biết sẽ nói”.
Kim Trục Lưu hỏi: “Nghe nói trên núi Tồ Lai trước đây có một Thiên ma giáo, không biết giờ đây Thiên ma giáo ở đâu?”.
Trọng Trường Thống đáp: “Đó là chuyện gần ba mươi năm trước kia, giáo chủ là một phụ nữ xinh đẹp, sau đó nàng ta đã gả cho phó giáo chủ họ Lục. Họ cũng giống cha mẹ của ngươi, cũng đã ra biến không để lại tin tức. Ngươi hỏi Thiên ma giáo, có phải là nghe cha ngươi nói hay không?”.
Kim Trục Lưu lắc đầu: “Không, tôi nghe Cơ bá bá nói. Nay tôi đang ở núi Tồ Lai, nhất thời nhớ lại cho nên chỉ hỏi thử xem sao”.
Trọng Trường Thống nói: “ồ, điều này rất đúng”. Kim Trục Lưu hỏi: “Có gì mà đúng?”.
Trọng Trường Thống đáp: “Thiên ma giáo cũng có chút quan hệ với nhà họ Kim các ngươi. Đại sư huynh ngươi khi còn trẻ đã từng bị Thiên ma giáo bắt đi, sau đó Cơ Hiểu Phong đã cứu y ra. Nhưng Cơ Hiểu Phong cũng bị giáo chủ Thiên ma giáo đánh một trận tơi bời cho nên chắc ông ta vẫn còn nhớ chuyện này”. Kim Trục Lưu nói: “Nhưng Cơ bá bá không nói đến chuyện này”.
Trọng Trường Thống: “Sào huyệt của Thiên ma giáo nằm ở ngọn Bắc Phong núi Tồ Lai, nghe nói đó là một ngọn núi quanh năm mây phủ. Nhưng nhà cửa phòng ốc đã sụp đổ theo binh hỏa, chỉ còn lại một đống ngói vụn. Sau khi Thiên ma giáo sụp đổ, hai mươi năm qua không ai đến đó nữa, ta cũng thế”. Kim Trục Lưu: “Ta muốn đi xem thử”.
Trọng Trường Thống hỏi lại: “Một bãi hoang phế có gì mà đáng xem?”.
Kim Trục Lưu đáp: “Người già rất thích nhắc chuyện cũ, đó là nơi Cơ bá bá đã từng tới, tôi muốn đi một chuyến, quay về còn có chuyện nói với Cơ bá bá”.
Trọng Trường Thống nói: “Lão đệ, ngươi là người nhiều tình cảm, chả trách nào Cơ Hiểu Phong lại thương mến ngươi, truyền hết bản lĩnh của y cho ngươi. Nhưng ta lại không có hứng thú trèo lên ngọn núi cao như thế để xem một bãi phế tích, xin thứ ta không thể chiều ngươi”. Rồi đó hai bên chia tay nhau.
Kim Trục Lưu đi được một đoạn, chợt nghĩ: “Trọng Trường Thống bảo Thiên ma giáo có mối quan hệ với nhà mình, nhưng ông ta chỉ nói chuyện Cơ bá bá và Giang sư huynh, đó chỉ là quan hệ gián tiếp. Hình như ông ta không muốn nói điều gì đó, không biết là cớ gì?” Chàng chợt nhớ lại khi còn ở đảo Hỏa Sơn, Cơ Hiểu Phong chưa bao giờ nhắc ba chữ Thiên ma giáo trước mặt cha mẹ mình, mà mỗi lần ông ta nhắc đến chuyện đó, hễ thấy Kim Thế Di lại im bặt. Sau đó còn bảo chàng không nên hỏi cha mẹ về chuyện Thiên ma giáo.
“Cơ bá bá và cha mình là bạn bè thân thiết, xưa nay chuyện gì họ cũng nói với nhau. Nhưng tại sao Cơ bá bá lại tránh chuyện này?” Kim Trục Lưu nghĩ bụng, do đó nỗi tò mò đối với Thiên ma giáo ngày càng nhiều.
Kim Trục Lưu có điều không biết, tổ sư của Thiên ma giáo Lệ Thắng Nam là tình nhân cũ của Kim Thế Di. Sau đó Lệ Phục Sinh, kẻ đã kết hôn với giáo chủ Thiên ma giáo lại là cháu của Lệ Thắng Nam. Kim Thế Di là người trọng tình cảm, vì Lệ Thắng Nam, cho nên hai mươi năm sau ông ta mới cưới Cốc Chi Hoa. Vì không muốn gợi lại nỗi đau thương, Cơ Hiểu Phong không bao giờ nhắc tới ba chữ Thiên ma giáo trước mặt vợ chồng họ. Kim Trục Lưu không biết nguyên cớ ẩn kín cho nên muốn đến Thiên ma giáo xem thử.
Khi Kim Trục Lưu lên đến đỉnh núi thì trời đã tối, chỉ thấy quả nhiên chỉ là một bãi phế tích. Nhưng có một căn nhà vẫn chưa sụp đổ, trên tường dầy rong rêu nhưng cũng là một tòa nhà hoàn chỉnh. Trong nhà phát ra ánh đèn, rõ ràng bên trong có người.
Kim Trục Lưu nhủ: “Thật kỳ lạ, ta phải xem bọn họ là ai?” Rồi thi triển khinh công tuyệt đỉnh, lẳng lặng ra phía sau cửa sổ lén nhìn vào.
Chỉ thấy một hán tử tuổi khoảng ba mươi đang ngồi khơi lửa. Hán tử này mặc bộ trường sam cũ kỹ, tựa như là một thư sinh nghèo, bốn bức tường xung quanh tróc từng mảng, chỉ có một cái chuông lớn úp ở dưới đất, té ra đó là Thần Đường của Thiên ma giáo, sau khi trải qua binh hỏa, tượng thần đều đã bị đập vỡ hết, bàn thờ cũng bị người ta chẻ ra làm củi.
Hán tử này không biết bên ngoài có người, lấy ra một nắm đồ đặt dưới đất. Kim Trục Lưu vừa nhìn thì bất giác thất kinh. Té ra trong đống đồ ấy có một xâu ngọc trai, ánh sáng tỏa lấp lánh, quả nhiên là báu vật có giá trị liên thành. Ngoài ra còn có mười mấy đồng tiền và một cây truy thủ.
Kim Trục Lưu nhủ thầm: “Té ra là một tên ăn trộm”. Hán tử ấy giơ xâu chuỗi ngọc lên xem, lắc đầu, phát ra tiếng cười khổ. Kim Trục Lưu nhủ thầm: “Hình như y chê đánh cắp không đủ, lòng tham của y thật ghê gớm”. Hán tử ấy ăn mặc nghèo khổ, trong túi chỉ có mười mấy đồng tiền, nhưng lại có một xâu chuỗi có giá trị liên thành, chả trách nào Kim Trục Lưu nghĩ rằng là kẻ cắp.
Kim Trục Lưu nhủ thầm: “Cũng nên kết giao với tên ăn trộm này”. Rồi bật cười, đẩy cửa bước vào. Người ấy cả kinh, vội vàng gom đống đồ lại, mở to mắt nhìn Kim Trục Lưu. Kim Trục Lưu cười ha hả: “Ngươi đừng sợ. Chúng ta là người cùng một nghề”. Hán tử ấy hỏi lại: “Ngươi bảo gì?” Kim Trục Lưu đáp sáng: “Ngươi là kẻ cắp, ta cũng là kẻ cắp. Chúng ta làm cùng một nghề, tuy có người không nói đạo nghĩa giang hồ, nhưng ta thì không như thế, cho nên ngươi đừng đề phòng ta”.
Hán tử ấy thầm cười, trong bụng lại nghĩ: “Tên ăn mày này bước vào, mình không biết. Bản lĩnh khác thì mình không biết, nhưng khinh công rõ ràng là hơn mình. May mà y không đối địch với mình. Thôi được, y coi mình là kẻ cắp, mình cũng đành chịu”.
Hán tử vẫy tay: “Hiếm có dịp đồng đạo đến đây, xin thứ ta không có vật gì tiếp đãi, ngươi hãy ngồi xuống đây, ta mời ngươi ăn khoai núi”. Kim Trục Lưu cũng không khách sáo, khệnh khạng ngồi xuống, hít xong một hơi nói: “Ồ, thơm thật, thơm thật! Hình như khoai núi đã chín, ta đang đói bụng, ngươi hãy lấy ra đi”.
Hán tử gạt than, lấy ra một củ khoai, nói: “Còn nóng lắm, ngươi hãy cẩn thận”. Y ngồi đối điện với Kim Trục Lưu, chỉ cách một đống lửa, có thể với tay qua kịp nhưng y lại ném củ khoai qua chứ không trực tiếp đưa cho Kim Trục Lưu.
Kim Trục Lưu biết y có ý thử mình, bèn đưa tay ra, củ khoai rơi xuống lòng bàn tay chàng, Kim Trục Lưu cắn một miếng rồi bảo: “Tuy hơi cháy nhưng mùi vị rất ngon, xin đa tạ”.
Hán tử hơi e ngại Kim Trục Lưu không chụp được củ khoai của mình, thầm kinh: “Tên ăn mày này trẻ tuổi như thế, nhưng sao có thể có bản lĩnh như vậy? Xem ra nội công của y còn hơn mình!”.
Kim Trục Lưu nói: “Hôm nay ngươi cũng may mắn lắm, đánh cắp được của ai vậy?”.
Tên ăn mày đáp: ‘Đó là một kẻ giàu có nhưng bất nhân, tôi vốn tưởng còn có thể thu hoạch được nhiều hơn nữa, nào ngờ chỉ lấy được xâu chuỗi ngọc này thì đã bị người ta phát giác, ta chỉ đành bỏ chạy”.
Kim Trục Lưu nói: “Làm người đừng quá tham, xâu chuỗi ngọc này cũng đủ cho ngươi ăn hết đời”. Hán tử đáp: “Lão đệ đã nói sai rồi, nếu chỉ vì ăn uống một mình, ta đâu cần phí công đánh cắp xâu chuỗi ngọc làm gì!”.
Kim Trục Lưu ngạc nhiên: “Ồ, té ra ngươi là một hiệp đạo cướp giàu giúp nghèo, thất kính, thất kính”. Hán tử ấy gạt đi: “Ta không dám nhận chữ hiệp, nhưng ta đánh cắp đồ là còn nguyên nhân khác”.
Kim Trục Lưu hỏi: “Ồ, còn nguyên nhân gì nữa?”.
Hán tử ấy cười rằng: “Có phải ngươi mới vào nghề hay không? Ngươi không biết người làm nghề như chúng ta, làm lâu thì sẽ nghiện, nếu chỉ muốn ăn cho no bụng, kiếm một mớ rồi rửa tay, họ chẳng phải đã uổng phí tài nghệ hay sao?”.
Kim Trục Lưu cười ha hả: “Nói có lý lắm! Cơ bá bá của ta cũng nói như thế”.
Hán tử ấy rất kinh kêu lên: “Cơ bá bá cũng làm nghề này ư? Không biết đó là lão tiền bối nào?”. Kim Trục Lưu: “Ông ta là đại tôn sư trong nghề chúng ta. Ngươi có nghe nói Thần Thâu Cơ Hiểu Phong hay không?”.
Hán tử đáp: “Thật đáng tiếc, tôi ngưỡng mộ ông ta đã lâu nhưng chưa từng gặp, huynh đài có phải là đệ tử của Cơ lão tiền bối hay không?”.
Kim Trục Lưu nói: “Tôi không phải là đồ đệ của ông ta, nhưng cũng đã học bản lĩnh của ông ta”. Hán tử thấy Kim Trục Lưu còn trẻ tuổi như thế cho nên nửa tin nửa ngờ.
Hán tử đang định hỏi tên Kim Trục Lưu, chàng chợt: “Hình như có người đến? Có phải là đồng bọn của huynh không?”.
Hán tử lắng nghe, mặt biến sắc: “E rằng có kẻ sắp đến bắt ta. Huynh đài, có thể giúp đỡ hay không”.
Kim Trục Lưu vội hỏi: “Giúp đỡ như thế nào?” Nghĩ bụng: “Đánh nhau thì dễ, nhưng ta vẫn chưa biết tung tích của ngươi, làm sao có thể nghe lời ngươi?”.
Hán tử đứng dậy, vừa nhấc cái chuông lên, vừa bảo: “Ta đánh không lại bọn chúng, chỉ đành tạm thời nấp một lát bọn chúng đi, ngươi hãy thả ta ra”.
Nói xong chui vào rồi ụp cái chuông xuống lại. Y biết Kim Trục Lưu có thể nhấc cái chuông lên. Cái chuông này nặng khoảng năm sáu trăm cân, Kim Trục Lưu nghĩ bụng: “Hán tử này cũng không tệ nhưng nội công và ngoại công của y đều có thành tựu như thế, không hiểu sao lại sợ sệt, không biết người đến bắt y lợi hại đến mức nào?” Rồi chàng lại nghĩ: “Hán tử này lần đầu tiên gặp mình mà tin tưởng mình như thế, mình không thể không coi y là bạn bè”.
Chàng ta nghĩ đến đây thì chợt có hai người bước vào. Một đạo sĩ tay cầm phất trần, còn người kia là một hán tử cầm quỷ đầu đao. Đạo sĩ mắt sáng quắc có thần, Kim Trục Lưu vừa nhìn thì biết y là cao thủ nội gia. Còn hán tử cầm quỷ đầu đao thì sắc mặt vàng võ, hai thái dương nhô lên, xem ra là một cao thủ tà phái.
Hán tử ấy hỏi: “Ngươi là ai?” Kim Trục Lưu đáp: “Chỉ là kẻ ăn mày qua đường”. Hán tử cười lạnh: “Ăn mày sao lại đến miếu hoang này?” Kim Trục Lưu cũng cười lạnh: “Còn ngươi là ai, sao lại hỏi ta như thế? Ta cứ thích qua đêm ở đây, thì sao?”.
Đạo sĩ mặc áo xanh đã thấy Kim Trục Lưu không phải là nhân vật tầm thường, cười rằng: “Tiểu ca, ngươi đừng giận. Bọn ta chỉ muốn hỏi thăm một người, hình như vừa rồi có một hán tử đã ở đây? Ngươi có biết y nấp ở đâu không?”.
Kim Trục Lưu thản nhiên hỏi ngược: “Hán tử nào? Không thấy!”.
Hán tử thấp bé dùng cây quỷ đầu đao gạt đống lửa, cười lạnh lùng: “Ngươi nói dối hay thật, nhưng đáng tiếc không gạt nổi ta. Lúc nãy người nướng khoai với ngươi là ai?”.
Kim Trục Lưu gạt phăng: “Là ai cũng mặc! Ta có biết cũng không nói!”.
Hán tử ấy cả giận muốn phát tác. Đạo sĩ áo xanh khuyên: “Có lẽ kẻ ấy nấp ở gần đây, chúng ta hãy đi tìm thử. Cần gì so đo tính toán với một tên ăn mày?”.
Hán tử nói: “Trước tiên lục soát ở đây, nói không chừng y vẫn chưa thoát khỏi nơi này!”.
Căn miếu hoang này chẳng có nhiều đồ đạc, vừa nhìn thì đã thấy hết mọi vật. Vì hán tử ấy đuối lý, không làm gì được Kim Trục Lưu, nhưng lại không muốn buông tha cho chàng, cho nên cố ý ở lại trong nhà để mượn cớ gây sự. Còn đạo sĩ áo xanh thì hình như không muốn làm lớn chuyện, nhìn quanh quất một hồi rồi buông giọng: “Cả bóng ma cũng chẳng thấy, chúng ta đi thôi”.
Kim Trục Lưu một tay chống đầu năm xuống đất, một tay cầm củ khoai, cười rằng: “Đúng thế, Các người hãy mau mau cút cho ta. Ta ăn no rồi sẽ ngủ đấy”.
Hán tử tức giận: “Hay lắm, tên ăn mày nhà ngươi dám vô lễ với ta như thế, ta chưa đuổi ngươi mà ngươi đã đuổi ta, hừ, hừ lão tử đã nổi giận...”. Kim Trục Lưu liếc y, cười lạnh: “Thì sao nào?”.
Đạo sĩ áo xanh kéo tên đồng bọn, can: “Tiêu lão tam, cần gì phải tranh cãi với một tên ăn mày! Đi thôi!” Đạo sĩ áo xanh là một kẻ già dặn trên giang hồ, y thấy Kim Trục Lưu tỉnh như không, trong lòng hơi hoài nghi, nghĩ bụng: “Tên ăn mày này lớn gan như thế chắc chắn có điều gì khác lạ. Có lẽ võ công của y không cao, nhưng sư phụ của y chắc chắn là nhân vật có tên tuổi”. Đạo sĩ áo xanh khuyên tên đồng bọn không thèm để ý đến Kim Trục Lưu, nhưng thật sự y rất e ngại chàng, không dám gây sự với chàng.
Đạo sĩ áo xanh là kẻ đứng đầu trong bọn, hán tử sử dụng cây quỷ đầu đao quyết không dám cãi lời y, chỉ đành lẳng lặng bỏ đi, nhưng khi đi ngang qua cái chuông lớn thì ngừng lại, gõ mạnh vào mấy cái.
Đạo sĩ áo xanh cười rằng: “Chắc là kẻ ấy không nấp ở đây”. Té ra đạo sĩ áo xanh ấy nghĩ, bụng: “Nếu kẻ ấy nấp trong cái chuông đồng này, tên ăn mày kia làm sao có thể giở chuông lên, không ai thả y ra, chẳng phải y sẽ chết đói hay sao? Y lại là kẻ khôn lanh, chắc chắn sẽ không làm chuyện ngốc như thế!”.
Hán tử nọ vẫn chưa hết giận, gõ mạnh cây quỷ đầu đao thêm mấy cái, quát: “Nếu y nấp ở đây, ta sẽ đánh cho y điếc tai”.
Kim Trục Lưu lăn người nằm nghiêng kêu lên: “Này, ta đã bảo ta khó ngủ, ta không thích bị quấy rầy, nếu ngươi gõ nữa ta sẽ không khách sáo!”.
Hán tử ấy nổi lửa giận, không thể nào nén được nữa, thế là nhảy bổ tới xỉa chỉ vào lưng Kim Trục Lưu.
Hán tử không muốn lấy mạng của chàng, y đã xỉa vào huyệt ma dương ở sau lưng Kim Trục Lưu, y muốn dùng thủ đoạn này để buộc Kim Trục Lưu khai ra, đồngthời cũng muốn hành hạ chàng.
Đạo sĩ ấy nhíu mày, kêu: “Lão tam!” Nhưng hán tử đã ra tay, đạo sĩ áo xanh có muốn ngăn cản cũng không kịp nữa. Hán tử quát lớn: “Cho ngươi biết sự lợi hại của ta!” Lúc này đầu ngón tay đã chạm vào lưng Kim Trục Lưu.
Kim Trục Lưu mỉm cười: “Cũng chưa chắc lợi hại”. Nhưng chàng vẫn nằm với bộ dạng dương dương đắc ý, chẳng hề nhúc nhích, miệng vẫn nhai khoai. Nhưng khi chàng nói xong, chỉ nghe hán tử ấy kêu ối chao một tiếng, người bất thình lình đổ về phía trước, đạp vào trong đống lửa. Té ra Kim Trục Lưu tuy không phản đòn, nhưng chàng đã có thần công hộ thể, hán tử ấy chạm tay vào người chàng thì cảm thấy như bị điện giật!
Hán tử dẫm vào đống lửa kêu lên oai oái, Kim Trục Lưu đùa: “Ngươi có muốn ăn khoai nướng không? Không cần phải cướp, ta mời ngươi?” rồi nhặt một củ khoai còn nóng hổi tọng vào mồm y.
Hán tử không chịu nổi, miệng cũng sưng vêu lên, nước mắt tuôn ra. Kim Trục Lưu cười cợt: “Thế nào? Có ngon không?” Hán tử cả giận, chém mạnh thanh quỷ đầu đao, quát lớn: “Ta giết chết ngươi!” Hán tử ấy ra tay vẫn rất nhanh, miệng chỉ nói có năm chữ nhưng đã chém ra ba mươi sáu đao.
Kim Trục Lưu liến láu: “Này, này, đừng đùa đấy nhé, ngươi định chém ta thật ư?” Hán tử ấy chém liên tục ba mươi sáu đao, nhưng chẳng hề chạm được vào áo của Kim Trục Lưu, bất giác ngẩn người ra Kim Trục Lưu vẫn cười: “Hà, té ra ngươi quả nhiên đùa với ta. Được, có qua thì phải có lại, chúng ta đùa nhau nào!” Thế rồi gạt nhẹ một chưởng qua, hán tử ấy chưa kịp né tránh đã bị chàng bôi đầy một mặt tro.
Đạo sĩ áo xanh đã thấy Kim Trục Lưu sử dụng toàn võ công thượng thừa thì kinh hãi lắm, chỉ sợ chàng thi triển độc thủ vội vàng tiến đến phía trước, quét cây phất trần quát: “Tên ăn mày đừng hòng phóng túng?”.
Cây phất trần của đạo sĩ ấy quét tới, đuôi phất trần tỏa ra chụp xuống người Kim Trục Lưu, mỗi cọng phất trần vươn ra như kim nhọn, đâm vào các huyệt đạo trên toàn thân Kim Trục Lưu. Kim Trục Lưu cũng không khỏi giật mình, nghĩ thầm: “Lão đạo sĩ lỗ mũi trâu này quả là cao thủ!”.
Kim Trục Lưu cũng đề phòng y hạ thủ cho nên không dám khinh địch, hú dài một tiếng rồi thổi phất trần của đạo sĩ tản ra, đạo sĩ ấy quát: “Công phu hay?” Rồi vung tay, sợi phất trần tụ lại thành một bó, sử dụng như một cây phán quan bút điểm vào huyệt du khí trước ngực Kim Trục Lưu.
Phất trần vốn là thứ mềm mại, nhưng đạo sĩ ấy đã sử dụng như một cây phán quan bút, quả thật nội công của y đã đến mức bất phàm! Kim Trục Lưu cũng khen hay một tiếng, liền phất nhẹ ống tay áo, giải chiêu số đánh vào huyệt đạo của đạo sĩ áo xanh.
Hán tử cũng cầm đao xông lên, quát: “Tên ăn mày chắc là cùng một phe với gã kia, chúng ta không thể tha cho y!”.
Đạo sĩ quát theo: “Đương nhiên, ta sao có thể để cho ngươi chịu thiệt!” Y tuy kinh hãi trước võ công của Kim Trục Lưu, nhưng vì nghĩa khí cho nên đành đem hết bản lĩnh ra cùng hán tử kia tấn công Kim Trục Lưu.
Bản lĩnh của hán tử nọ tuy kém xa Kim Trục Lưu, nhưng võ công của đạo sĩ thì rất cao cường, đạo sĩ áo xanh đã tiếp phần lớn chiêu thế của Kim Trục Lưu, cho nên thanh khoái đao của hán tử ấy cũng uy hiếp được Kim Trục Lưu.
Trong lúc kịch chiến, hán tử đã nhận thấy phần lợi, một đao từ sau lưng Kim Trục Lưu chém tới, Kim Trục Lưu có thể thính thanh biện khí, không thèm quay đầu lại mà trở tay búng nhẹ, keng một tiếng, thanh quỷ đầu đao của hán tử ấy bật ra. Nói thì chậm, sự việc diễn ra lúc đó rất nhanh, cây phất trần của đạo sĩ cũng quét tới trước ngực, đó lại là một chiêu số phất huyệt lợi hại.
Kim Trục Lưu sử dụng Thiên la bộ pháp di hình hoán vị, tay trái lật thành âm chưởng, tay phải ngửa thành dương chưởng, hai chưởng tách ra tựa như hình cánh nhạn, lực đạo một cương một nhu, lôi kéo lẫn nhau khiến cho hán tử sử dụng đao loạng choạng, chém đến một đao suýt nữa trúng vào đồng bọn của mình.
Đạo sĩ áo xanh chợt kêu ồ lên một tiếng, thối lui ba bước rồi quát: “Tên ăn mày kia, ngươi có phải là đệ tử của Thiên ma giáo không?”.
Kim Trục Lưu nói: “Cái gì mà Thiên ma giáo, ta không thèm làm đệ tử của tà giáo! Ngươi đã nói vớ vẩn, nếm của ta một chưởng!” Đạo sĩ áo xanh kinh ngạc, hóa giải chiêu vừa rồi của Kim Trục Lưu, kêu lên: “Nói không phải là đệ tử của Thiên ma giáo, tại sao biết võ công của bọn chúng?”.
Kim Trục Lưu cả cười: “Buồn cười thật, ngươi không biết võ công của ta thì đừng nói bừa!” Rồi liên tục phát ra chưởng, khiến đạo sĩ áo xanh phải luống cuống tay chân.
Kim Trục Lưu không biết rằng đạo sĩ áo xanh ấy hiểu nhầm chàng là đệ tử của Thiên ma giáo thật ra là có căn cứ. Số là tổ sư của Thiên ma giáo Lệ Thắng Nam cũng luyện võ công trong bí kíp của Kiều Bắc Minh, võ công của Kim Thế Di dung hợp sở trường của các môn các phái, đặc biệt dùng võ công trong bí kíp Kiều Bắc Minh làm trụ cột, lấy tâm pháp nội công phái Thiên Sơn làm căn cơ. Chiêu lúc nãy mà Kim Trục Lưu vừa mới đánh ra chính là công phu âm dương công chàng chưởng trong bí kíp của Kiều Bắc Minh, hai mươi năm trước đạo sĩ áo xanh này đã từng thấy giáo chủ Thiên ma giáo sử dụng.
Đạo sĩ áo xanh kinh ngạc, nhủ thầm: “Nếu tên ăn mày này là đệ tử của Thiên ma giáo, chắc chắn sẽ không nhục mạ bổn giáo như thế, nhưng không hiểu tại sao võ công của y lại cùng một pháp môn với Thiên ma giáo?”.
Đạo sĩ áo xanh đã nghi ngờ trong lòng, càng muốn bắt sống Kim Trục Lưu hỏi cho rõ ràng, y biết bản lĩnh của Kim Trục Lưu hơn mình, nhưng y đã thấy Kim Trục Lưu không đủ kinh nghiệm, cho nên sử dụng chiến lược miên đấu, tiêu hao khí lực của Kim Trục Lưu, hy vọng Kim Trục Lưu có sơ hở để đánh ngã. Hán tử thấp bé kia cũng dùng khoái đao phối hợp tấn công, mỗi đao đều chém vào chỗ yếu hại của Kim Trục Lưu.
Đạo sĩ ấy tính toán như thế, nhưng Kim Trục Lưu cũng không ngốc, chàng đã thấy đối phương muốn tiêu hao khí lực của mình, cho nên lập tức thay đổi chiến thuật, sử dụng Thiên la bộ pháp đối phó với đối phương, đấu một hồi Kim Trục Lưu thầm nhủ: “Võ công của đạo sĩ thối này không kém, mình lại không biết nguồn gốc của y, nếu giết chết y chỉ e sẽ hỏng chuyện”. Số là Kim Trục Lưu có thể mau chóng đánh thắng. Nhưng đạo sĩ áo xanh cũng không tệ, nếu muốn mau chóng thắng thì phải thi triển chiêu lợi hại nhất.
Kim Trục Lưu vẫn còn do dự chưa quyết, hán tử chỉ tưởng rằng chàng có ý sợ sệt, cho nên càng đánh càng gấp, Kim Trục Lưu chợt nghĩ ra một ý, nhủ thầm: “Kẻ này thật đáng ghét, mình phải trêu y một phen”. Rồi chàng giả vờ để lộ sơ hở, lắc người tựa như sắp ngã xuống, hán tử cả mừng xông tới chém ra một đao. Y và đạo sĩ áo xanh liên thủ tác chiến, vốn là phối hợp rất kín kẽ, lúc này y một mình xông tới cho nên hai bên không tiếp ứng được nhau.
Đạo sĩ áo xanh vội vàng kêu lớn: “Cẩn thận!”. Nói chưa dứt lời, Kim Trục Lưu đã lách người vòng ra sau lưng của hán tử, hán tử chém hụt một đao, chợt cảm thấy cổ ngứa ngáy khó chịu, té ra Kim Trục Lưu đã nhẹ nhàng bóp vào cổ y.
Đạo sĩ áo xanh quét cây phất trần ra, nhưng đã muộn một bước, Kim Trục Lưu đã đẩy bật cây phất trần của y, miệng la lớn: “Đánh đã lâu, cũng nên thay đổi khẩu vị, đợi lát nữa ngươi sẽ thấy trò hay”. Chỉ thấy hán tử ấy tựa như bị bọ chét bò khắp người, cả thân người cứ uốn éo vặn vẹo, miệng phát ra tiếng khèn khẹc trông rất hài hước.
Đạo sĩ áo xanh cả kinh, kêu lớn: “Tiêu lão tam, ngươi sao thế?” Đáng thương thay cho tên hán tử ấy cứ nhảy nhót liên hồi, không thể nào trả lời được. Kim Trục Lưu cười ha hả: “Không có gì, ta không thèm lấy mạng của y, ngươi hãy yên tâm. Chẳng qua ta chỉ muốn mời ngươi xem trò khỉ mà thôi”.
Té ra Tiêu lão tam đã bị Kim Trục Lưu điểm vào huyệt ma dương. Lúc nãy y đã điểm vào huyệt ma dương của Kim Trục Lưu nhưng không trúng, nay Kim Trục Lưu đã dùng cách gậy ông đập lưng ông trừng trị y.
Thủ pháp điểm huyệt độc môn của Kim Trực Lưu rất lợi hại, hán tử ấy ngứa ngáy khó chịu, ném thanh quỷ đầu đao xuống, hai tay cứ cào liên hồi trên người, áo quần rách bươm, trên người toàn những vệt cào xước.
Đạo sĩ áo xanh thở dài: “Tiêu lão tam, chúng ta đánh không lại người ta, đừng làm mất mặt nữa!”. Rồi kéo hán tử ấy chạy ra khỏi miếu, Kim Trục Lưu cười ha hả, cung tay nói: “Xin chào, xin thứ ta không thể tiễn”.
Rồi chàng quay đầu lại cười: “Bằng hữu, hãy ra đây đi!” Nói xong thì bước tới nhấc cái chuông lên. Chợt thấy ánh lửa lóe lên rồi tắt, té ra người ấy cầm trong tay một viên đá lửa, mặt lộ vẻ ngỡ ngàng, ngồi xếp bằng ở dưới đất nhưng si như đại.
Chính là: Truy binh đã lui sóng gió lặng, sao lại ngẩn ngơ chuyện quá kì.
Muốn biết chuyện tiếp theo thế nào, mời xem hồi 8 sẽ rõ.