Ba giờ chiều ngày hôm sau, Harry, Ron, Fred và George đang đứng bên ngoài cái rạp cưới to đùng màu trắng trong vườn cây ăn trái, chờ khách dự đám cưới đến.
Harry đã uống một liều lớn thuốc Đa Quả dịch và giờ đây trở thành một bản sao của một anh chàng Muggle tóc đỏ sống ở làng này, Ottery St. Catchpole; Fred đã dùng phép Triệu Hồi để chôm tóc của anh ta.
Kế hoạch là giới thiệu Harry như “em họ Barny” và hy vọng số lượng bà con đông đúc của dòng họ Weasley sẽ giúp nó giấu được gốc tích.
Cả bốn đứa tụi nó đều đang nắm chặt những bản đồ chỗ ngồi để có thể đưa khách đến đúng chỗ. Một đám người phục vụ mặc áo chùng trắng đã đến trước đó một giờ, cùng với một ban nhạc mặc áo vét màu vàng kim, và tất cả những phù thủy này hiện thời đang ngồi dưới một tán cây cách đó không xa. Harry có thể nhìn thấy một làn khói lam của ống điếu tỏa lên từ chỗ đó.
Đằng sau Harry, cổng vào rạp cưới cho thấy từng hàng, từng hàng những chiếc ghế mảnh khảnh vàng chóe được sắp dọc hai bên một tấm thảm dài màu tím. Hoa vàng hoa trắng quấn quanh những cây cột chống rạp. Fred và George đã cột một chùm to tướng những bong bóng ngay chóc bên trên vị trí mà lát nữa anh Bill và chị Fleur sẽ thành chồng thành vợ. Bên ngoài, ong bướm đang lượn lờ trên đám cỏ và hàng giậu.
Harry không được thoải mái cho lắm. Anh chàng Muggle mà nó đang giả dạng hơi mập hơn nó một tí và bộ áo chùng lễ của nó vừa nóng vừa chật trong sự chói chang hết mức của một ngày hè.
“Bao giờ anh cưới vợ,” Fred vừa nói vừa kéo mạnh cái cổ áo chùng của mình, “anh sẽ chẳng hơi đâu gây phiền phức bằng mấy trò nhảm nhí này. Tụi bây cứ ăn mặc cách gì tụi bây thích, và anh sẽ ếm bùa Trói Toàn Thân lên má cho đến khi cưới hỏi xong xuôi.”
“Nói cho cùng thì sáng nay má cũng đâu đến nỗi nào,” George nói. “Chỉ khóc chút xíu về chuyện anh Percy vắng mặt, nhưng mà ai cần tới ảnh chớ? Ối mèn ơi, cố lên đồng bào, họ đến đó, coi kìa!”
Những hình dáng màu sắc rực rỡ đang hiện ra, từng bóng một, đột ngột, ở ranh giới xa xa của khu vườn. Trong một loáng, họ hình thành một đám rước bắt đầu rồng rắn kéo qua khu vườn về phía rạp cưới. Kỳ hoa và dị điểu được ếm bùa chấp chới bay trên nón các nữ phù thủy, trong khi ngọc quý lấp lánh chiếu ra từ cà vạt các pháp sư; tiếng trò chuyện râm ran hào hứng càng lúc càng to, át hết tiếng bầy ong, khi đám rước đến gần rạp.
“Quá đã, tui nghĩ tui thấy mấy cô em họ tiên nữ rồi,” George nói, nhóng cổ cò lên để nhìn rõ hơn. “Các em cần được giúp đỡ để hiểu phong tục Ăng-lê của nhà mình, tui sẽ săn sóc các ẻm…”
“Đừng hấp tấp, Ông Mất Tai ạ,” Fred nói, và phóng xẹt qua khỏi đám các bà phù thủy sồn sồn nói năng quàng quạc dẫn đầu đám rước, anh chàng nói với hai cô gái Pháp xinh xinh: “Đây… cho phép tôi để giúp quý cô.”[1] Các cô cười khích khích và cho phép anh chàng hộ tống vào bên trong.
George bị bỏ lại để đối phó với các bà sồn sồn và Ron thì lãnh nhiệm vụ đón tiếp bạn đồng sự cũ ở Bộ Pháp thuật của ông Weasley là Perkins, trong khi một cặp vợ chồng già điếc lác rơi vào phần tiếp đón của Harry.
“Wotcher,” một giọng quen thuộc vang lên khi nó lại chui ra khỏi rạp cưới và gặp cô Tonks cùng thầy Lupin đứng ở đầu hàng người nối đuôi vào rạp. Nhân dịp này cô đã đổi tóc sang màu vàng óng ả. “Anh Arthur nói với cô chú rằng cháu là đứa tóc quăn. Xin lỗi về chuyện tối hôm qua nghen,” cô nói thêm bằng giọng thì thào khi Harry dẫn họ đi giữa hai hàng ghế. “Bộ Pháp thuật hiện nay đang rất chống-người-sói và cô chú nghĩ sự hiện diện của cô chú có thể không có lợi cho cháu lắm.”
“Không sao, cháu hiểu mà,” Harry nói, cho thầy Lupin nghe nhiều hơn là cho cô Tonks. Thầy Lupin mỉm cười thoáng qua với Harry, nhưng khi hai người quay đi Harry thấy gương mặt thầy sa sầm trở lại trong nỗi khổ tâm. Harry không hiểu được sao lại thế, nhưng chẳng có thì giờ tìm hiểu sâu vấn đề. Bác Hagrid đang gây ra một sự cố đổ vỡ gì đó. Do nhầm lẫn phương hướng Fred chỉ, bác ngồi xuống, không phải cái ghế đã được củng cố và nới rộng bằng pháp thuật dành riêng cho bác ở hàng chót, mà là năm cái ghế mảnh khảnh, khiến chúng giờ đây chỉ còn là một đống to những que củi vụn vàng chóe.
Trong khi ông Weasley sửa chữa hư hại và bác Hagrid hò hét lời tạ lỗi với bất cứ ai muốn nghe, Harry vội vã trở lại cổng chào và thấy Ron đang đối diện với một pháp sư tướng tá kỳ dị nhất. Mắt hơi lé, tóc bạc dài tới vai bồng bồng như kẹo bông gòn, ông ta đội một cái nón có chóp tua rua thả đòng đưa ngay trước mũi và mặc một bộ áo chùng màu vàng lòng đỏ trứng chói lọi đến cay mắt. Một ký hiệu kỳ lạ, hơi giống một con mắt hình tam giác, sáng lấp lánh từ một sợi dây chuyền vàng ông ta đeo quanh cổ.
“Xenophilius Lovegood,” ông ta nói, đưa tay ra cho Harry, “con gái tôi và tôi sống trên đồi, gia đình Weasley tốt bụng thật là tử tế khi mời chúng tôi. Nhưng tôi nghĩ cậu quen biết cháu Luna nhà tôi chứ?” Ông nói thêm với Ron.
“Dạ, biết,” Ron nói. “Bạn ấy không đi cùng bác sao?”
“Nó còn la cà trong khu vườn nhỏ đầy quyến rũ để chào hỏi mấy con quỷ lùn, phá phách mới tuyệt làm sao! Rất ít pháp sư nhận thức được rằng chúng ta có thể học tập rất nhiều từ bọn quỷ lùn bé nhỏ khôn ranh… hay gọi cho đúng tên là Thầy Quậy Vườn.”
“Bọn quỷ lùn nhà cháu biết nhiều tiếng chửi thề ác liệt lắm,” Ron nói, “nhưng cháu nghĩ anh Fred và George dạy chúng mấy tiếng đó.”
Khi Harry dẫn một đoàn các chiến tướng vào trong rạp cưới thì Luna lật đật chạy tới.
“Chào anh Harry!” Cô bé nói.
“Ơ… tên tôi là Barry,” Harry lúng túng đáp.
“Ủa, anh cũng đổi tên nữa hả?” Cô bé nhanh nhảu hỏi.
“Làm sao em biết…?”
“Ôi, chỉ cần nhìn vẻ mặt của anh,” cô bé nói.
Giống cha mình, Luna mặc một bộ áo chùng vàng chói, lại còn được cô bé thêm vào một bông hướng dương tổ tướng cài trên mái tóc. Một khi vượt qua được sự chói lọi của tất cả những thứ đó, thì hiệu quả chung là khá dễ chịu. Ít nhất thì cũng không có củ cải đeo lòng thòng ở vành tai.
Ông Xenophilius, mải say sưa trò chuyện với một người quen, đã bỏ sót cuộc chuyện trò giữa Harry và Luna. Chào tạm biệt ông pháp sư quen xong, ông ta quay lại đứa con gái đang giơ ngón tay lên méc, “Ba, coi nè… một con quỷ lùn cắn con thiệt.”
“Hay biết chừng nào! Nước miếng quỷ lùn cực kỳ bổ,” ông Lovegood vừa nói vừa nắm lấy ngón tay Luna chìa ra và xem xét những dấu cắn rướm máu. “Luna, cưng của ba à, nếu hôm nay con cảm thấy tài năng bộc phát – có thể một cơn hứng bất ngờ muốn hát opêra hay ngâm thơ tiếng người cá – thì con đừng kiềm chế nhé! Con ắt hẳn đã được Thầy Quậy tặng cho tài năng đó!”
Ron đang đi ngang qua cha con Luna từ hướng ngược lại phát ra tiếng cười hô hố rõ to.
“Anh Ron cứ cười,” Luna bình thản nói khi Harry đưa cô bé và ông Xenophilius về chỗ ngồi của hai người, “nhưng ba em đã làm rất nhiều nghiên cứu về pháp thuật Thầy Quậy.”
“Thật hả?” Harry nói, từ nãy giờ đã quyết định là không nên khiêu khích quan điểm lập dị của Luna hay cha cô bé. “Nhưng mà em có chắc là em không muốn đắp cái gì lên vết cắn đó không?”
“Ôi, nó lành mà,” Luna nói, mút ngón tay trong điệu bộ mơ màng và ngắm Harry từ đầu đến chân. “Coi anh bảnh bao há? Em nói với ba có lẽ hầu hết khách sẽ mặc áo chùng, nhưng ba cho là đi đám cưới nên mặc màu mặt trời để lấy hên.”
Khi cô bé lướt đi theo cha mình, Ron xuất hiện với một phù thủy cao tuổi đang bám chặt cánh tay nó. Cái mũi khoằm của bà ta, cùng với hai con mắt viền đỏ và cái nón hồng mượt như lông tơ khiến bà trông giống một con hồng hạc cáu kỉnh.
“… và tóc con dài quá rồi đó, Ronald, hồi nãy bà cứ tưởng con là Ginevra. Mèn đét ơi, ông Xenophilius Lovegood ăn mặc kiểu gì vậy? Ngó ổng giống y cái trứng gà chiên ốp lết. Còn cậu là ai?” Bà quát Harry.
“À, thưa bà dì Muriel, đây là Barny em họ con.”
“Một đứa Weasley nữa hả? Dòng họ bây đẻ như quỷ lùn. Harry Potter có ở đây không? Bà đang mong gặp nó. Bà tưởng nó là bạn của con, đúng không Ronald, hay là con chỉ bốc phét?”
“Dạ không… nó không đến được…”
“Hừm. Nó kiếm cớ tránh mặt hả? Vậy thì không đến nỗi đần như hình nó in trên báo. Bà vừa hướng dẫn cô dâu cách hay nhất đội cái miện ngọc của bà,” bà nói to với Harry. “Cậu biết chớ, do yêu tinh chế tạo và lưu truyền trong gia đình bà cả mấy trăm năm. Nó là một đứa xinh đẹp, nhưng vẫn là… một con đầm. À, ừ, kiếm cho bà một chỗ ngồi, Ronald, bà một trăm lẻ bảy tuổi và không nên đứng lâu quá.”
Ron nhìn Harry một cái đầy ý nghĩa khi nó đi ngang qua và lặn tăm mất một lúc. Khi tụi nó gặp lại nhau ở cổng chào, Harry đã đưa xong cả chục người khách đến chỗ ngồi. Rạp cưới bây giờ đã gần đầy người và lần đầu tiên không còn người đứng nối đuôi bên ngoài.
“Ác mộng, bà dì Muriel ấy,” Ron vừa nói vừa lau mồ hôi trán bằng ống tay áo. “Hồi xưa bà thường đến vào lễ Giáng sinh hàng năm, sau này, may phước, bà giận vì anh Fred và anh George đặt bom phân dưới ghế của bà vào bữa tối. Ba cứ nói hoài là bà sẽ xóa tên hai anh khỏi di chúc của bà – làm như hai ảnh ham lắm vậy, cứ cái đà này rồi đây hai ảnh sẽ giàu hơn bất cứ ai trong gia đình… Chà,” nó nói thêm, mắt chớp chớp khi Hermione vội vã đi về phía tụi nó. “Trông bồ đẹp tuyệt trần!”
“Lúc nào cũng cái giọng ngạc nhiên,” Hermione nói, mặc dù cô nàng mỉm cười. Hermione mặc một chiếc áo đầm phồng màu hoa tử đinh hương rất hài hòa với đôi giày cao gót. Tóc cô nàng mượt mà óng ả. “Bà dì Muriel của bồ không đồng ý đâu, mình vừa mới gặp bà trên lầu lúc bà trao cho chị Fleur cái miện ngọc. Bả nói, ‘Ôi trời, đây là cái đứa con-nhà-Muggle hả?’ Và rồi, ‘Điệu bộ xấu xí, giò cẳng khẳng khiu.’”
“Đừng để bụng chuyện đó, bà thô lỗ với tất cả mọi người,” Ron nói.
“Đang nói về dì Muriel hả?” George hỏi khi cùng Fred từ trong rạp đi trở ra. “Ờ, bả vừa nói với anh là tai anh bị xệ. Mụ dơi già. Anh ước chi có cậu Bilius ở đây với tụi mình; ổng là một cây chọc cười ở mấy đám cưới.”
“Có phải ông ấy là người đã nhìn thấy Hung tinh rồi hăm bốn giờ sau thì chết không?” Hermione hỏi.
“À, phải, vào cuối đời ổng đâm ra dở dở ương ương,” George thừa nhận.
“Nhưng trước khi phát bệnh khùng thì ổng là linh hồn của bữa tiệc,” Fred nói. “Ổng thường uống cạn một chai rượu đế lửa, rồi chạy lên sàn nhảy, tốc vạt áo chùng lên, rồi bắt đầu kéo ra từng chùm bông từ…”
“Phải rồi, nghe là biết có duyên ghê,” Hermione nói trong khi Harry rống lên cười.
“Chưa hề cưới vợ, chẳng hiểu vì sao,” Ron nói.
“Bồ khiến mình sửng sốt đó,” Hermione nói.
Tụi nó cười nhiều đến nỗi không đứa nào để ý đến người đến trễ, một thanh niên tóc đen có cái mũi to cong vòng và chân mày rậm rì, mãi cho tới khi anh ta chìa thiệp mời cho Ron và đưa mắt nhìn Hermione, nói: “Em đẹp tuyệt zời.”
“Anh Viktor!” Hermione ré lên, và làm rớt cái bóp đầm nhỏ kết bằng hột cườm, gây ra một tiếng bịch thật to không chút tương xứng với kích thước của nó. Cô nàng đỏ mặt, vừa lụp chụp lượm lại cái bóp vừa nói: “Em không dè anh có mặt ở đây… Trời ơi… thật vui được gặp lại… anh khỏe không?”
Hai tai của Ron lại chuyển sang màu đỏ tía một phen nữa. Sau khi liếc qua thiệp mời của Krum như thể không tin một chữ nào trong thiệp, nó nói hơi to tiếng, “Làm sao mà anh lại đến đây?”
“Fleur mời tôi,” Krum nói, chân mày nhướn lên.
Harry không có ân oán gì với Krum nên bắt tay anh ta, rồi cảm thấy nên thận trọng tách Krum ra khỏi vùng lân cận Ron, Harry tình nguyện đưa anh ta đến chỗ ngồi.
“Bạn của anh không được vui khi gặp tôi,” Krum nói khi hai người đi vào cái rạp cưới đã đông chật. “Hay anh ta là bà con của anh?” Krum nói thêm khi liếc thấy mái tóc quăn màu đỏ của Harry.
“Anh em họ,” Harry lúng búng, nhưng Krum chẳng thực sự để tai nghe. Sự xuất hiện của anh chàng đang gây xôn xao, đặc biệt trong đám các cô em họ tiên nữ: nói cho cùng, anh ta là một cầu thủ Quidditch nổi tiếng. Trong khi người ta đang nhóng cổ cò để nhìn anh ta cho rõ, Ron, Hermione, Fred và George vội vã đi xuống lối đi giữa hai dãy ghế.
“Tới lúc ngồi xuống rồi,” Fred bảo Harry, “nếu không tụi mình sẽ bị cô dâu đạp phải.”
Harry, Ron và Hermione ngồi xuống ghế của tụi nó ở hàng thứ hai phía sau Fred và George. Trông Hermione hơi hồng hồng và tai Ron thì vẫn còn đỏ tía. Ngồi được một lúc nó thì thầm với Harry, “Bồ có thấy hắn để một chòm râu con ngu dễ sợ không?”
Harry lẩm bẩm một câu vô thưởng vô phạt.
Cả rạp cưới ấm áp lúc này đầy không khí đợi chờ náo nức, trong tiếng rì rầm chung chung thỉnh thoảng vỡ ra tiếng cười to sôi nổi. Ông bà Weasley đi lên lối đi giữa hai dãy ghế, mỉm cười và vẫy tay chào bà con. Bà Weasley mặc một bộ áo đầm mới toanh màu thạch anh tím và đội một cái nón cùng màu.
Một lát sau anh Bill và anh Charlie ra đứng ở phía đầu rạp cưới, cả hai đều mặc áo chùng trang trọng cài những bông hồng trắng rất to ở khuy áo. Fred huýt sáo và tiếng cười khúc khích vang lên trong đám các cô em họ tiên nữ. Bỗng nhiên đám đông nín lặng khi âm nhạc trỗi lên từ những cái trông như là bong bóng vàng chóe.
“Ôôôôô!” Hermione kêu lên, xoay hẳn người lại trên ghế để nhìn ra cửa rạp.
Toàn thể phù thủy pháp sư trong rạp đều đồng loạt hướng mắt nhìn về phía me xừ Delacour và chị Fleur đang bước trên lối đi giữa hai dãy ghế, chị Fleur đi như lướt còn me xừ Delacour thì vừa tươi cười vừa nhún nhảy. Chị Fleur mặc một chiếc áo đầm trắng rất đơn giản và dường như phát tiết ra một vầng hào quang rạng rỡ óng ánh bạc. Trong khi vẻ rực rỡ của chị thường ngày vẫn làm mờ đi mọi người khác khi đem ra so sánh, thì hôm nay hào quang của chị lại làm đẹp lên bất cứ ai được nó tỏa chiếu vào. Ginny và Gabrielle, cả hai đều mặc áo đầm vàng rực, trông xinh đẹp hơn hẳn ngày thường, và khi chị Fleur đi đến bên chú rể, thì anh Bill trông không có vẻ gì là đã từng gặp Fenrit Greyback.
“Thưa quý vị,” một giọng ngân nga nhẹ nhàng vang lên, và Harry hơi giật mình khi thấy lão phù thủy nhỏ thó tóc rậm rì đã từng chủ trì đám tang cụ Dumbledore giờ đây lại đứng trước anh Bill và chị Fleur. “Chúng ta họp mặt tại đây hôm nay để đánh dấu sự hợp nhất của hai tâm hồn thủy chung…”
“Đó, cái miện ngọc của ta đã khởi đầu mọi thứ tốt đẹp,” bà dì Muriel nói giọng thì thầm nhưng hơi ngân vang. “Nhưng ta phải nói, cái áo đầm của Ginevra cắt quá ngắn.”
Ginny liếc ra sau, nhe răng cười, nháy mắt với Harry, rồi nhanh chóng quay mặt ra phía trước. Đầu óc Harry lang thang ra khỏi rạp vượt qua một quãng đường dài, trở về những buổi chiều ngồi một mình với Ginny ở những góc sân trường vắng vẻ. Sao những buổi chiều đó xa xăm quá; luôn luôn có vẻ như quá đẹp đến nỗi không thể là hiện thực, như thể nó đã lấy cắp những giờ phút tươi sáng trong đời của một người bình thường, một người không mang cái thẹo hình tia chớp ngay trên trán…
“William Arthur, anh có đồng ý nhận cô Fleur Isabelle làm…?”
Ở hàng ghế đầu, bà Weasley và ma đàm Delacour đều sụt sịt khóc khe khẽ trong mớ dải ren rua. Âm thanh như tiếng kèn đồng vọng lên từ cuối rạp báo cho mọi người biết rằng bác Hagrid đã rút chiếc khăn tay bự-bằng-khăn-trải-bàn của bác ra. Hermione quay qua tươi cười với Harry; cô bé cũng đầy nước mắt.
“… vậy ta tuyên bố hai người ràng buộc nhau suốt đời.”
Lão pháp sư tóc rậm vẩy cây đũa phép trên đầu anh Bill chị Fleur và một đám mưa những ngôi sao bạc rơi xuống trên đầu hai người, rồi cuốn xoáy ốc quanh hai thân mình giờ đã bện lấy nhau của họ. Khi Fred và George khởi xướng một trận vỗ tay, mấy cái bong bóng vàng kim trên đầu họ bùng nổ. Bầy chim thiên đàng và những cái chuông vàng tí hon bay lượn ra khỏi những bong bóng đó, góp thêm tiếng hót và tiếng chuông rung vào tiếng ầm ĩ điếc tai.
“Thưa quý vị,” lão pháp sư tóc rậm lên tiếng. “Mời quý vị đứng dậy.”
Mọi người đều đứng lên, bà dì Muriel lẩm bẩm rõ to; lão pháp sư bèn vẩy cây đũa phép một lần nữa. Những chiếc ghế mà mọi người đang ngồi bỗng duyên dáng bay cao lên, trong khi tấm bạt căng vách rạp biến mất, khiến cho họ đứng dưới một cái tán được chống đỡ bằng những cái trụ bằng vàng, chung quanh là cảnh trí rực rỡ của đồng quê và vườn cây ăn trái đầy nắng. Tiếp theo một cái hồ vàng lỏng từ trung tâm rạp tráng ra thành một sàn nhảy lấp lánh; đám ghế bay bỗng tự xếp quanh những cái bàn nhỏ trải khăn trắng, rồi những cái bàn này lại bay trở lại mặt đất một cách trang nhã quanh sàn nhảy, và ban nhạc mặc áo vét vàng kéo nguyên băng đi về phía một cái bục.
“Nhuyễn,” Ron nói một cách thán phục khi đám người phục vụ hiện ra từ mọi phía, một số bưng những khay nước bí, bia bơ, và rượu đế lửa, những người khác thì khệ nệ bưng những đống bánh tạc và bánh mì kẹp thịt.
“Tụi mình nên đến chúc mừng họ,” Hermione nói, đứng nhón gót để ngó cái chỗ mà anh Bill và chị Fleur vừa biến vào một đám đông xúm xít chúc tụng.
“Lát nữa tụi mình sẽ có thì giờ,” Ron nhún vai, chớp lấy ba ly bia bơ trên một cái khay vừa lướt ngang qua và đưa một ly cho Harry. “Hermione, chớp lẹ, tụi mình mau xí một cái bàn… Đừng ngồi chỗ đó! Đừng ngồi chỗ nào gần bà dì Muriel…”
Ron dẫn đầu băng ngang sàn nhảy trống trơn, vừa đi vừa liếc trái liếc phải; Harry chắc chắn là nó đang canh chừng Krum. Khi tụi nó đến được phía bên kia của cái rạp, hầu hết các bàn đều đã có người ngồi đầy: cái bàn duy nhất còn chỗ trống là cái bàn chỉ có một mình Luna ngồi.
“Tụi này ngồi chung được không?”
“Ồ, được chứ,” cô bé vui vẻ nói. “Ba em vừa mới đi tặng quà cho anh Bill và chị Fleur.”
“Quà gì vậy? Một mớ Rễ Quéo đủ xài cả đời hả?” Ron hỏi.
Hermione nhắm đá giò Ron dưới gầm bàn, nhưng lại đá nhằm chân Harry. Đau ứa nước mắt, Harry mất một lúc không để ý theo dõi được cuộc chuyện trò.
Ban nhạc đã bắt đầu chơi, anh Bill và chị Fleur là cặp đầu tiên ra sàn nhảy trong tiếng vỗ tay vang rền; một lát sau ông Weasley đưa ma đàm Delacour lên sàn, theo sau là bà Weasley cùng cha của chị Fleur.
“Em thích bài hát này,” Luna nói, lắc lư đúng lúc điệu nhạc nghe như vanxơ vang lên, và chỉ vài giây sau cô bé đã đứng dậy và lướt ra sàn nhảy, ở đó cô bé xoay tròn tại chỗ, một mình, mắt nhắm nghiền, hai cánh tay vung vẩy.
“Con nhỏ ác liệt há?” Ron nói một cách ngưỡng mộ. “Luôn luôn đúng nhịp.” Nhưng nụ cười biến khỏi gương mặt nó ngay tức thì: Viktor Krum vừa ngồi xuống
cái ghế trống của Luna. Hermione tỏ ra bối rối một cách thích thú nhưng lần này Krum không đến để tán tình cô nàng. Mặt mày cau có, anh ta nói: “Người đàn ông mặc áo vàng là ai?”
“Đó là ông Xenophilius Lovegood, cha một người bạn của tụi này,” Ron nói. Cái giọng gây sự của Ron cảnh báo là chớ có mà cười cợt Xenophilius, bất chấp vẻ khiêu khích lộ liễu. “Đi ra nhảy,” nó đột ngột nói thêm với Hermione.
Cô nàng có vẻ bất ngờ nhưng cũng vui lòng, và đứng dậy. Hai đứa nó cùng biến mất với nhau trong đám người càng lúc càng đông trên sàn nhảy.
“A, bây giờ hai người đó cặp nhau vồi à?” Krum hỏi, ngớ ra trong chốc lát.
“Ờ… đại khái vậy,” Harry nói.
“Anh là ai?” Krum hỏi.
“Barny Weasley.”
Hai người bắt tay nhau.
“Anh, Barny… anh có bít nhìu về cái tay Lovegood đó không?” “Không. Tôi chỉ mới gặp ông ta hôm nay. Mà sao vậy?”
Krum trừng mắt qua miệng ly ngó ông Lovegood đang tán gẫu với nhiều tay chiến tướng bên kia sàn nhảy.
“Bởi vì,” Krum nói, “níu hắn không phởi là khách mời của Fleur thì tôi sẽ đục hắn, tợi đây và ngay bây giờ, vì mang cới ký hịu bẩn thỉu đó trên ngực.”
“Ký hiệu?” Harry nói, cũng nhìn về phía ông Lovegood. Con mắt hình tam giác kỳ lạ đang lấp lánh trên ngực ông ta. “Tại sao? Cái đó thì có gì bậy bạ?”
“Grindelvald. Đó là ký hịu của Grindelvald.”
“Grindelvald… có phải là tay phù thủy Hắc ám đã bị thầy Dumbledore đánh bại?” “Chính xác!”
Cơ bắp quanh cằm Krum căng lên như thể anh ta đang nhai, anh chợt nói tiếp, “Grindelvald zít rất nhìu người, ông tôi chẳng hạn. Dĩ nhin hắn chưa bao giờ hùng mạnh ở xứ này, người ta nói hắn sợ cụ Dumbledore – mà chắc đúng, căn cứ vào cách đời hắn kết thúc. Nhưng đây” – anh ta chỉ một ngón tay vào ông Lovegood – “đây là ký hịu của hắn, tôi nhận va nó ngay lập tức: Grindelvald đã khắc nó lên một bức tường ở Durmstrang hồi hắn còn là học sinh ở đó. Mấy thằng ngốc cóp pi vô sách và quần áo của chúng, tính gây sốc, làm cho có vẻ chịu chơi mà – cho đến khi những người có thân nhân bị Grindelvald zít như chúng tôi dạy cho chúng hỉu bít hơn.”
Krum bẻ khớp ngón tay vẻ hăm he và trừng mắt nhìn ông Xenophilius. Harry cảm thấy khó hiểu. Chẳng có vẻ gì tin được là cha của Luna lại có thể là một kẻ ủng hộ Nghệ thuật Hắc ám, và không ai trong cả rạp cưới tỏ vẻ nhận ra cái hình tam giác cỡ bàn tay đó.
“Anh có… ơ… chắc chắn đó là ký hiệu của Grindelvald…?”
“Tôi không nhầm được,” Krum lạnh lùng nói. “Tôi đã đi ngang qua ký hịu đó nhìu năm trời, tôi bít nó vất võ.”
“Có thể là,” Harry nói, “ông Xenophilius không thực sự biết ký hiệu đó nghĩa là gì, cha con nhà Lovegood rất… khác thường. Có thể ông ta vớ được nó ở đâu đó và tưởng là hình cắt ngang cái đầu một con Khụt-khịt Sừng-nát hay cái gì đó.”
“Hình cắt ngang của cái gì?”
“À, tôi không biết là cái gì, nhưng có vẻ như ông ta và cô con gái đi nghỉ mát để tìm chúng…”
Harry cảm thấy nó giải thích không nên thân về Luna và cha cô bé.
“Cô ta đó,” nó nói, chỉ Luna, cô bé vẫn đang nhảy một mình, vung vẩy hai cánh tay quanh đầu như thể một người đang cố gắng đuổi ruồi.
“Tợi sao cô ta làm như thế?” Krum hỏi.
“Có lẽ đang tìm cách xua đuổi một con Tảo vọt,” Harry nói, nó vừa nhận ra điệu bộ của Luna.
Krum có vẻ như không biết là Harry đang đùa hay thật. Anh đưa tay vào túi áo chùng rút ra cây đũa phép và gõ lên đùi với vẻ đe dọa; đầu đũa nhá ra tia lửa.
“Gregorovitch!” Harry la lớn, và Krum giật mình, nhưng Harry quá xúc động nên không bận tâm; ký ức đã ùa về với nó khi nó nhìn thấy cây đũa phép của Krum: ông
Ollivander đã cầm cây đũa phép đó và xem xét kỹ lưỡng trước cuộc thi đấu Tam Pháp Thuật.
“Ông ấy thì sao?” Krum tò mò hỏi.
“Ông ta là người chế tạo đũa phép.”
“Tôi biết thế,” Krum nói.
“Ông ấy làm ra cây đũa phép của anh. Vì vậy mà tôi đã nghĩ đến… Quidditch…” Krum càng tỏ vẻ tò mò hơn.
“Làm sao anh bít Gregorovitch làm ra cây đũa phép của tôi?”
“Tôi… tôi nghĩ tôi đã đọc ở đâu đó,” Harry nói, “trong một… một tạp chí người hâm mộ,” nó ứng khẩu nói đại và Krum tỏ ra dịu xuống.
“Tôi không bít võ mình có bao giờ lợi nói chuyện về cây đũa phép với người hâm mộ,” anh ta nói.
“Vậy… ơ… dạo này ông Gregorovitch ở đâu?” Krum tỏ ra lúng túng.
“Ông ấy về hưu nhìu năm rồi. Tôi là một trong những người cuối cùng mua đũa phép của Gregorovitch. Đó là những cây đũa phép tốt nhất – mặc dù, dĩ nhin, tôi bít, dân Ăng-lê các anh chuộng hàng của Ollivander.”
Harry không trả lời. Nó giả đò ngắm những người khiêu vũ, như Krum, nhưng bụng thì suy nghĩ lung lắm. Vậy là Voldemort đang tìm kiếm một người làm đũa phép nổi danh và Harry không cần phải tìm lý do ở đâu xa xôi. Chắc chắn nguyên nhân là chính cái điều mà cây đũa phép của Harry đã gây ra vào cái đêm Voldemort truy lùng nó trên vòm trời. Cây đũa phép bằng lông phượng hoàng và gỗ nhựa ruồi đã chế ngự được cây đũa phép vay mượn, điều mà Ollivander không lường trước và không hiểu được. Liệu Gregorovitch thì có hiểu hơn không? Liệu ông ta có thực sự giỏi hơn ông Ollivander không, liệu ông ta có biết bí mật của những cây đũa phép mà ông Ollivander không biết không?
“Cô bé này trông xinh thật,” Krum nói, đem Harry về lại với thực tế chung quanh. Krum đang chỉ vào Ginny, cô bé vừa lên sàn nhảy chung với Luna. “Cô bé cũng có bà con với anh chứ?”
“Ừ,” Harry nói, bỗng dưng nổi quạu, “và cô ta đang cặp với tay nào đó. Ghen lắm. Bự con. Anh sẽ không muốn chạm trán với hắn đâu.”
Krum lầu bầu.
“Nổi danh,” anh ta vừa nói vừa uống cạn cái ly và đứng lên, “là một cầu thủ Quidditch thế giới để làm quới gì nếu tất cả những cô gái xinh đẹp đều đã có kẻ phỗng tay trên?”
Và anh chàng bỏ Harry ở lại, sải dài bước chân đi lấy một cái bánh mì kẹp thịt trên mâm của một người phục vụ vừa đi ngang qua, rồi đi vòng quanh sàn nhảy đông đúc. Harry muốn tìm Ron để nói với nó về Gregorovitch, nhưng Ron đang nhảy với Hermione ngay giữa sàn. Harry đứng tựa lưng vào một trong mấy cái trụ vàng và ngắm Ginny, lúc này cô bé đang nhảy với Lee Jordan, bạn của Fred và George, cố gắng không hối hận về lời nó đã trót hứa với Ron.
Trước đây Harry chưa bao giờ dự một đám cưới, vì vậy nó không thể nói đám cưới phù thủy khác với đám cưới của dân Muggle như thế nào, mặc dù nó khá chắc chắn là đám cưới Muggle không có cái bánh cưới mà trên cùng có hai mô hình phượng hoàng cất cánh bay lên mỗi khi bánh được cắt ra, hay là những chai rượu sâm banh tự bay lơ lửng giữa đám đông. Khi đêm xuống, bọn thiêu thân lao vào phía dưới tán rạp được chiếu sáng bằng những chiếc lồng đèn vàng, cuộc vui trở nên càng lúc càng phá rào. Fred và George đã biến vào bóng tối từ lâu cùng với hai cô em họ của Fleur; anh Charlie, bác Hagrid và một lão phù thủy mập lùn đội nón chóp bẻ vành màu tím đang hát bài Odo đấng anh hùng trong một góc.
Đi thơ thẩn qua đám đông để tránh mặt một ông chú say xỉn của Ron, ông ta không chắc Harry có phải là con ổng hay không, Harry chợt thấy một cụ pháp sư già ngồi một mình. Mái tóc trắng như mây của cụ khiến cụ trông giống một chùm bông bồ công anh già đội cái rế bị mối gặm. Trông cụ quen quen: xóc óc một hồi, Harry chợt nhận ra đó là cụ Elphias Doge, thành viên Hội Phượng Hoàng và là người viết cáo phó thầy Dumbledore.
Nó bèn đến gần cụ.
“Ông cho phép con ngồi ạ?”
“Đương nhiên, đương nhiên,” cụ Doge nói, giọng cụ hơi cao và khò khè.
Harry cúi mình.
“Thưa ông Doge, con là Harry Potter.”
Cụ Doge há hốc mồm.
“Con trai ta! Arthur có nói với ta là con có mặt ở đây, cải trang… Ta mừng lắm, rất hân hạnh!”
Cụ Doge rót cho Harry một ly sâm banh trong cơn run rẩy vì niềm vui xúc động. “Ta đã nghĩ đến việc viết thư cho con,” cụ thì thầm, “sau khi cụ Dumbledore… chấn động và đối với con, ta chắc…”
Đôi mắt nhỏ xíu của cụ Doge đột ngột tràn đầy nước mắt.
“Con có thấy bài cáo phó cụ viết trên tờ Nhật báo Tiên Tri,” Harry nói, “Con không ngờ cụ biết giáo sư Dumbledore nhiều như vậy.”
“Như mọi người biết thôi,” cụ Doge nói, chậm nước mắt bằng chiếc khăn ăn. “Chắc chắn ta biết cụ lâu nhất, nếu con không tính đến Aberforth – và chẳng biết thế nào, người ta dường như không tính đến Aberforth.”
“Nhân nói đến tờ Nhật báo Tiên Tri… thưa cụ Doge, không biết cụ có…?” “Ôi, cứ gọi ta là Elphias, con à.”
“Thưa cụ Elphias, con không biết cụ có thấy bài phỏng vấn Rita Skeeter nói về cụ Dumbledore không?”
Gương mặt cụ Doge đỏ lên vì tức giận.
“A, có, Harry, ta có thấy bài đó. Người đàn bà đó, gọi là một con kền kền thì có lẽ chính xác hơn, đã nhằng nhì quấy rối ta để ép ta nói chuyện với thị, ta xấu hổ mà nói rằng ta đã trở nên khá thô lỗ, gọi thị là miếng cá hồi dai nhách, mà hậu quả, như con có lẽ đã thấy, là trò bôi bác sự minh mẫn của ta.”
“Dạ, trong bài phỏng vấn đó,” Harry nói tiếp, “Rita Skeeter ám chỉ là giáo sư Dumbledore có dây dưa với Nghệ thuật Hắc ám khi còn trẻ…”
“Đừng tin một lời nào cả!” Cụ Doge nói ngay. “Đừng tin một lời nào, Harry à. Đừng để cho bất cứ điều gì làm hoen ố ký ức của con về cụ Dumbledore.”
Harry nhìn vào gương mặt đau đớn và tha thiết của cụ Doge, và cảm thấy nản lòng, chứ không phải được yên lòng. Chẳng lẽ cụ Doge tin rằng mọi việc dễ như vậy sao, rằng Harry lại có thể cứ đơn giản chọn cách đừng tin là xong sao? Chẳng lẽ cụ Doge không hiểu được nhu cầu của Harry là muốn biết đến đầu đến đũa mọi việc sao?
Có lẽ cụ Doge nghi ngờ những cảm nghĩ của Harry nên cụ có vẻ lo lắng và nói vội vàng:
“Harry à, Rita Skeeter là một kẻ đáng sợ…”
Nhưng cụ bị cắt ngang vì tiếng cười hinh hích chói tai.
“Rita Skeeter hả? Ôi, ta khoái cô ả, luôn luôn đọc ả.”
Harry và cụ Doge ngước lên để thấy bà dì Muriel đang đứng đó, đám lông chim nhảy múa trên tóc, bà cầm trong tay một ly rượu sâm banh. “Ả vừa mới viết một cuốn sách về Dumbledore, mọi người biết chứ.”
“Chào bà Muriel,” cụ Doge nói, “chúng tôi đang nói…”
“Thằng kia! Đưa cái ghế của mi cho ta, ta đã một trăm lẻ bảy tuổi.”
Một đứa anh em họ Weasley tóc đỏ khác nhảy bật ra khỏi chỗ ngồi, coi bộ hơi hoảng, và bà dì Muriel lẳng cái ghế một vòng với một sức mạnh đáng ngạc nhiên rồi thả mình ngồi gọn xuống giữa cụ Doge và Harry.
“Chào cháu lần nữa, Barny hay tên gì đó của cháu,” bà nói với Harry. “Sao, ông nói gì về Rita Skeeter, ông Elphias? Ông biết ả có viết một cuốn tiểu sử về cụ Dumbledore chứ hả? Tôi sốt ruột chờ đọc cuốn đó. Tôi phải nhớ mà đặt mua trước ở tiệm Flourish & Blotts!”
Cụ Doge tỏ vẻ cứng nhắc và nghiêm trang về chuyện đó, nhưng bà dì Muriel uống cạn ly và búng ngón tay xương xẩu của bà gọi một người phục vụ đang đi ngang qua để đổi ly rượu mới. Bà hớp một ngụm to sâm banh, ợ hơi rồi nói, “Chẳng việc gì phải trông như một đôi ếch nhồi thế! Trước khi ông Albus trở nên đáng kính như thế và được trọng nể như thế và tất cả đồ bá láp như thế, thì đã có những đồn đãi rất khôi hài về ổng rồi!”
“Ngậm máu phun người,” cụ Doge nói, mặt mày lại đỏ tía.
“Thể nào ông cũng nói vậy mà, ông Elphias,” bà dì Muriel cười khành khạch. “Tôi có nhận thấy ông đã khéo léo lách qua mấy chuyện khó nói trong bài cáo phó đó của ông!”
“Tôi rất tiếc là bà nghĩ vậy,” cụ Doge nói, càng lặng lẽ một cách lạnh lùng. “Tôi cam đoan với bà tôi viết từ đáy lòng.”
“Ối, tất cả chúng ta đều biết ông sùng bái Dumbledore; tôi dám nói ông sẽ vẫn cứ nghĩ ông ấy là một vị thánh ngay cả nếu như chuyện đổ bể ra rằng ổng đã giết con em á phù thủy của ổng!”
“Bà Muriel!” Cụ Doge kêu lên.
Một cơn lạnh buốt không phải do rượu sâm banh ướp đá đang len lỏi khắp buồng ngực Harry.
“Ý bà là sao?” Nó hỏi bà dì Muriel. “Ai nói em gái của cụ là một á phù thủy? Con tưởng cô ấy bị bệnh chớ.”
“Tưởng nhầm rồi, Barry ơi!” Bà dì Muriel nói, tỏ ra vui sướng hớn hở trước hiệu quả mà bà tạo ra. “Dù sao đi nữa, làm sao cháu lại nghĩ là có thể biết được gì về chuyện đó hả? CHUYỆN ĐÓ xảy ra từ năm nẳm năm nào rồi, từ hồi người ta còn chưa nghĩ ra cháu nữa kìa, và sự thật là tất cả những người cùng lứa với bà mà còn sống khi đó đã không hề biết thực sự có chuyện gì xảy ra. Bởi vậy bà hết sức nôn nóng coi Skeeter tiết lộ điều gì! Dumbledore đã giữ kín chuyện cô em gái đó của ổng hơi lâu à!”
“Không đúng!” Cụ Doge phều phào. “Hoàn toàn không đúng!”
“Thầy không hề nói với con em gái thầy là á phù thủy,” Harry nói, không kịp nghĩ, trong lòng vẫn còn lạnh buốt.
“Mà mắc mớ gì ổng phải nói cho cháu biết hả?” Bà dì Muriel rít lên, lắc lư một tí trên ghế khi bà cố gắng tập trung chú ý vào Harry.
“Tôi cho rằng,” cụ Doge mở lời, giọng nghẹn lại vì xúc động, “lý do anh Albus không bao giờ nói về em Ariana rất rõ ràng. Anh suy sụp tan nát vì cái chết của cô ấy.”
“Thế tại sao chưa từng có ai thấy cô ta hả ông Elphias?” Bà dì Muriel vặc lại. “Tại sao một nửa số người trong chúng ta không hề biết cô ta từng tồn tại, cho đến khi họ
khiêng cỗ quan tài ra khỏi nhà và làm tang lễ cho cô ta? Anh Albus thánh thiện ở đâu khi Ariana bị nhốt trong hầm rượu hả? Ở tít trong trường Hogwarts làm một thiên tài sáng chói, và chẳng bao giờ bận tâm chuyện gì xảy ra trong chính ngôi nhà của mình!”
“Bà muốn nói gì, bị nhốt trong hầm rượu à?” Harry hỏi, “Nghĩa là sao?”
Cụ Doge có vẻ suy sụp. Bà dì Muriel lại cười khành khạch và trả lời câu hỏi của Harry.
“Bà mẹ ông Dumbledore là một mụ đàn bà đáng sợ, hoàn toàn đáng sợ. Gốc Muggle. Mặc dù ta nghe mụ giả bộ không phải…”
“Bà ấy không hề giả bộ gì hết! Bà Kendra là một phụ nữ tử tế,” cụ Doge thì thào một cách khốn khổ, nhưng bà dì Muriel phớt lờ cụ.
“… kiêu căng và rất độc đoán, một thứ phù thủy đáng bị cụp mặt vì đẻ ra một con á phù thủy…”
“Ariana không phải là á phù thủy!” Cụ Doge phều phào.
“Anh nói vậy, anh Elphias, thì anh hãy giải thích coi tại sao cô ta chẳng bao giờ đi học ở trường Hogwarts!” Bà dì Muriel nói. Bà đã quay lưng lại Harry. “Vào thời của chúng ta, á phù thủy thường bị giấu nhẹm, dù vậy vẫn cực kỳ tàn nhẫn khi thực sự giam cầm một cô gái nhỏ trong nhà và giả bộ như cô ta không hề tồn tại…”
“Ta nói với con, chuyện không phải như vậy,” cụ Doge nói, nhưng bà dì Muriel hùng hục nói át đi, vẫn hướng về Harry.
“Thường người ta hay đưa á phù thủy đến trường học Muggle và khuyến khích chúng hội nhập với cộng đồng Muggle… như thế tốt hơn là cố tìm cho ra một vị trí trong thế giới pháp thuật, nơi chúng luôn luôn phải nằm trong giai cấp hạng nhì, nhưng tất nhiên là mụ Kendra Dumbledore không đời nào mơ tới chuyện cho con gái của mụ đi học ở trường Muggle…”
“Ariana rất mảnh dẻ,” cụ Doge cố nói. “Sức khỏe của cô ấy tệ đến nỗi không thể để cô…”
“… để cho cô ta ra khỏi nhà à?” Bà dì Muriel lại cười khành khạch. “Vậy mà cô ta chưa hề được đưa tới bệnh viện Thánh Mungo và cũng không có lương y nào được mời đến khám chữa cho cô ta cả!”
“Thực ra, bà Muriel à, làm sao bà có thể biết liệu…”
“Nói cho anh biết, anh Elphias à, anh họ Lancelot của tôi là một lương y ở bệnh viện Thánh Mungo vào thời đó, và ảnh kể cho gia đình tôi nghe với sự tin cẩn tuyệt đối là chưa bao giờ có ai thấy Ariana ở đó cả. Tất cả đều hết sức đáng ngờ, Lancelot nghĩ thế.”
Cụ Doge có vẻ sắp phát khóc. Bà dì Muriel, dường như hết sức tự mãn, búng ngón tay gọi thêm rượu sâm banh.
Harry lặng người nghĩ đến cách gia đình Dursley đã có lần nhốt nó, khóa nó trong phòng, giữ cho không ai nhìn thấy nó, tất cả chỉ vì cái tội là phù thủy. Phải chăng em gái cụ Dumbledore đã chịu đựng số phận tương tự vì lý do ngược lại: bị giam cầm vì không có khả năng pháp thuật? Và chẳng lẽ cụ Dumbledore thực sự đã để mặc em gái mình với kiếp sống đó trong khi cụ thì đến trường Hogwarts để tự chứng minh mình lỗi lạc, tài hoa?
“Này nhé, nếu mụ Kendra không chết trước,” bà dì Muriel lại nói tiếp, “thì tôi dám nói chính mụ giết Ariana…”
“Bà Muriel, sao bà có thể!” Cụ Doge rên rỉ. “Một người mẹ mà giết con gái của chính mình sao? Hãy suy nghĩ điều bà nói ra.”
“Nếu bà mẹ ta đang bàn tới đã có thể giam cầm đứa con gái trong nhiều năm liên tục, thì sao lại không thể giết nó đi?” Bà dì Muriel nhún vai. “Nhưng mà như tôi nói rồi, điều đó không hợp lý, vì mụ Kendra chết trước Ariana – chết vì cái gì, có vẻ như không ai biết chắc…”
“Ôi, chắc là Ariana ám sát bà ấy,” cụ Doge nói với một nỗ lực dũng cảm biểu lộ sự khinh miệt. “Sao lại không nhỉ?”
“Ừ, Ariana rất có thể vùng vẫy trong tuyệt vọng để tìm tự do và đã giết Kendra trong cuộc đấu tranh đó,” bà dì Muriel nói với vẻ đầy suy tư. “Cứ lắc đầu tùy thích, anh Elphias à. Anh có mặt trong đám tang Ariana, đúng không?”
“Đúng,” cụ Doge nói qua đôi môi run run. “Và tôi không thể nhớ có sự kiện nào lại thảm thiết hơn thế. Trái tim anh Albus tan nát.”
“Không phải trái tim ổng là thứ duy nhất tan nát. Chẳng phải Aberforth đã đấm gãy mũi Albus giữa chừng tang lễ sao?”
Nếu trước đó cụ Doge đã tỏ ra hãi hùng, thì so với lúc này nỗi hãi hùng đó chẳng là gì cả. Bà dì Muriel có lẽ đã đâm trúng cụ. Bà cười khành khạch lớn hơn và nốc thêm một ngụm rượu nữa, rượu nhễu cả xuống cằm bà.
“Sao bà…” cụ Doge nghẹn ngào.
“Má tôi rất thân với bà lão Bathilda Bagshot,” bà dì Muriel vui vẻ nói. “Bà Bathilda đã miêu tả toàn bộ câu chuyện cho má tôi trong khi tôi lén nghe ở cửa. Một trận cãi lộn tưng bừng bên cỗ quan tài. Cứ như bà Bathilda kể, thì Aberforth hét lên rằng Ariana chết hoàn toàn là do lỗi của Albus, rồi dộng vào mặt ông anh. Theo lời Bathilda, Albus thậm chí không tự vệ, và riêng chi tiết đó cũng đã kỳ lạ. Albus có thể tiêu diệt Aberfoth trong một trận đấu tay đôi cho dù hai tay bị trói sau lưng mà.”
Bà dì Muriel nốc thêm nhiều sâm banh nữa. Dường như việc nhắc lại chuyện tai tiếng xưa lắc này khiến bà phấn chấn bao nhiêu thì gây kinh hoàng cho cụ Doge bấy nhiêu. Harry không biết nghĩ ra sao, tin cái gì. Nó muốn biết sự thật, nhưng cụ Doge chỉ ngồi đó mà thều thào yếu ớt là Ariana bị bệnh. Harry khó mà tin nổi rằng cụ Dumbledore lại không can thiệp gì nếu một hành động tàn ác như vậy xảy ra trong chính ngôi nhà của cụ, nhưng chắc chắn phải có điều gì đó kỳ quái trong câu chuyện.
“Và ta nói cho cháu biết thêm chuyện nữa,” bà dì Muriel nói, nấc cụt nho nhỏ khi hạ cái ly của bà xuống. “Ta nghĩ bà Bathilda đã xì ra cái thâm cung bí sử đó cho Rita Skeeter. Tất cả những ám chỉ trong bài phỏng vấn của Skeeter về một nguồn tin quan trọng thân cận với gia đình Dumbledore… có trời biết bả đã ở đó suốt từ đầu tới cuối vụ Ariana, và vậy là khớp.”
“Bà Bathilda không bao giờ nói với Rita Skeeter!” Cụ Doge thì thào. “Bathilda Bagshot à?” Harry hỏi, “Tác giả cuốn Một Lịch Sử Pháp Thuật?”
Cái tên đó được in trên bìa một trong những cuốn sách giáo khoa của Harry, mặc dù phải thừa nhận đó không phải là cuốn sách nó đọc say mê cho lắm.
“Phải,” cụ Doge nói, níu lấy câu hỏi của Harry như một người chết đuối níu lấy phao cứu mạng. “Một sử gia pháp thuật tài giỏi nhất và là một người bạn lâu đời của cụ Dumbledore.”
“Tôi nghe nói dạo này lẩm cẩm rồi,” bà dì Muriel phấn khởi nói.
“Nếu vậy thì Skeeter lại càng thiếu trung thực khi lợi dụng bà ấy,” cụ Doge nói, “và như thế Bathilda có nói ra điều gì cũng không thể tin cậy được.”
“Ôi, có những cách gợi cho nhớ lại được chứ, mà tôi chắc chắn Rita biết mọi cách,” bà dì Muriel nói. “Nhưng ngay cả như Bathilda có hoàn toàn ngớ ngẩn, tôi chắc bà ta vẫn còn những hình ảnh cũ, có thể cả thư từ. Bả quen biết gia đình Dumbledore bao nhiêu năm trời mà… Đáng công bỏ ra làm một chuyến đi tới Thung lũng Godric, tôi cho là vậy.”
Harry, đang hớp từng ngụm bia bơ, bỗng phát sặc. Cụ Doge đấm đấm lên lưng nó trong khi nó ho, nhìn bà dì Muriel qua đôi mắt đang ứa lệ. Khi đã kiểm soát lại được giọng nói của mình, nó hỏi, “Bà Bathilda sống ở Thung lũng Godric à?”
“Ừ, đúng. Bả ở đó mãn đời! Gia đình Dumbledore dọn đến đó sau khi ông Percival bị đi tù, và bà ta trở thành hàng xóm của họ.”
“Gia đình cụ Dumbledore đã sống ở Thung lũng Godric sao?”
“Đúng đó, Barry, ta vừa mới nói vậy,” bà dì Muriel nói giọng bực mình.
Harry cảm thấy cạn kiệt, trống rỗng. Trong suốt sáu năm trời, cụ Dumbledore chưa một lần nào nói với Harry là cả hai đều từng sống và mất mát người thân ở Thung lũng Godric. Tại sao? Mẹ Lily và ba James của nó có được chôn gần mẹ và em gái cụ Dumbledore không? Cụ Dumbledore có đi thăm viếng mộ mẹ và em gái, thậm chí bước ngang qua mộ phần của mẹ Lily và ba James khi viếng mộ người thân không?
Và cụ chưa bao giờ nói với Harry tới một lần… chưa bao giờ buồn nói tới…
Và tại sao điều đó lại quan trọng như vậy, Harry không thể giải thích cho chính mình, nhưng nó cảm thấy việc không nói cho nó biết là hai người có chung chốn ấy, chung những trải nghiệm giống nhau thì cũng gần như một lời dối trá. Nó đăm đăm nhìn ra phía trước, gần như không để ý những việc đang diễn ra chung quanh, và không nhận ra Hermione đã rời khỏi đám đông mãi tới khi cô nàng kéo cái ghế ngồi xuống bên cạnh nó.
“Mình thiệt tình không thể nhảy nữa,” cô nàng thở hổn hển, cởi một chiếc giày ra và xoa bóp lòng bàn chân. “Ron đi kiếm thêm bia bơ rồi. Hơi kỳ quái. Mình vừa mới thấy anh Viktor đùng đùng bỏ đi khỏi chỗ cha của Luna, có vẻ như hai người vừa cãi lộn…” Hermione hạ giọng, chăm chú nhìn nó, “Harry, bồ có sao không?”
Harry chưa biết bắt đầu từ đâu, nhưng không hề gì. Ngay lúc đó, một cái gì vừa to vừa bạc trắng rơi xuyên qua tán rạp rớt xuống sàn nhảy. Thanh nhã và trắng bóc, con linh miêu nhẹ nhàng đáp xuống giữa đám người khiêu vũ kinh ngạc. Những cái đầu ngoảnh lại, trong khi những người ở gần con linh miêu nhất cứng đờ ra ngơ ngẩn giữa chừng điệu nhảy. Đột ngột miệng Thần Hộ mệnh há rộng và nói bằng giọng chậm rãi, sâu và to của chú Kingsley Shacklebolt.
“Bộ đã sụp đổ. Scrimgeour đã chết. Chúng đang đến.”