Harry và Ron rời phòng bệnh ngay buổi sáng hôm sau, hồi phục sức khoẻ hoàn toàn bằng sự chăm sóc của Bà Pomfrey và giờ đã có thể hưởng thụ mặt có lợi của việc bị đánh và bỏ độc, mà điều tốt nhất là Hermione đã làm hoà với Ron. Hermione đã theo bọn chúng đến ăn sáng, đem theo một tin tức là Ginny đã cãi nhau với Dean. Con quỷ đang ngủ gật trong ngực Harry bỗng nhiên nhỏm dậy, hít hít không khí một cách hy vọng.
“Bọn nó cãi nhau vì cái gì thế?” nó hỏi, cố gắng tỏ ra bình thường khi bọn chúng rẽ sang hành lang tầng bảy vắng vẻ, ngoại trừ một cô gái nhỏ bé đang ngắm cái thảm thêu những người khổng lồ trong váy ngắn. Cô bé đã rất sợ hãi trước sự có mặt của những đứa năm sáu và làm rơi cái cân đồng cô đang cầm.
“Không có gì đâu?” Hermione nói dịu dàng, chạy vội lên giúp cô bé. “Đây…”
Cô gõ nhẹ lên cái cân vỡ bằng đũa thần và nói, “Reparo.” Cô bé không nói lời cảm ơn, mà chỉ đứng sững ra ở đó khi bọn chúng đi qua và nhìn theo đến khi chúng ra khỏi tầm mắt; Ron quay lại nhìn về phía cô bé. “Tớ cược là bọn chúng càng ngày càng bé,” nó nói.
“Đừng quan tâm đến nó,” Harry nói, hơi thiếu kiên nhẫn. “Thế Ginny và Dean cãi nhau về cái gì hả Hermione?”
“À, Dean đã cười vì McLaggen đập trái Bludgu vào cậu,” Hermione nói.
“Nó có thể trông buồn cười lắm chứ,” Ron gật đầu. “Nó không hề vui chút nào!” Hermione nóng nảy. “Nó rất là tồi tệ và nếu Coote và Peakes không giữ Harry thì cậu ta sẽ còn đau nữa đấy!”
“Ừ, mà, chẳng cần thiết để cho Ginny và Dean phải chia tay vì điều đó,” Harry nói, vẫn cố gắng giữ vẻ bình thường. “Hay là bọn chúng vẫn còn đi với nhau?”
“Ừ, hai đứa vẫn còn… Mà tại sao cậu lại quan tâm quá thế?” Hermione hỏi, nhìn Harry một cách sắc sảo.
“Tớ chỉ không muốn đội bóng Quidditch của tớ bị loạn lên một lần nữa thôi!” nó nói vội vàng, nhưng Hermione vẫn còn rất nghi ngờ, và nó đã thở phào nhẹ nhõm khi một giọng nói đằng sau vang lên “Harry!” khiến cho nó có lý do để quay lưng về phía cô bé. “Ồ, chào, Luna.”
“Em đã đến phòng bệnh để tìm anh đấy,” Luna nói, lục lọi trong túi của cô bé. “Nhưng người ta nói anh đã rời đi…”
Cô bé lôi mạnh ra một cái gì đó có vẻ như là một củ hành màu xanh, một cái nấm lốm đốm to đùng, và một lượng lớn cái gì đó trông giống phân mèo lên tay Ron, cuối cùng kéo ra một cuộn giấy da bẩn thỉu cho Harry. “… Em được dặn đem cái này cho anh.”
Đó là một cuộc giấy da nhỏ, mà Harry nhận ra ngay đó là lời mời cho buổi học tiếp theo với Dumbledore.
“Tối nay,” nó nói với Ron và Hermione, khi nó mở cuộn giấy ra.
“Bài tường thuật trận vừa rồi hay lắm!” Ron nói với Luna khi cô bé lấy lại củ hành màu xanh, cây nấm và lũ phân mèo. Luna cười ngờ ngợ.
“Anh đang trêu em đấy phải không?” nó nói. “Tất cả mọi người đều nói em dở tệ.” “Không, anh nghiêm túc đấy!” Ron sốt sắng. “Anh không thể nhớ anh đã bao giờ thích nghe tường thuật hơn lúc đó chưa! Mà, cái gì đây?” nó thêm vào, giơ cái vật giống củ hành lên ngang mắt.
“Ồ, đây là một Gurdyroot,” cô bé nói, nhét những cái phân mèo và cây nấm vào trong túi. “Anh có thể giữ cái đó nếu anh thích, em có mấy cái liền. Bọn chúng rất tuyệt để bảo vệ mình khỏi Gulping Plimpies đấy.” Và cô bé đi khỏi, để Ron lại cười như nắc nẻ, tay vẫn nắm cái Gurdyroot.
“Cậu biết không, nó đã vượt qua tớ rồi đấy, Luna,” nó nói, khi bọn chúng lại rời khỏi đó để đến Đại Sảnh Đường. “Tớ biết nó bị hâm hâm, nhưng điều đó lại tốt…” Nó dừng lại bất thình lình. Lavender Brown đang đứng ở chân cầu thang cẩm thạch, trông rất hung dữ. “Chào,” Ron nói lo lắng.
“Đi nào,” Harry thì thầm với Hermione, và bọn chúng vượt lên, mặc dù trước đó chúng vẫn nghe Lavender nói, “Tại sao cậu không nói cho tớ biết là cậu ra ngày hôm nay hả? Mà tại sao con bé kia lại đi cùng cậu?”
Ron trông vừa sưng sỉa vừa bực mình khi nó xuất hiện trong bữa sáng nửa tiếng sau, và mặc dù nó ngồi cùng Lavender, Harry không thấy bọn chúng nói một lời nào cả. Hermione đang tỏ vẻ không hề quan tâm đến việc này một tí nào, nhưng mà một hay lần gì đó Harry thấy một nụ cười thoả mãn ẩn chứa trên mặt cô bé. Cả ngày hôm đó cô có vẻ ở trong một tâm trạng đặc biệt tốt, và tối hôm đó cô còn ưng thuận xem lại (hay nói cách khác, hoàn thành) bài luận Thảo Dược của Harry, điều mà cô bé đã cương quyết từ chối cho đến thời điểm này, vì cô bé biết rằng Harry sẽ để Ron chép bài của nó.
“Cám ơn nhiều Hermione,” Harry nói, vỗ nhẹ vào lưng cô bé khi nó kiểm tra đồng hồ và thấy rằng đã gần đến 8 giờ. “Nghe này, tớ sẽ phải nhanh chân thôi nếu không thì muộn bài học với thày Dumbledore mất…”
Cô bé không trả lời, mà chỉ đơn thuần gạch đi vài câu thiếu rõ ràng của nó bằng một động tác chán nản. Cười to, Harry chạy nhanh qua cái lỗ chân dung và đến phòng thày hiệu trưởng. Cái đầu máng xối trượt sang một bên khi món kẹo bơ cứng được nhắc đến, và Harry lao vụt lên trên cầu thang cuốn hai bậc một nhịp, gõ cửa đúng lúc chuông đồng hồ chỉ tám giờ.
“Vào đi,” Dumbledore gọi, nhưng khi Harry đưa tay ra mở cửa, nó đã bật ra từ bên trong. Ở đó Giáo sư Trelawney hiện ra.
“Aha!” bà kêu lên, chỉ tay đầy kịch tính vào Harry khi bà chớp chớp mắt với nó qua cái kính phóng đại của bà.
“Thế ra đây là lý do tôi bị đuổi một cách không tử tế khỏi văn phòng của ông đấy hả Dumbledore!”
“Sybill thân mến của ta,” Dumbledore nói với giọng hơi cáu giận, “chẳng có một lời đề nghị bà rời đi một cách không tử tế nào cả, nhưng Harry đã có hẹn trước rồi, và tôi thực sự không nghĩ sẽ cần phải nói…”
“Tốt thôi,” Giáo sư Trelawney nói, trong một giọng bị tổn thương sâu sắc. “Nếu như ông không trục xuất ngay cái con ngựa khệnh khạng đó, thì tốt thôi…”
Có thể tôi sẽ tìm một ngôi trường khác, nơi mà tài năng của tôi thực sự được trọng vọng…”
Bà vọt khỏi Harry và biến mất sau cái cầu thang xoắn; họ nghe thấy tiếng bà vấp ngã khi xuống được nửa đường, và Harry cho rằng bà đã vướng vào một trong những cái khăn choàng dài loằng ngoằng của bà.
“Hãy đóng cửa vào và ngồi xuống đi, Harry,” Dumbledore nói, nghe hơi mệt mỏi. Harry tuân theo, để ý khi nó ngồi xuống vị trí quen thuộc trước bàn của thày Dumbledore rằng cái Tưởng Ký lại nằm giữa hai người, và có cả hai lọ thuỷ tinh nhỏ chứa đầy những ký ức bạc nữa.
“Giáo sư Trelawney vẫn còn không vui vẻ vì thày Firenze vào dạy phải không ạ?” Harry hỏi.
“Ừ,” Dumbledore nói, “Tiên tri hoá ra lại lắm vấn đề hơn ta tưởng, ta chưa bao giờ học môn này cả. Ta không thể bảo Firenze về rừng được vì giờ anh ta đã là người ngoài luồng rồi, mà ta cũng không thể bảo Sybill Trelawney rời khỏi đây. Giữa hai chúng ta, cô ta không thể hiểu được cô sẽ nguy hiểm thế nào nếu rời khỏi lâu đài. Cô không thể biết – mà ta nghĩ sẽ là thiếu thận trọng nếu nói cho cô biết – rằng cô ta đã có lời tiên tri về con và Voldemort, con biết đấy.”
Dumbledore buông một cái thở dài, và nói, “Nhưng đừng quan tâm đến vấn đề giáo viên của ta. Chúng ta còn có nhiều thứ quan trọng hơn nhiều đề bàn tới. Đầu tiên… con đã thực hiện nhiệm vụ đó chưa. Điều mà ta bảo con làm cuối buổi học trước ý?”
“À,” Harry bật dậy ngay lập tức. Với những bài học Độn Thổ và Quidditch, rồi Ron bị bỏ độc và nó bị gãy xương sọ và sự cố gắng tìm hiểu xem Malfoy làm gì, Harry là hầu như quên khuấy đi cái ký ức mà thày Dumbledore đã muốn nó lấy ra từ Giáo sư Slughorn. “Vâng, con đã hỏi Giáo sư Slughorn về điều này vào cuối tiết học Độc Dược, thưa thày, nhưng, er, thày đã không muốn nói ra cho con biết.” Có một thoáng im lặng.
“Ta hiểu,” Dumbledore cuối cùng lên tiếng, nhìn Harry qua đỉnh cái kính nửa vầng trăng của ông và cho Harry cái cảm giác quen thuộc rằng nó đang bị soi X quang. “Và con cảm thấy rằng con đã cố hết sức trong việc này phải không? Rằng con đã thử mọi khả năng nói chuyện khéo léo của mình phải không? Rằng con không thể còn một sự tinh ranh nào ẩn chứa trong việc điều tra và lấy ký ức đó phải không?”
“Thưa thày,” Harry ngừng lại, chẳng biết sẽ phải nói gì nữa. Cố gắng duy nhất của nó để có được ký ức tự dưng trở nên kém cỏi một cách đáng xấu hổ. “Hmm… cái ngày Ron chẳng may uống phải Tình Dược con đã đưa nó đến Giáo sư Slughorn. Con nghĩ rằng nếu con gặp giáo sư Slughorn trong một tâm trạng tốt hơn…” “…mà, một cách hiển nhiên, đã làm cho con quên sạch về việc lấy ký ức đó; ta đã không trông đợi điều gì cả trong khi bạn thân nhất của con đang ở trong nguy hiểm. Ngay khi mọi thứ đã rõ ràng rằng Weasley đã có thể hồi phục hoàn toàn, mặc dù vậy, ta đã hy vọng rằng con sẽ quay lại với nhiệm vụ ta giao cho. Ta nghĩ rằng ta đã nói rõ với con rằng ký ức đó quan trọng thế nào. Thật ra, ta đã làm hết sức để gây ấn tượng cho con rằng đó là ký ức chủ chốt nhất và rằng chúng ta sẽ phí thời gian ở đây nếu không có nó.”
Một cảm giác xấu hổ bừng bừng và đau nhói tràn xuống toàn bộ cơ thể từ đỉnh đầu của Harry. Thày Dumbledore không hề lên giọng, thậm chí thày không hề có cảm xúc tức giận, nhưng Harry thà nghe thày la mắng còn hơn; sự không bằng lòng một cách lạnh lùng này tồi tệ hơn bất kỳ điều gì khác.
“Thưa thày,” nó nói, hơi có vẻ tuyệt vọng, “đó không phải là điều con không quan tâm hay gì khác, chỉ là con có những thứ… thứ khác…”
“Những thứ khác trong tâm trí con,” Dumbledore kết thúc câu nói hộ nó. “Ta hiểu rồi.”
Im lặng lại rơi vào giữa hai người, sự im lặng thiếu thoải mái nhất mà Harry đã từng cảm thấy giữa nó với Dumbledore; nó dường như là càng lúc càng tồi tệ, chỉ bị chọc thủng bởi tiếng ngáy lục cục từ bức chân dung của Armado Dippet trên đầu Dumbledore. Harry tự dưng cảm thấy nhỏ bé một cách kỳ lạ, tựa hồ như nó đã co ngắn lại từ khi nó bước vào phòng. Khi nó không thể chịu được nữa, nó nói, “Thưa giáo sư Dumbledore, con thực sự xin lỗi. Con đã có thể làm hơn thế… Con đã có thể nhận ra rằng thày sẽ không đề nghị con làm việc này nếu nó không thực sự quan trọng.”
“Cám ơn con vì đã nói vậy, Harry,” Dumbledore nói lặng lẽ. “Ta hy vọng rằng con sẽ đặt nhiệm vụ này lên hàng đầu từ lúc này được không? Sẽ có ít thứ trong lần gặp sau tối nay trừ khi chúng ta có được ký ức đó.”
“Con sẽ làm thưa thày, con sẽ lấy nó từ ông ấy,” nó nói nghiêm túc.
“Thế chúng ta không nói gì về điều này nữa nhé,” Dumbledore nói ân cần hơn, “để tiếp tục những gì chúng ta đã dừng lại. Con có nhớ mình dừng ở đâu không?”
“Có thưa thày,” Harry nói nhanh. “Voldemort đã giết cha và ông hắn và làm cho nó có vẻ như là do chú Morfin của hắn làm. Rồi hắn trở lại Hogwarts và hắn hỏi… hắn đã hỏi giáo sư Slughorn về Horcruxes,” nó lầm bầm một cách bẽn lẽn.
“Tốt lắm,” Dumbledore nói. “Bây giờ, con sẽ nhớ, ta hy vọng, rằng ta đã nói với con ngay thời gian đầu của những buổi học này rằng chúng ta sẽ phải đi vào lĩnh vực của sự dò xét và suy đoán.”
“Vâng thưa thày.”
“Nên đến lúc này, ta hy vọng rằng con sẽ đồng ý, rằng ta đã chỉ cho con thấy những nguồn thông tin rất chính xác cho những suy luận của ta về những gì Voldemort đã làm dưới tuổi 17 của hắn.”
Harry gật đầu.
“Nhưng bây giờ, Harry,” Dumbledore nói, “bây giờ mọi thứ đã tối tăm và kỳ lạ hơn. Nếu như khó có thể tìm những chứng cứ về đứa bé Riddle, thì việc tìm ra những người vẫn còn nhớ về người đàn ông Voldemort là gần như không thể. Thực ra, ta ngờ rằng có khả năng có một linh hồn còn sống, bên cạnh hắn, người có thể cho ta một cái nhìn tổng quát về cuộc sống của hắn sau khi hắn rời Hogwarts. Tuy nhiên, ta có hai ký ức cuối cùng mà ta muốn cho con xem.” Dumbledore chỉ vào hai chai thuỷ tinh nhỏ sáng loáng ở bên cạnh cái Tưởng Ký. “Ta sẽ rất vui khi có ý kiến của con về những kết luận mà ta có từ đó có vẻ đúng hay không.”
Cái ý tưởng rằng Dumbledore coi trọng ý kiến của nó cao như vậy càng làm cho Harry thêm xấu hổ rằng nó đã không hoàn thành nhiệm vụ lấy ra ký ức Horcrux, và nó nhấp nhổm vẻ có lỗi trong ghế của mình khi Dumbledore giơ cái chai thứ nhất trong hai cái lên ánh sáng và kiểm tra nó.
“Ta hy vọng rằng con sẽ không chán nản về việc nhào vào ký ức của người khác, vì đây sẽ là những hồi ức khá gây tò mò, hai cái này,” ông nói. “Cái đầu tiên đến từ một con gia tinh rất già tên là Hokey. Trước khi chúng ta xem những gì Hokey chứng kiến, ta phải thuật lại nhanh chóng về Voldemort đã rời Hogwarts như thế nào.
“Nó lên năm thứ bảy của khoá học với, như con đã có thể nghĩ đến, những điểm cao nhất trong tất cả những bài thi nó đã làm. Xung quanh nó, những đứa bạn cùng lớp đều đã quyết định về công việc họ sẽ làm khi họ rời Hogwarts. Gần như tất cả mọi người đều trông đợi những thứ tuyệt vời từ Tom Riddle, Huynh trưởng, Đứng đầu nhóm con trai, người thắng cuộc của Giải thưởng dành cho những Giúp ích Đặc biệt cho trường. Ta biết rằng một vài giáo viên, Giáo sư Slughorn ở trong đó, gợi ý là nó nên gia nhập Bộ Pháp Thuật, đề nghị có những buổi hẹn gặp, đưa nó vào trong những mối liên hệ có lợi. Nó từ chối tất cả những lời đề nghị, Voldemort đã làm việc ở quán Borgin và Burkes.”
“Ở Borgin và Burkes ý ạ?” Harry lặp lại, bất ngờ.
“Ở Borgin và Burkes,” Dumbledore nhắc lại nhẹ nhàng. “Ta nghĩ rằng con sẽ thấy những điều thích thú đã lôi cuốn nó khi con vào ký ức của Hokey. Nhưng đây không phải là lựa chọn đầu tiên về nghề nghiệp của chúa tể Voldemort. Khó có ai có thể biết về nó – ta đã là một trong một số những người mà vị hiệu trưởng hồi đó tin tưởng – nhưng Voldemort đầu tiên đã đến Giáo sư Dippet và hỏi xem nó có thể ở lại Hogwarts để làm một giáo viên được không.”
“Hắn muốn ở lại đây à? Tại sao chứ?” Harry hỏi, thậm chí còn bất ngờ hơn nữa.
“Ta tin rằng nó có vài lý do, mặc dù nó chẳng nói cái nào cho Giáo sư Dippet nghe cả,” Dumbledore nói. “Đầu tiên, và rất quan trọng, Voldemort đã, ta tin vậy, gắn bó với ngôi trường này hơn cả nó gắn bó với một người. Hogwarts đã là nơi nó hạnh phúc nhất; nơi đầu tiên và duy nhất nó cảm thấy như ở nhà.”
Harry hơi thiếu tự nhiên khi nghe những lời này, vì đó cũng là chính xác những gì nó cảm thấy về Hogwarts.
“Thứ hai, lâu đài là một thành trì của những phép thuật cổ xưa. Không thể cãi được rằng Voldemort đã xuyên thủng nhiều bí mật của nó hơn phần lớn học sinh khác đi qua nơi này, nhưng nó có thể cảm thấy rằng vẫn còn những điều kỳ lạ để khám phá, chứa đựng những phép thuật chờ được biết đến.
“Và thứ ba, là một giáo viên, nó có thể có một quyền lực và tầm ảnh hưởng lớn đến những phù thuỷ nhỏ tuổi. Có thể nó đã lấy cái tư tưởng đó từ Giáo sư Slughorn, người thày giáo mà nó đã có quan hệ mật thiết nhất, người đã chỉ ra vai trò của một người giáo viên có thể gây ảnh hưởng thế nào. Ta không thể tưởng tượng ra một ví dụ nào mà Voldemort đã cố gắng dành toàn bộ thời gian còn lại của cuộc đời nó tại Hogwarts, nhưng ta nghĩ rằng nó đã xem đó như một nơi tuyển dụng, và một nơi nó có thể bắt đầu xây dựng cho nó một đội quân.”
“Nhưng hắn đã không được nhận, phải không thày?”
“Không, nó không được. Giáo sư Dippet nói với nó rằng nó quá trẻ ở tuổi 18, nhưng mời nó quay lại sau một vài năm, nếu nó vẫn còn muốn giảng dạy.”
“Thế hắn cảm thấy gì về điều đó thưa thày?” Harry hỏi, lưỡng lự. “Bực bội cực kỳ,” Dumbledore nói. “Ta đã khuyên Armando từ chối lời đề nghị – ta đã không có những lý do mà ta cho con biết, vì Giáo sư Dippet đã rất ưa thích Voldemort và tin rằng nó trung thực. Nhưng ta không muốn chúa tể Voldemort ở lại trường, và đặc biệt không ở một vị trí có quyền lực.”
“Thế hắn muốn làm việc gì thưa thày? Hắn muốn dạy môn nào thế?”
Mặc dù vậy, Harry đã biết câu trả lời thậm chí trước khi thày Dumbledore nói ra.
“Phòng chống Nghệ Thuật Hắc Ám. Nó đang được dạy trong lúc đó bởi một giáo sư đã già tên là Galatea Merrythought, người đã làm việc ở Hogwarts gần 50 năm.
“Vậy Voldemort rời đến tiệm Borgin và Burkes, và tất cả những giáo viên ngưỡng mộ nó đều cho rằng thật là phí hoài, một phù thuỷ trẻ tuổi tài năng như vậy, làm việc trong một cửa hiệu. Tuy nhiên, Voldemort không chỉ đơn thuần là một nhân viên. Lịch sự và đẹp trai và thông minh, nó đã nhanh chóng được giao những công việc đặc thù mà chỉ có ở những nơi như Borgin và Burkes, mà đặc trưng là, như con biết đấy Harry, những vật dụng với những tính chất không bình thường và đầy năng lực. Voldemort đã được gửi đi để thuyết phục người ta cho đi những đồ quý giá để được bán trong tiệm, và nó đã, trong mọi khía cạnh, thực sự làm tốt công việc một cách thiếu bình thường.”
“Con cược rằng hắn đã như vậy,” Harry nói, không thể kìm mình lại được.
“Ừ, rất đúng,” Dumbledore nói, với một nụ cười kín đáo. “Và giờ đã đến lúc nghe câu chuyện từ con gia tinh Hokey, người đã làm việc cho một phù thuỷ già nua và rất giàu có tên là Hepzibah Smith.”
Dumbledore gõ lên cái chai bằng đũa thần của mình, cái nút chai bật ra, và ông đổ phần ký ức quay tròn vào trong cái Tưởng ký, ông nói trong khi đang làm, “Con đi trước đi Harry.”
Harry đứng dậy và một lần nữa cúi đầu xuống cái hợp chất bàng bạc lăn tăn trong cái chậu đá cho đến khi mặt của nó chạm vào đó. Nó đổ nhào qua một khoảng không đen thui và rơi xuống một phòng khách trước một bà già vô cùng béo, mang một bộ tóc giả màu nghệ tinh xảo và một cái áo choàng màu hồng tuyệt vời chùm kín người bà, khiến cho bà trông như một cái bánh đang chảy ra. Bà đang nhìn mình trong một cái gương dát ngọc nhỏ và đánh phấn hồng lên trên hai gò má đã đỏ sẵn của bà với một lượng lớn, trong khi con gia tinh nhỏ bé nhất và già cỗi nhất mà Harry từng thấy đưa đôi chân gày gò vào trong đôi dép sa tanh chật chội.
“Nhanh lên Hokey!” bà Hepzibah nói hống hách. “Nó nói nó sẽ đến vào 4 giờ, chỉ còn vài phút nữa thôi và nó thì chưa bao giờ đến muộn.”
Bà gấp cái hộp phấn của bà lại khi con gia tinh đứng thẳng dậy. Đỉnh đầu của con gia tinh hơi chạm vào chỗ ngồi trong cái ghế của bà Hepzibah, và làn da mỏng dính của nó treo trên bộ xương như thể một mảnh vải lanh cứng mà nó mặc như một cái áo chùm.
“Trông ta thế nào?” Hepzibah hỏi, quay quay cái đầu để chiêm ngưỡng những góc khác nhau trên bộ mặt của bà ở trong gương. “Rất đẹp thưa bà chủ,” Hokey kêu rít lên.
Harry có thể cho rằng đó đã là bổn phận của Hokey phải nói dối qua kẽ răng của mình khi được hỏi những câu hỏi như vậy, vì Hepzibah Smith trông còn lâu mới đến được “đẹp” theo ý kiến của nó.
Cái chuông cửa leng keng kêu lên và cả bà chủ cùng gia tinh bật nhổm dậy.
“Nhanh lên, nhanh lên, nó đến rồi, Hokey!” Hepzibah cuống cuồng và con gia tinh chạy vội vã ra khỏi căn phòng chật chội toàn những vật dụng mà rất là khó có ai có thể lách qua mà không làm rơi ít nhất một tá thứ: Có những cái tủ chứa toàn những chiếc hộp bé nhỏ bóng loáng, những cái kệ đầu những quyển sách nạm vàng, những cái giá có những quả thiên cầu, và rất nhiều những cây hoa bay bướm trồng trong những bình chứa bằng đồng. Thực ra, căn phòng trông giống như một sự kết hợp giữa một cửa hiệu đồ cổ ma thuật và một nhà kính.
Con gia tinh trở lại trong vài phút và đi theo nó là một người đàn ông cao lớn mà Harry không hề có một khó khăn gì khi nhận ra đó là Voldemort. Hắn chỉ đơn giản mặc một bộ lễ phục màu đen; tóc của hắn đã dài hơn khi hắn còn ở trong trường và gò má của hắn đã gầy gò hơn, nhưng tất cả những thứ này rất hợp với hắn; hắn trông đẹp trai hơn bao giờ hết. Hắn lách qua căn phòng chật chội với cái vẻ đã đến đây rất nhiều lần rồi và cúi xuống thấp trước bàn tay mập mạp bé nhỏ của bà Hepzibah, hôn nhẹ lên đó bằng môi của mình.
“Tôi mang cho bà những bông hoa này,” hắn nói nhẹ nhàng, biến ra một chùm hoa hồng từ không trung.
“Cậu bé tinh nghịch này, cậu đừng có làm thế chứ!” bà già Hepzibah ré lên, mặc dù Harry để ý rằng bà đã có một cái lọ rỗng sẵn sàng ở cái bàn nhỏ gần nhất. “Cậu đang làm hư bà già này đấy hả, Tom… ngồi xuống, ngồi xuống đi… Hokey đâu rồi? À…” Con gia tinh đã vụt vào trong phòng mang theo một đĩa bánh nhỏ, mà nó đang đặt ở dưới đầu gối bà chủ.
“Tự nhiên đi Tom,” Hepzibah nói, “ta biết cậu thích bánh của ta. Nào, cậu có khoẻ không? Cậu trông rất tái đấy. Họ đã bắt cậu làm việc quá sức ở cái cửa hiệu đó hả, ta đã nói đến hàng trăm lần rồi…”
Voldemort cười một cách máy móc và bà Hepzibah cười điệu đà.
“Thế, mục đích của cậu đến đây lần này là gì?” bà hỏi, chớp chớp đôi mi mắt.
“Ông Burke muốn có một đề xuất nữa về cái áo giáp làm bởi yêu tinh,” Voldemort nói. “Năm trăm Galleon, ông nghĩ rằng đó thực sự công bằng…”
“Nào nào, đừng có nhanh quá thế chứ, nếu không ta lại nghĩ là cậu đến đây chỉ vì trang sức của ta thôi!” bà Hepzibah chề môi.
“Tôi được giao nhiệm vụ đến đây chỉ vì cái đó thôi,” Voldemort nói khẽ. “Tôi chỉ là một nhân viên quèn thưa bà, người mà sẽ phải làm những gì ông bảo. Ông Burke muốn tôi hỏi xem…”
“Ôi dào, cái ông Burke này!” Hepzibah nói, vẫy bàn tay nhỏ bé của bà. “Ta có cái này cho cậu xem mà ta chưa bao giờ chỉ cho ông Burke thấy! Cậu giữ bí mật nhé Tom? Cậu có hứa cậu không nói cho ông Burke biết ta có nó được không? Ông ta sẽ không cho ta yên nếu như ông biết ta chỉ cho cậu cái này đâu, và ta sẽ không bán, không phải cho Burke, không cho ai hết! Nhưng còn cậu, Tom, cậu sẽ rất trân trọng nó vì lịch sử của bản thân nó, không phải là vì cậu có thể có nó với bao nhiêu Galleon.” “Tôi sẽ rất hân hạnh được xem thứ mà bà Hepzibah cho tôi xem” Voldemort nói khẽ, và bà Hepzibah khúc khích cười rất ngây thơ.
“Ta đã bảo Hokey mang đến đây cho ta… Hokey, mày đâu rồi? Ta muốn cho ông Riddle đây xem tài sản quý nhất của tao… Thực ra thì, mang cả hai ra đây, trong khi mày còn ở đấy…”
“Đây thưa bà,” con gia tinh rít lên, và Harry nhìn thấy hai cái hộp da, cái này đặt lên trên cái kia, chuyển động qua căn phòng dường như chính bằng khả năng đặc biệt của chúng, mặc dù nó biết là con gia tinh bé tí xíu đang đặt chúng lên trên đầu mình khi nó tìm đường đi qua những chiếc bàn, nệm và ghế để chân.
“Bây giờ,” bà Hepzibah nói vui vẻ, lấy những cái hộp từ con gia tinh, đặt lên đùi mình, và chuẩn bị mở cái ở trên ra, “Ta nghĩ cậu sẽ thích cái này, Tom… ồ, nếu như gia đình ta mà biết được ta cho cậu xem nhỉ… họ không thể chờ để được đụng tới cái này đâu!”
Bà mở cái nắp hộp. Harry nhướn lên trước một chút để nhìn rõ hơn và thấy một cái gì đó giống một cái cốc vàng nhỏ với hai cái quai được chạm trổ tinh vi.
“Ta phân vân tự hỏi cậu có biết đây là cái gì không Tom? Cầm nó lên đi, xem cho kỹ vào!” bà Hepzibah thì thầm, và Voldemort giơ bàn tay dài của hắn ra và cầm lấy cái cốc bằng một bên quai ra khỏi tổ ấm bọc bằng lụa của nó. Harry nghĩ rằng nó đã nhìn thấy một tia sáng đỏ loé lên trong đôi mắt đen của hắn. Cảm giác ham muốn của hắn đã gần như tương xứng một cách kỳ lạ với vẻ mặt của bà Hepzibah, trừ việc đôi mắt nhỏ tí của bà đang dán vào nét đẹp trai của Voldemort.
“Một con lửng ở đây,” Voldemort lầm bầm, xem xét nét chạm trổ trên chiếc cốc. “Vậy đây là…?”
“Của Helga Hufflepuff, giống như cậu đã biết rõ, cậu bé thông minh!” Hepzibah nói, vươn lên trước với một tiếng cọt kẹt rõ to của áo nịt và sự thực là bà đang véo đôi má gầy gò của hắn. Ta chưa nói với cậu là ta có họ hàng xa phải không? Cái này đã được truyền lại trong nhà ta từ nhiều năm rồi. Rất đẹp phải không? Và tất cả những quyền năng mà nó thể hiện được, nhưng ta đã không thử tìm hiểu hết chúng, ta chỉ giữ nó an toàn và đẹp đẽ ở đây thôi…”
Bà tóm lấy cái cốc từ ngón tay trỏ dài của Voldemort và đưa nó nhẹ nhàng trở về trong hộp, rất tập trung vào việc đặt nó vững vàng vào vị trí và để ý cái bóng hiện ra trên mặt Voldemort lúc cái cốc được đưa đi.
“Bây giờ thì,” bà Hapzibah nói vui vẻ, “Hokey đâu rồi? Ồ, mày đây rồi… đem cái này đi Hokey.”
Con gia tinh tuân lệnh cầm lấy cái hộp cốc, và Hepzibah quay sang cái hộp đẹp hơn nhiều trên đùi bà ta.
“Ta nghĩ cậu sẽ còn thích cái này hơn nữa, Tom à,” bà thì thầm. “Cúi xuống tí nữa đi cậu bé, để có thể nhìn thấy… Tất nhiên rồi, Burke biết ta có cái này, ta mua nó từ ông ta, và dám nói rằng ông ta rất muốn được có lại nó khi ta rời khỏi…”
Bà tháo cái móc bạc chạm đồng ra và mở cái hộp. Ở đó trên một lớp nhung đỏ thẫm là một cái mề đay nặng bằng vàng.
Voldemort giơ tay ra, không cần mời, và giơ nó lên ánh sáng, nhìn chằm chằm vào nó. “Dấu hiệu của Slytherin,” hắn nói khẽ, khi ánh sáng làm hiện rõ một chữ S tinh vi, cách điệu hình con rắn.
“Đúng đấy!” Hepzibah nói, hài lòng, và rõ ràng là, với cái nhìn của Voldemort vào cái mề đay, bị sững sờ. “Ta đã phải trả giá bằng một cánh tay và một cái chân cho nó, nhưng ta không thể bỏ lỡ được, một vật báu thực sự như thế, ta phải có nó trong bộ sưu tập của ta. Burke đã mua nó, rõ ràng là, từ một người đàn bà rách rưới có vẻ như đã ăn trộm nó ở đâu, mà đã không hề biết được giá trị thực của nó…”
Lần này không chệch đi đâu được: mắt của Voldemort đã lấp láy đỏ khi nghe những lời đó, và Harry có thể nhìn thấy những đốt ngón tay của hắn trắng bệch ra ở trên cái dây đeo mề đay.
“… Ta dám nói rằng Burke đã trả rất rẻ cho cái này nhưng nó lại ở đây… Rất đẹp phải không? Và một lần nữa, có rất nhiều năng lực ẩn chứa trong này, mặc dầu ta chỉ giữ nó an toàn ở đây thôi…”
Bà vươn ra để lấy lại cái mề đay. Lúc đó, Harry nghĩ rằng Voldemort sẽ không bỏ tay ra khỏi nó, nhưng rồi nó trượt khỏi tay Voldemort và trở lại vào trong cái nệm nhung đỏ.
“Được rồi, Tom, được chưa, ta hy vọng cậu thích cái đó!”
Bà nhìn hoàn toàn vào mặt của hắn và không phải lần đầu tiên, Harry thấy nụ cười vụng về ngu xuẩn của bà ta.
“Cậu có sao không thế cậu bé?”
“Ồ,” Voldemort nói khẽ. “Vâng, tôi rất tốt…”
“Ta nghĩ rằng… nhưng đó chỉ là một sự lừa dối của ánh sáng mà thôi, ta cho là vậy…” Hepzibah nói, trông có vẻ suy nhược, và Harry ngờ rằng bà cũng đã nhìn thấy cái tia sáng đỏ lập loà từ trong mắt của Voldemort. “Đây, Hokey, đem những cái này đi và khoá lại nhé… Những bùa chú như thường lệ…”
“Đến lúc phải đi rồi, Harry,” thày Dumbledore khẽ nói, và khi con gia tinh lóc cóc cầm mấy cái hộp chạy đi, Dumbledore lại nắm lấy Harry một lần nữa ở trên khuỷu tay và họ cùng bay lên qua sự lãng quên và trở lại văn phòng thày Dumbledore.
“Hepzibah Smith đã chết hai ngày sau cái cảnh vừa rồi,” Dumbledore nói, trở về ghế ngồi và ra hiệu rằng Harry cũng làm như vậy. “Con gia tinh Hokey đã bị kết án bởi Bộ vì tội đầu độc cốc ca cao buổi tối của bà chủ một cách không cố ý.” “Không thể như thế được!” Harry tức giận.
“Ta thấy là chúng ta cùng có một suy nghĩ,” Dumbledore nói. “Tất nhiên rồi, có rất nhiều sự tương đồng giữa cái chết này và cái chết của nhà Riddle. Trong cả hai trường hợp, một ai đó đã bị đổ tội, một ai đó đã có một ký ức rất rõ ràng là đã gây ra tội ác…” “Hokey đã tự thú ạ?”
“Nó đã nhớ lại rằng đã bỏ một cái gì đó vào cốc ca cao của bà chủ mà hoá ra lại không phải là đường, mà là một chất độc chết người ít được biết đến,” Dumbledore nói. “Người ta đã kết luận là nó không muốn làm vậy, mà chỉ vì già nua và lầm lẫn…” “Voldemort đã sửa đổi ký ức của nó, giống như hắn đã làm với ông Morfin!” “Đúng, đó cũng là kết luận của ta,” Dumbledore nói. “Và, giống hệt như trường hợp của Morfin, Bộ đã hiển nhiên nghi ngờ Hokey…”
“… vì nó chỉ là con gia tinh,” Harry nói. Nó đã hiếm khi cảm thấy thông cảm hơn với cái tổ chức SPEW mà Hermione là thành lập. “Rất chính xác,” Dumbledore nói. “Nó đã già rồi, và nó đã công nhận việc dính líu đến cốc nước, và không một ai trong Bộ muốn nghiên cứu thêm trường hợp này. Giống như trong trường hợp của Morfin, vào thời gian mà ta gặp nó và cố gắng lấy được trí nhớ này từ nó, cuộc sống của nó đã gần như kết thúc… nhưng ký ức của nó, tất nhiên rồi, đã chẳng chứng minh một điều gì khác ngoài việc Voldemort biết về sự tồn tại của cái cốc và cái mề đay.
“Vào thời gian Hokey bị kết án, gia đình Hepzibah đã nhận ra rằng hai tài sản quý nhất đã mất. Phải mất một thời gian lâu họ mới nhận ra điều đó, vì bà ta đã có quá nhiều nơi cất giấu, luôn bảo vệ bộ sưu tập của bà trong sự ganh tị. Nhưng khi họ có thể chắc chắn không chút nghi ngờ nào rằng cái cốc và mề đay đã biến mất, người nhân viên làm việc tại cửa hiệu Borgin và Burkes, người đàn ông trẻ đã gặp Hepzibah rất thường xuyên và đã bỏ bùa bà rất khéo léo, đã xin thôi việc và biến mất. Những người thuê nó không hề biết nó biến đi đâu; họ cũng bất ngờ như những người khác vì sự mất tích này. Và đó là lần cuối mà người ta còn nghe thấy hoặc nhìn thấy Tom Riddle trong một thời gian rất dài.
“Giờ,” Dumbledore nói, “nếu như con không phiền, Harry, ta muốn dừng lại một lần nữa để cho con chú ý vào một số điểm trong câu chuyện của chúng ta. Voldemort đã thực hiện thêm một tội ác nữa, có phải là vụ đầu tiên sau khi nó giết nhà Riddle không, ta không được biết, nhưng ta nghĩ có lẽ vậy. Lần này, như con sẽ thấy ngay, là nó không giết vì trả thù mà vì lợi ích. Nó muốn có cái chiến lợi phẩm kỳ diệu mà người đàn bà tội nghiệp già nua ngu ngốc kia đã cho nó xem. Giống như hồi nó đã ăn cướp từ những đứa trẻ khác trong trại mồ côi, giống như nó đã ăn trộm cái nhẫn của chú Morfin của nó, nên nó đã chạy trốn với chiếc cốc và cái mề đay của Hepzibah.” “Nhưng,” Harry nói, bực tức, “có vẻ như là điên rồ ý… Bất chấp mọi thứ, vứt đi công việc của hắn, chỉ vì những thứ đó…”
“Điên rồ với con, có thể lắm, nhưng không đối với Voldemort,” Dumbledore nói. “Ta hy vọng rằng con sẽ hiểu trong thời gian tới chính xác những vật dụng đó có ý nghĩa với nó thế nào, Harry, nhưng con cũng phải công nhận rằng thật không khó gì để suy ra rằng nó đã xem cái mề đay, ít ra là, đúng ra phải là của nó.” “Cái mề đay thì có thể,” Harry nói, “nhưng tại sao lại lấy cả cái cốc nữa?”
“Nó đã thuộc về một trong những người sáng lập ra Hogwarts,” Dumbledore nói. “Ta nghĩ là nó vẫn còn cảm thấy rất gắn bó với trường và nó không thể cưỡng lại một vật dụng rất quan trọng trong lịch sử của trường như vậy. Cũng có những nguyên nhân khác nữa, ta nghĩ vậy… Ta hy vọng rằng sẽ có thể cho con thấy những điều đó vào thời gian hợp lý.
“Và giờ là ký ức cuối cùng ta muốn cho con xem, ít ra cho đến khi con cố gắng lấy được ký ức của Giáo sư Slughorn về cho chúng ta. Mười năm dài đã trôi qua từ ký ức của Hokey cho đến cái này, mười năm mà chúng ta chỉ có thể đoán xem Chúa tể Voldemort đang làm gì…” Harry lại nhổm dậy một lần nữa khi thày Dumbledore đổ hết ký ức cuối cùng vào trong cái Tưởng Ký.
“Ký ức của ai đấy ạ?” nó hỏi. “Của ta,” Dumbledore trả lời.
Và Harry nhào xuống sau thày Dumbledore qua những khối bạc rung rinh, đáp xuống đúng cái văn phòng mà nó vừa rời khỏi. Có con Fawkes đang ngủ thoải mái trên cái nhành cây của nó, và có cả ở đằng sau cái bàn thày Dumbledore, trông rất giống với thày Dumbledore đang ở bên cạnh Harry, mặc dù hai cánh tay vẫn còn nguyên vẹn không bị thương và mặt của thày, có vẻ vậy, ít nếp nhăn hơn. Điều khác nhau duy nhất giữa văn phòng hiện tại và phòng ở đây là lúc đó đang có tuyết; nhưng đốm tuyết xanh xanh đang rơi qua khung cửa sổ trong bóng tôi và đóng đầy ở rìa phía ngoài.
Thày Dumbledore trẻ có vẻ đang chờ cái gì đó, và chắc chắn vậy, một lúc sau khi họ đến, có một tiếng gõ cửa và ông nói, “Vào đi.”
Harry thở ra một cái nặng nhọc. Voldemort đã vào phòng. Những nét mặt của hắn không phải là những gì giống như Harry đã nhìn thấy chồi lên từ cái vạc đá lớn gần hai năm về trước: Hắn không hề giống hắn, đôi mắt chưa đỏ, bộ mặt chưa giống như đeo mặt nạ, và tuy vậy hắn không còn là Tom Riddle đẹp trai nữa. Điều đó tựa hồ như những vẻ đẹp của hắn đã bị cháy và mờ đi; chúng đã như bị đóng sáp và méo mó một cách kỳ lạ, và giờ phần lòng trắng của mắt đã vĩnh viễn trông như máu, mặc dù đồng tử vẫn chưa co chặt lại như Harry biết rằng chúng sẽ trở nên như vậy. Hắn đang mặc một cái áo choàng dài, và mặt của hắn cũng tím tái như những bông tuyết trên vai hắn. Thày Dumbledore ngồi đằng sau bàn không hề có một biểu hiện bất ngờ nào. Rõ ràng là cuộc gặp này đã được hẹn trước.
“Chào buổi tối, Tom,” thày Dumbledore nói rõ ràng. “Con không ngồi xuống à?” “Cám ơn,” Voldemort nói, và hắn ngồi xuống cái ghế mà Dumbledore chỉ vào – chính là cái ghế mà, theo cái vẻ của nó, Harry đã ngồi ở hiện tại. “Con nghe rằng thày đã lên làm hiệu trưởng,” hắn nói, và giọng của hắn hơi cao hơn và lạnh lùng hơn trước đó. “Một sự lựa chọn rất đáng đấy.”
“Ta rất vui con chấp nhận điều này,” Dumbledore cười. “Ta mời con một đồ uống nhé?”
“Điều đó sẽ được hoan nghênh đấy,” Voldemort nói. “Con đã đi một chặng đường dài.”
Dumbledore đứng dậy và quay sang cái tủ mà ông để cái Tưởng Ký trong hiện tại, nhưng lúc đó lại chứa đầy những lọ. Đưa cho Voldemort một cốc rượu và tự rót cho mình một cốc, ông trở lại ghế ngồi của mình. “Thế, Tom… ta có được hân hạnh gì nào?”
Voldemort không trả lời ngay, mà chỉ nhấp nháp cốc rượu của mình.
“Người ta không gọi con là ‘Tom’ nữa,” hắn nói. “Những ngày gần đây, con được biết đến bởi…”
“Ta biết con được biết đến bởi cái tên gì,” Dumbledore nói, cười thoải mái. “Nhưng với ta, ta sợ rằng, con vẫn luôn luôn là Tom Riddle. Đó là một trong những điều khó chịu của những giáo viên già cỗi. Ta sợ rằng họ không thể quên được những sự bắt đầu đầy nhiệt huyết dưới trách nhiệm của họ.”
Ông đưa cốc lên như thể đang chúc mừng Voldemort, lúc này mặt vẫn không tỏ một thái độ nào cả. Tuy vậy, Harry cảm thấy không khí trong phòng thay đổi một cách khó tả: Việc từ chối sử dụng cái tên mà Voldemort đã chọn của Dumbledore đã là một sự từ chối cho Voldemort cái quyền được nêu những điều khoản của cuộc gặp, và Harry có thể nói rằng Voldemort cũng đã hiểu như vậy.
“Con rất bất ngờ rằng thày đã ở lại đây lâu như vậy,” Voldemort nói sau một thời gian ngắn. “Con luôn luôn tự hỏi rằng một phù thuỷ như thày tại sao lại không bao giờ muốn rời trường.”
“Ừ,” Dumbledore nói, vẫn tiếp tục cười, “với một phù thuỷ như ta, chẳng có gì quan trọng hơn việc tiếp tục dạy những kỹ năng cổ xưa, giúp mài giũa những tâm hồn trẻ tuổi. Nếu như ta nhớ chính xác, con một lần cũng đã thích thú với việc dạy học.” “Con vẫn còn thấy điều đó,” Voldemort nói. “Con chỉ đơn thuần không hiểu tại sao thày… người mà rất thường xuyên được hỏi ý kiến từ Bộ, và người đã hai lần, con nghĩ vậy, được đề nghị một vị trí chủ chốt của Bộ…”
“Thực ra là ba lần tính cả lần cuối cùng nữa,” Dumbledore nói. “Nhưng mà Bộ chưa bao giờ hấp dẫn ta dưới danh nghĩa một công việc. Một lần nữa, một số thứ chúng ta có chung suy nghĩ, ta cho là vậy.”
Voldemort cúi đầu xuống, không cười, và uống thêm một ngụm rượu nữa. Dumbledore không phá vỡ sự im lặng đang tràn ra giữa họ trong lúc này, mà chờ đợi, với một sự mong đợi rất bình thản, rằng Voldemort sẽ nói trước.
“Con đã trở lại,” hắn nói, sau một lúc, “lâu hơn, có thể vậy, so với Giáo sư Dippet có thể tưởng tượng… nhưng con đã trở lại, mặc dù vậy, để đề nghị một lần nữa về điều mà thày ấy đã một lần nói với con rằng con quá trẻ để làm. Con đã tới thày để hỏi xem thày có chấp nhận cho con trở lại lâu đài, để dạy không. Con nghĩ rằng thày phải biết rằng con đã chứng kiến và thực hiện được rất nhiều thứ kể từ khi con rời nơi này. Con có thể chỉ bảo và hướng dẫn những học sinh của thày những thứ mà bọn chúng không thể có được từ những phù thuỷ khác.”
Dumbledore quan sát Voldemort từ cái đỉnh cốc rượu của mình một lúc trước khi nói. “Đúng, ta chắc chắn có biết rằng con đã chứng kiến và làm được nhiều điều kể từ khi con rời chúng ta,” ông nói khẽ. “Những lời đồn về những việc con làm đã vang đến trường cũ của con rồi đấy Tom à. Ta rất hối tiếc để tin vào một nửa trong số đó.”
Vẻ mặt của Voldemort vẫn còn dửng dưng khi hắn nói, “Sự vĩ đại gây ra lòng đố kỵ, lòng đố kỵ đem lại thù hằn, thù hằn thì sinh ra dối trá. Thày phải biết điều này chứ thày Dumbledore.”
“Con gọi nó là ‘sự vĩ đại,’ cho những gì con đã làm phải không?” Dumbledore hỏi sắc sảo.
“Chắc chắn vậy,” Voldemort nói, và mắt của hắn dường như cháy bùng lên. “Con đã thử nghiệm; con đã đẩy cái giới hạn của phép thuật ra xa hơn, có thể, hơn tất cả những gì người ta có thể làm…”
“Đối với một vài loại phép thuật,” Dumbledore chữa câu nói của hắn một cách nhẹ nhàng. “Một vài loại. Còn đối với những loại khác, con vẫn còn… tha thứ cho ta… ngu ngốc một cách đáng thương.”
Lần đầu tiên, Voldemort cười. Đó là một cái lườm đểu cáng, một thứ xấu xa, đáng sợ hơn cả một cái nhìn giận dữ.
“Một sự tranh cãi từ lâu rồi,” hắn nói êm ái. “Nhưng chẳng có gì trên thế giới này con đã từng chứng kiến có vẻ chứng minh cho câu nói nổi tiếng của thày về tình yêu mạnh hơn cả những phép thuât của con, Dumbledore ạ.” “Có thể con đã tìm sai nơi rồi đấy,” Dumbledore gợi ý.
“Hừm, vậy thì, nơi nào tốt cho con có thể bắt đầu những nghiên cứu mới của mình hơn nơi này, Hogwarts?” Voldemort nói. “Thày có cho con trở lại không? Thày có cho con chia sẻ những hiểu biết của mình với những học sinh của thày không? Con đặt bản thân mình và tài năng của mình dưới quyền của thày. Con ở dưới quyền kiểm soát của thày.”
Dumbledore nhướn lông mày. “Thế những đứa dưới quyền kiếm soát của con thì thành cái gì? Cái gì sẽ xảy ra cho những đứa mà tự gọi là – mà chỉ là tin đồn thôi phải không – những Tử Thần Thực Tử?”
Harry có thể nói Voldemort không nghĩ rằng thày Dumbledore có thể biết đến cái tên này; nó nhìn thấy ánh mắt đỏ rực của Voldemort một lần nữa và khe lỗ mũi bùng lên. “Những người bạn của con,” hắn nói, sau một thời gian im lặng, “sẽ tiếp tục mà không cần con, con chắc chắn là vậy.”
“Ta rất vui khi nghe thấy con gọi họ là bạn,” Dumbledore nói. “Ta đã có cảm giác rằng họ giống như những nô lệ phục tùng mệnh lệnh hơn.” “Thày đã sai rồi,” Voldermort nói.
“Thế thì nếu như ta đến Quán Đầu Heo ngày tối nay, ta sẽ không thể tìm thấy họ phải không – Nott, Rosier, Muldber, Dolohov – đang chờ con quay lại? Những người bạn rất cống hiến, ta phải nói vậy, đi cùng con một quãng đường xa như vậy trong một đêm đầy tuyết, chỉ đơn thuần là chúc con may mắn trong khi con đang cố gắng để có một vị trí tốt trong việc dạy học.”
Không gì chối cãi được việc Dumbledore biết chi tiết về những ai hắn đi cùng đã làm cho hắn đón nhận kém vui thích hơn; mặc dù vậy, hắn hồi lại ngay lập tức. “Thày vẫn tinh tường như hồi nào, Dumbledore à.”
“Ồ không, chỉ đơn thuần là bạn của người bồi bàn thôi,” Dumbledore nói nhẹ nhàng. “Bây giờ, Tom…”
Dumbledore cất cái cốc trống rỗng của mình đi và ngồi lên ghế, đầu những ngón tay của ông đan vào nhau như một cử chỉ quen thuộc vốn có.
“Hãy nói chuyện thẳng thắn cởi mở. Tại sao con lại đến đây hôm nay, bao quanh bởi những kẻ thân tín, để đề nghị một công việc mà cả hai chúng ta đều rõ là con không muốn?”
Voldemort trông hơi bất ngờ một cách lạnh lùng. “Một công việc con không muốn ư? Ngược lại, Dumbledore, con rất muốn có nó đấy.”
“Ồ, con muốn quay lại Hogwarts, nhưng con không muốn dạy học như hồi con còn 18 tuổi. Thế mục đích của con là gì thế Tom? Tại sao con lại không nói thẳng lời đề nghị ra ngay lúc này?”
Voldemort rít lên. “Nếu thày không muốn cho con một công việc…”
“Tất nhiên ta không muốn,” Dumbledore nói. “Và ta không nghĩ rằng vào lúc này con cho rằng ta muốn. Tuy vậy, con đã đến đây, con đã hỏi, con phải có một mục đích.” Voldemort đứng dậy. Hắn trông không hề giống Tom Riddle hơn bất cứ lúc nào, cả bộ dạng của nó tràn ngập tức giận. “Đó là lời cuối cùng của ông phải không?” “Đúng đấy,” Dumbledore nói, cũng đứng dậy.
“Vậy thì chúng ta không còn gì để nói với nhau nữa.”
“Không, chẳng còn gì,” Dumbledore nói, và một nỗi buồn lớn buông trên mặt của ông. “Thời gian đó đã qua đi khi ta còn có thể làm con hoảng sợ bởi một cái tủ áo bị cháy và bắt con phải trả giá những tội ác của mình. Nhưng ta mong rằng ta đã có thể, Tom… ta mong rằng ta đã có thể…”
Trong một giây, Harry đã đến ngưỡng cửa của việc hét lên một lời cảnh báo vô giá trị: Nó đã chắc chắn rằng tay của Voldemort đã lần đến cái túi của hắn và trong đó có đũa thần; nhưng khoảnh khắc đã qua, Voldemort đã quay đi, cánh cửa đã đóng lại, và hắn đã rời khỏi đây.
Harry thấy tay của Dumbledore nắm chặt cánh tay nó một lần nữa và vài giây sau, họ lại đứng cùng nhau gần như cùng một vị trí, nhưng mà lần này thì không có tuyết đóng ở trên mép cửa sổ, và tay của Dumbledore lại đen thui và trông như chết.
“Tại sao chứ?” Harry nói ngay, nhìn vào mặt thày Dumbledore. “Tại sao hắn lại quay lại? Thày có bao giờ biết không?”
“Ta có những ý tưởng,” Dumbledore nói, “nhưng không còn gì khác.” “Ý tưởng gì thưa thày?”
“Ta sẽ nói cho con, Harry, khi con lấy được ký ức của Giáo sư Slughorn,” Dumbledore nói.
“Khi con có được mẩu cuối cùng đó của bức tranh ghép hình, mọi thứ sẽ, như ta hy vọng, rõ ràng cả thôi… cho cả hai chúng ta.”
Harry vẫn còn sôi sục tò mò và mặc dù thày Dumbledore đã đi đến cửa và giữ cánh cửa mở ra, nó vẫn còn đứng trơ ra đấy.
“Thế hắn có theo đuổi công việc Phòng Chống Nghệ Thuật Hắc Ám nữa không thưa thày? Hắn đã không nói…”
“Ồ, hắn rõ ràng là muốn công việc Phòng Chống Nghệ Thuật Hắc Ám,” Dumbledore nói. “Kết quả của buổi gặp ngắn ngủi của chúng ta đã chứng minh điều này. Con thấy không, chúng ta đã chưa bao giờ giữ được giáo viên Phòng Chống Nghệ Thuật Hắc Ám lâu hơn một năm kể từ khi ta từ chối vị trí của Voldemort.”