“A, Mafalda!” Mụ Umbridge nhìn Hermione nói. “Travers phái cô đến phải không?” “D… dạ,” Hermione rít lên.
“Tốt, cô thì hoàn toàn thích hợp đấy,” mụ Umbridge nói với vị pháp sư mặc đồ đen và vàng. “Vấn đề đó thế là được giải quyết xong. Thưa ngài Bộ trưởng, nếu cô Mafalda được dành cho công việc quản lý hồ sơ thì chúng ta sẽ có thể bắt đầu ngay lập tức.” Mụ tham khảo tấm bìa kẹp giấy tờ của mình, “Mười người hôm nay và trong số đó có một người là vợ một viên chức của Bộ! Chà, chà… ngay ở đây, ngay trung tâm Bộ!” Mụ bước vào thang máy, đứng bên cạnh Hermione, hai pháp sư nãy giờ chỉ nghe mụ Umbridge nói chuyện với ông Bộ trưởng cũng theo mụ bước vào. “Chúng ta sẽ đi thẳng xuống, Mafalda à, cô sẽ tìm thấy mọi thứ cô cần trong phòng xử. Chào anh Albert, anh không đi ra à?”
“Có chứ, dĩ nhiên,” Harry nói bằng giọng trầm của Runcorn.
Nó bước ra khỏi thang máy. Cánh cửa lưới bằng vàng đóng lại kêu lanh canh sau lưng. Liếc ra sau, Harry thấy gương mặt lo lắng của Hermione bị chìm khuất giữa hai pháp sư cao lớn kẹp hai bên, cái nơ cài tóc bằng nhung của mụ Umbridge ngang bằng vai cô nàng.
“Anh lên đây có việc gì, anh Runcorn?” Ông Bộ trưởng Pháp thuật mới nhậm chức hỏi. Tóc và râu đen dài của ông ta mang những đường sọc bạc, và một mớ tóc dày xõa xuống trán che đôi mắt sáng long lanh khiến Harry liên tưởng tới một con cua nằm bên dưới một tảng đá ngó ra.
“Cần nói vài lời với…” Harry ngập ngừng trong một tích tắc, “ông Arthur Weasley. Có người nói ông ấy đã lên lầu một.”
“À,” ông Plum Thicknesse nói. “Đã bắt được quả tang ông ta tiếp xúc với một Kẻ Phá Rối à?”
“Không,” Harry nói, cổ họng nó khô khốc. “Không, không có chuyện như vậy.” “Ừ, phải. Trước sau gì cũng sẽ thế thôi,” ông Thicknesse nói. “Theo ý tôi, bọn phản
bội huyết thống cũng xấu xa như bọn Máu bùn. Chào anh Runcorn.” “Chào ông Bộ trưởng.”
Harry nhìn theo ông Thicknesse đĩnh đạc bước đi dọc theo hành lang trải thảm dày. Ngay khi ông Bộ trưởng khuất khỏi tầm mắt, Harry rút mạnh tấm Áo khoác Tàng hình từ dưới lớp áo chùng đen nặng nề ra, tung tấm áo trùm lên người, và bắt đầu đi dọc hành lang theo hướng ngược lại. Runcorn quá cao nên Harry buộc phải khòm lưng xuống để yên chí là chân cẳng nó được che kín.
Nỗi hoang mang làm bụng nó thót lại từng cơn. Khi nó đi ngang qua hết cánh cửa gỗ bóng loáng này đến cánh cửa gỗ bóng loáng khác, mỗi cánh cửa đều có đính một tấm biển nhỏ ghi tên và nghề nghiệp của chủ nhân, uy quyền của Bộ, sự phức tạp và vững bền của Bộ hình như buộc nó phải nhìn nhận rằng cái kế hoạch mà nó cùng Hermione và Ron đã dàn dựng công phu suốt bốn tuần lễ qua có vẻ trẻ con đến tức cười. Tụi nó đã tập trung tất cả nỗ lực để đột nhập mà không bị phát hiện: tụi nó đã không hề có một suy nghĩ thoáng qua về việc tụi nó sẽ làm gì trong trường hợp bị buộc phải tách ra. Bây giờ Hermione bị kẹt vô chuyện thủ tục tòa án, chắc chắn sẽ kéo dài nhiều tiếng đồng hồ; Ron thì đang gắng hết sức để làm những pháp thuật mà Harry biết là vượt quá sức của nó, tự do của một người đàn bà đang tùy thuộc vào kết quả cố gắng của Ron, còn nó, Harry, thì đang đi lêu bêu trên tầng lầu cao nhất khi nó đã biết rõ một cách tuyệt đối là người nó tìm vừa đi xuống trong thang máy rồi.
Nó đứng lại, dựa lưng vào một bức tường, và cố gắng quyết định coi phải làm gì. Sự im lặng đè nặng lên nó. Ở đây không có tiếng lao xao hay trò chuyện hay tiếng chân bước nhanh, những hành lang trải thảm đỏ nín khe như thể bùa Ù tai vừa được ếm lên khắp chốn này.
Văn phòng mụ ta ắt là ở đây, Harry nghĩ.
Chẳng có vẻ gì là mụ Umbridge cất giữ tư trang trong văn phòng của mụ, nhưng mặt khác nếu không lục soát cho chắc ăn thì có vẻ hơi ngu. Vì vậy nó bắt đầu đi dọc hành lang một lần nữa, không đi ngang qua người nào hết trừ một pháp sư quạu quọ đang rì rầm sai khiến một cây viết lông ngỗng lơ lửng trước mặt ông ta ghi chép trên một tấm giấy da dài thòng.
Giờ đây chú ý đến những cái tên trên cửa, Harry quẹo qua một hành lang khác. Đi được nửa chừng hành lang này nó tới một chỗ trống trải rộng rãi có chừng một tá phù thủy và pháp sư ngồi thành hàng ở những cái bàn nhỏ hao hao bàn học sinh mặc dù được đánh bóng láng o và không bị vẽ bậy. Harry dừng lại để quan sát họ, bởi vì tác động của cảnh này đầy mê hoặc. Tất cả những phù thủy đó đang đồng loạt vẫy vẫy xoay xoay những cây đũa phép của họ, và những vuông giấy màu đang bay khắp mọi hướng như những cánh diều hồng nho nhỏ. Sau vài giây Harry nhận ra nhịp điệu của quy trình, tất cả những vuông giấy đó đều hình thành nên một mẫu y chang nhau và sau vài giây nữa Harry hiểu ra là nó đang xem việc tạo ra những quyển sách tuyên truyền – những mẩu giấy vuông là những trang sách, khi đã được tập hợp, gấp lại, đóng xén đâu vô đó bằng pháp thuật, thì rớt xuống thành những chồng sách gọn gàng bên cạnh mỗi phù thủy hay pháp sư.
Nó rón rén đi tới gần hơn, mặc dù những công nhân đó mải chăm chú vào công việc họ đang làm đến nỗi nó không tin là họ để ý đến những dấu chân lún trên thảm, và nó thuổng một cuốn đã hoàn chỉnh từ chồng sách bên cạnh một phù thủy trẻ. Nó xem xét cuốn sách dưới tấm Áo khoác Tàng hình. Tên sách màu vàng chóe nổi bật trên cái bìa màu hồng:
MÁU BÙN
Và những hiểm họa chúng gây ra cho một xã hội thuần chủng thanh bình
Bên dưới tựa sách là hình vẽ một đóa hồng đỏ có một cái mặt cười điệu đàng ngay chính giữa những cánh hoa, bị một cọng cỏ xanh có răng nanh và mắt quắc hung tợn quấn siết. Không thấy tên tác giả trên cuốn sách, nhưng một lần nữa, những vết thẹo trên mu bàn tay phải của nó dường như ngứa râm ran khi nó xem xét cuốn sách. Thế rồi cô phù thủy trẻ bên cạnh nó đã xác nhận mối nghi ngờ của nó khi cô nói trong lúc vẫn vẫy vẫy xoay xoay cây đũa phép, “Có ai biết cái mụ già quỷ cái có thẩm vấn bọn Muggle hết ngày không ta?”
“Coi chừng đó,” ông pháp sư ngồi bên cạnh cô ta nói, liếc chung quanh lo lắng; một tờ trong mớ giấy của ông ta tuột ra rớt xuống sàn.
“Sao, bộ bây giờ mụ ta có cả tai pháp thuật như mắt pháp thuật hả?”
Cô phù thủy đưa mắt về phía cánh cửa gỗ gụ bóng lưỡng đối diện cái không gian đầy những phù thủy chế tạo sách; Harry cũng nhìn theo, và cơn giận lồng lên như một con rắn trong người nó. Ở chỗ mà cửa nhà của dân Muggle thường có một cái lỗ nhỏ để dòm ra, thì ở đây lại là một con mắt tròn to có tròng mắt màu xanh lơ sáng được cẩn vô trong gỗ – một con mắt quen đến giật mình đối với những ai đã từng biết thầy Alastor Moody.
Trong một tích tắc Harry quên béng nó đang ở đâu và việc nó đang làm: nó thậm chí quên rằng nó đang tàng hình. Nó sải bước dài đi thẳng tới cánh cửa để xem xét con mắt. Con mắt không động đậy: chỉ liệt cứng, đăm đăm nhìn lên, mù tịt. Tấm biển bên dưới con mắt ghi:
Dolores Umbridge
Phụ tá cao cấp của Bộ trưởng
Bên dưới nữa là một tấm biển mới hơi bóng hơn ghi:
Trưởng ban Đăng ký phù thủy gốc Muggle
Harry ngoái nhìn lại mười hai phù thủy chế tạo sách: mặc dù họ chăm chú vào công việc, nó khó lòng nghĩ rằng họ sẽ không để ý một khi cánh cửa văn phòng không có người lại mở ra trước mắt. Vì vậy nó lấy từ túi áo trong ra một vật kỳ cục với phần thân là một cái còi có bụng tròn bằng cao su và hai chân nhỏ đạp lia lịa. Ngồi thụp xuống trong lớp Áo khoác Tàng hình, nó đặt cái Mìn bẫy trên sàn.
Cái vật đó lập tức lon ton chạy xuyên qua đám chân cẳng của các phù thủy pháp sư trước mặt Harry. Một lát sau, vừa đủ thời gian để Harry đặt sẵn tay lên nắm đấm cửa chờ đợi, một tiếng nổ đùng và một cuộn khói cay xè phồng lên ở một góc. Cô phù thủy trẻ ngồi hàng đầu thét lên: những tờ giấy hồng bay tá lả trong lúc cô ta và những đồng nghiệp nhảy dựng lên, nhìn quanh quất tìm kiếm nguyên nhân của vụ chấn động. Harry xoay nắm đấm cửa, bước vào văn phòng mụ Umbridge, khép cánh cửa lại sau lưng.
Nó có cảm giác như bước vào quá khứ. Căn phòng này y chang văn phòng mụ Umbridge ở trường Hogwarts: màn che trướng rủ ren rua lòng thòng, chỗ nào cũng thấy phủ khăn lót bàn với hoa khô. Tường cũng gắn mấy cái dĩa kiểu như trước, mỗi cái vẽ một con mèo thắt nơ màu sắc chói chang, nhí nhảnh giỡn hớt với vẻ ranh ma phát ói. Bàn giấy mà trải khăn ren hoa hòe. Đằng sau con mắt của thầy Mắt Điên có gắn kèm một cái kính viễn vọng để mụ Umbridge có thể theo dõi các công nhân bên ngoài cánh cửa. Harry dòm qua cái kính thấy các công nhân đang túm tụm quanh cái ngòi nổ. Nó vặn tháo cái kính viễn vọng ra khỏi cửa, chừa lại một cái lỗ, rút con mắt pháp thuật ra khỏi đó, và đặt con mắt vào túi áo nó. Rồi nó quay lại nhìn căn phòng một lần nữa, giơ cây đũa phép lên, lẩm nhẩm: “Mặt dây chuyền lại đây.”
Chẳng có gì xảy ra, nhưng nó cũng chẳng trông mong xảy ra việc đó; chắc chắn mụ Umbridge biết rành tất cả các bùa chú bảo vệ. Vì vậy nó vội vã đi vòng ra sau bàn giấy của mụ và bắt đầu kéo tất cả ngăn kéo ra. Nó thấy nào viết lông ngỗng, sổ ghi chép và bùa dán; kẹp giấy được ếm bùa từ ngăn kéo cuộn lên như rắn và phải đập chúng xuống; một hộp ren nho nhỏ kiểu cọ đầy những nơ và kẹp tóc thừa; nhưng chẳng có dấu hiệu nào của cái mặt dây chuyền.
Có một tủ hồ sơ đằng sau bàn giấy: Harry bắt đầu lục lọi. Giống như tủ hồ sơ của thầy Filch ở trường Hogwarts, cái tủ này cũng đầy những tập hồ sơ, mỗi tập đều có nhãn ghi một cái tên. Chỉ đến khi Harry lục tới gần đáy tủ nó mới thấy một thứ kéo sự chú ý của nó ra khỏi cuộc tìm kiếm, hồ sơ ông Weasley.
Nó rút tập hồ sơ và mở ra.
Arthur Weasley
Tình trạng Thuần chủng, nhưng có khuynh hướng ủng hộ Muggle không chấp nhận được. Hội viên công huyết khai của Hội Phượng Hoàng. thống:
Gia Có vợ (thuần chủng), bảy con, hai đứa nhỏ nhất học ở trường Hogwarts. Lưu ý: đứa con trai đình: nhỏ nhất hiện đang ở nhà, bệnh nặng, thanh tra của Bộ đã xác nhận.
Tình trạng BỊ THEO DÕI. Tất cả hoạt động đều đang được giám sát. Rất có khả năng Kẻ Phá Rối số 1 an sẽ tiếp xúc (từng sống trong gia đình Weasley trước đây.) ninh:
.
“Kẻ Phá Rối Số Một”, Harry lẩm bẩm trong miệng khi nó đặt trả lại hồ sơ ông Weasley và đóng ngăn kéo. Nó thoáng nghĩ nó biết kẻ đó là ai, và đúng như nó nghĩ, khi đứng thẳng lên và liếc nhìn quanh căn phòng để tìm những chỗ cất giấu khác, nó thấy một áp phích có hình của chính nó dán trên tường với hàng chữ KẺ PHÁ RỐI SỐ MỘT in nổi bật ngang ngực nó. Một mẩu ghi chú nhỏ màu hồng với hình con mèo con ở góc được ghim vô tấm áp phích. Harry băng ngang căn phòng để đọc và thấy mụ Umbridge đã viết tay mấy chữ “Sẽ bị trừng phạt.”
Giận chưa từng thấy, Harry tiếp tục tìm kiếm dưới đáy những chậu những rổ đựng hoa khô, nhưng chẳng ngạc nhiên chút nào khi không tìm thấy cái mặt dây chuyền ở đó. Nó nhìn lướt khắp phòng một lần chót, và trái tim nó thót một cái. Cụ Dumbledore đang trố mắt nhìn nó từ một tấm kiếng nhỏ hình chữ nhật dựng dựa vào kệ sách bên cạnh bàn giấy.
Harry chạy ngang qua phòng và chụp lấy tấm kiếng, nhưng ngay lúc chạm tay vô, nó kịp nhận ra rằng vật đó không phải là một tấm kiếng. Cụ Dumbledore đang mỉm cười buồn bã trên bìa một cuốn sách láng bóng. Harry không nhận ra ngay tức thì hàng chữ xanh uốn éo vắt ngang qua cái nón của cụ – Chuyện Đời và Chuyện Xạo của Albus Dumbledore – kể cả dòng chữ hơi nhỏ hơn vắt ngang qua ngực cụ: “Rita Skeeter, tác giả ăn khách nhất của quyển Armando Dippet: Bậc Thầy hay Thằng Dở Hơi?”
Harry mở đại cuốn sách ra và thấy chiếm hết trang sách là một tấm hình của hai cậu bé mười mấy tuổi, cả hai cùng quàng vai nhau cười toe toét. Cậu Dumbledore, lúc chụp hình tóc để dài tới cùi chỏ, và đã để râu mọc lưa thưa khiến Harry nhớ tới cái cằm của Krum từng khiến Ron bực mình hết chỗ nói. Cậu thiếu niên đang hét vui không thành tiếng bên cạnh cậu Dumbledore có một vẻ mặt hân hoan phóng túng. Mái tóc vàng óng của cậu rủ xuống vai thành từng lọn loăn xoăn. Harry tự hỏi đó có phải là cụ Doge thời trẻ không, nhưng nó chưa kịp coi ghi chú về tấm hình thì cánh cửa văn phòng mở ra.
Nếu ông Thicknesse không ngoái nhìn lại sau lưng khi bước vào phòng, Harry sẽ không có đủ thời giờ để kéo tấm Áo khoác Tàng hình trùm qua người nó. Dù vậy, nó nghĩ ông Thicknesse có lẽ đã thoáng thấy cử động đó, bởi vì ông đứng yên mất một lát, tò mò ngó chằm chằm vào chỗ mà Harry vừa tàng hình. Có lẽ ông cho là điều ông vừa thấy chẳng qua là ảnh cụ Dumbledore gãi mũi trên bìa cuốn sách, vì Harry vừa vội vàng đặt trả cuốn sách lên kệ. Cuối cùng ông Thicknesse đi tới bàn giấy và chĩa cây đũa phép vào cây viết lông ngỗng đã cắm sẵn trong bình mực. Cây viết nhảy vọt ra và bắt đầu hí hoáy một bức thư ngắn cho mụ Umbridge. Chậm thật chậm, gần như nín thở, Harry lùi ra khỏi văn phòng để tới chỗ trống bên ngoài.
Những người làm sách đang túm tụm quanh tàn tích của cái Mìn bẫy vẫn còn la huýt yếu ớt khi bốc khói. Harry vội vã đi ngược lên hành lang đúng lúc cô phù thủy trẻ nói, “Tôi dám cá là nó trốn ra đây từ phòng Bùa chú Thể nghiệm, họ ẩu lắm, còn nhớ vụ con vịt độc không?”
Đi thật nhanh về phía thang máy, Harry cân nhắc những khả năng để quyết định. Không có nhiều khả năng lắm là cái mặt dây chuyền đang ở trong Bộ, và không có hy vọng phù phép cách nào có thể moi ra tung tích của nó từ mụ Umbridge khi mụ ta ngồi giữa một phiên xử đông người. Ưu tiên của tụi nó lúc này là rời khỏi Bộ trước khi tụi nó bị lộ, và ngày khác sẽ thử thời vận lại. Việc đầu tiên cần làm là đi tìm Ron, hai đứa nó có thể kiếm cách nào đó rút Hermione ra khỏi phòng xử án.
Thang máy trống vắng khi lên tới nơi. Harry nhảy ngay vô và cởi tấm Áo khoác
Tàng hình ra khi thang máy bắt đầu xuống. Khi thang máy lắc lư ngừng lại ở tầng hai,
Harry hú vía thở phào khi thấy Ron bước vào, ướt nhem và bơ phờ.
“Ch… chào,” Ron nói cà lăm với Harry khi thang máy tiếp tục chạy.
“Ron, mình là Harry nè. “
“Harry! Mèn ơi, mình quên béng tướng tá bồ ra sao… sao Hermione không đi chung với bồ?”
“Nó phải đi xuống phòng xử án với mụ Umbridge, nó không thể nào tránh việc được và…”
Nhưng Harry chưa kịp nói dứt câu thì thang máy lại ngừng. Cửa mở ra và ông Weasley vừa bước vào, vừa nói chuyện với một bà phù thủy đứng tuổi có mái tóc vàng hoe được bới cao đến nỗi trông tựa như ổ kiến.
“… tôi hoàn toàn hiểu điều bà nói, bà Wakanda à, nhưng tôi e là tôi không thể đứng về phe…”
Ông Weasley nín bặt, ông đã nhận ra sự hiện diện của Harry. Thiệt kỳ lạ khi bị ông Weasley trừng mắt nhìn với vẻ căm ghét nhiều như vậy. Cửa thang máy đóng và cả bốn người lại lắc lư tuột xuống.
“A, chào ông Reg,” ông Weasley nói khi ngoái nhìn lại vì tiếng nước nhễu long tong từ tấm áo chùng của Ron. “Không phải vợ ông đang bị thẩm vấn bữa nay sao? Ủa… Ông bị sao vậy? Sao ông ướt nhem vậy?”
“Văn phòng Yaxley bị mưa,” Ron nói. Nó nói với bờ vai ông Weasley, và Harry biết chắc chắn là Ron sợ ba nó rất có thể nhận ra nó nếu hai người nhìn thẳng vào mắt nhau. “Tôi không thể nào làm ngừng mưa được, cho nên họ biểu tôi đi kiếm Bernie – Pillsworth, tôi nghĩ họ nói…”
“Ừ, gần đây nhiều văn phòng bị mưa lắm,” ông Weasley nói. “Mà ông đã thử phép Đánh lùi bùa Khí tượng chưa? Ông Bletchley xài phép đó thành công lắm. “
“Đánh lùi Bùa Khí tượng,” Ron nói khẽ. “Chưa, con chưa thử. Cám ơn b… ý tôi muốn nói, cám ơn ông, ông Arthur à.”
Cửa thang máy mở ra; bà phù thủy đứng tuổi tóc bới hình ổ kiến bước ra, và Ron vọt qua bà biến mất hút. Harry tính đi theo Ron, nhưng nó bị Percy Weasley cản đường khi anh chàng này vừa chúi mũi đọc giấy tờ vừa bước gấp vào thang máy.
Mãi đến khi cửa thang máy đóng lại lanh canh Percy mới nhận ra anh ta đang đi chung thang máy với ba mình. Anh ta liếc nhìn lên, thấy ông Weasley, mặt mày đỏ bừng, và bỏ ra khỏi thang máy ngay khi cửa lại mở ra. Trong một thoáng, Harry toan bước ra, nhưng lần này nó bị ngáng lại bởi cánh tay của ông Weasley.
“Khoan đã, ông Runcorn.”
Cửa thang máy đóng lại và trong khi thang máy lanh canh tụt xuống, ông Weasley nói, “Tôi nghe ông đã có thông tin về Dirk Cresswell?”
Harry có ấn tượng là cơn giận của ông Weasley không hề nguôi đi vì cái sự Percy làm lơ ông. Nó quyết định cứ ngu là tốt nhất.
“Xin lỗi?”
“Đừng vờ vịt, ông Runcorn,” ông Weasley nói giọng giận dữ. “Ông đã dò ra vị pháp sư giả mạo gia phả, đúng không?”
“Tôi… nếu tôi đã làm vậy thì sao?” Harry nói.
“Thì ông Dirk Cresswell là phù thủy giỏi hơn ông mười lần,” ông Weasley nói khẽ, khi thang máy tuột xuống thấp hơn. “Và nếu ông ấy sống sót qua hạn tù ở Azkaban, ông sẽ phải trả lời ông ấy, chưa kể tới vợ, các con trai, và bạn bè ông ấy…”
“Ông Arthur à,” Harry ngắt lời, “ông có biết ông đang bị theo dõi không?” “Ông dọa tôi hả, Runcorn?” Ông Weasley la lớn.
“Không.” Harry nói. “Sự thật là vậy! Họ đang giám sát mọi hành vi cử…”
Cửa thang máy mở ra. Hai người đã xuống tới Cổng vòm. Ông Weasley khinh miệt nhìn Harry rồi bỏ ra khỏi thang máy. Harry vẫn còn đứng đó, run rẩy. Nó ước gì nó đã giả mạo người nào khác chứ không phải tay Runcorn này… Cửa thang máy đóng lại lanh canh.
Harry rút tấm Áo khoác Tàng hình ra và lại mặc vào. Nó sẽ cố gắng một mình giải thoát Hermione trong khi Ron giải quyết vụ mưa văn phòng. Khi cửa mở, nó bước ra một hành lang lát đá được rọi bằng ánh đuốc hoàn toàn khác những hành lang trải thảm ốp gỗ ở những tầng trên. Lúc cái thang máy lắc lư kéo lên, Harry hơi rùng mình, nhìn về phía cánh cửa màu đen ở đằng xa chặn lối vào Sở Bí mật.
Nó bước đi, mục tiêu của nó không phải là cánh cửa đen, mà là khung cửa ở bên tay trái theo như nó nhớ, khung cửa mở ra cầu thang đi xuống những phòng xử án. Khi đi rón rén xuống những bậc thang, đầu óc Harry bám lấy mấy khả năng: nó vẫn còn hai trái Mìn bẫy, nhưng có lẽ chỉ cần gõ cửa phòng xử mà vào với tư cách Runcorn thì tốt hơn, rồi yêu cầu được nói vài lời với bà Mafalda. Dĩ nhiên, nó không biết danh phận tay Runcorn này có đủ quan trọng để qua thoát vụ này hay không, và ngay cả nếu như nó xoay sở trót lọt, thì liệu việc Hermione biến mất luôn có gây ra một vụ lục soát trước khi tụi nó ra khỏi Bộ không…
Mải suy nghĩ nó không cảm nhận được ngay một cơn ớn lạnh bất thường khiến nó rùng mình, như thể nó vừa sa vào một đám sương mù. Theo mỗi bước đi tới, nó càng lúc càng thấy lạnh hơn, một cái lạnh xộc thẳng vào cổ họng và xé banh buồng phổi nó. Và rồi nó nhận ra cái cảm giác thất vọng, vô vọng lén lút đó đang tràn vào nó, đang trương nở bên trong nó…
“Giám ngục,” nó nghĩ.
Và khi xuống tới bậc cuối cùng của cầu thang rồi rẽ phải, nó thấy một cảnh hãi hùng. Lối đi tối thui bên ngoài phòng xử án đầy ắp những hình thù cao nghều đội mũ trùm đen che kín hoàn toàn gương mặt, tiếng thở phì phèo của chúng là âm thanh duy nhất vang lên nơi đây. Những phù thủy gốc Muggle bị đưa vào để thẩm vấn ngồi dồn cục trên những băng ghế gỗ cứng sợ điếng người và run lập cập. Hầu hết họ đều úp mặt vào hai bàn tay, có lẽ là một cố gắng theo bản năng che chắn mình khỏi những cái miệng tham tàn của bọn Giám ngục. Một số người cùng đi với gia đình, một số khác ngồi một mình. Bọn Giám ngục vờn qua vờn lại trước mặt họ, và cái lạnh giá, nỗi vô vọng, nỗi tuyệt vọng ở chốn này ập xuống Harry như một lời nguyền…
Chống lại, nó tự nhủ, nhưng nó biết là nó không thể triệu Thần Hộ mệnh đến đây mà không để lộ hành tung ngay tức thì. Cho nên nó đi nhanh tới trước, hết sức lặng lẽ, và theo mỗi bước nó đi, sự tê điếng dường như chiếm dần óc nó, nhưng nó buộc mình phải nghĩ đến Hermione và Ron, những người đang cần đến nó.
Đi xuyên qua những hình thù đen thui cao nghệu thật dễ sợ: những gương mặt không mắt khuất dưới mũ trùm quay theo nó khi nó đi ngang qua, và nó cảm thấy chắc chắn chúng đánh hơi được nó, có lẽ đánh hơi được sự hiện diện của con người vẫn còn chút hy vọng nào đó, vẫn còn chút phản kháng nào đó.
Và rồi, một trong những cánh cửa căn hầm bên trái hành lang bật mở và tiếng gào thét từ đó vang dội ra, đột ngột và kinh hoàng giữa sự im lặng đông cứng.
“Không, không, tôi lai mà, tôi hai dòng máu, tôi thề! Cha tôi là phù thủy, ông tôi là phù thủy, tra cứu lại dùm tên Arkie Alderton, ông là người thiết kế chổi bay nổi tiếng, tra lại tên ông ấy đi, tôi thề… buông tôi ra, buông tôi ra…”
“Đây là lời cảnh cáo cuối cùng cho ông,” giọng êm dịu của mụ Umbridge vang lên, được khuếch âm bằng pháp thuật để vang to át hẳn tiếng gào thét tuyệt vọng của người đàn ông. “Nếu ông còn chống cự, ông sẽ phải lãnh Nụ hôn của Giám ngục.”
Tiếng kêu gào của người đàn ông lắng xuống, nhưng tiếng khóc uất nghẹn vẫn còn vang vọng suốt hành lang.
“Đem hắn đi,” mụ Umbridge nói.
Hai tên Giám ngục xuất hiện ở ngưỡng cửa của phòng xử án, mấy bàn tay sứt sẹo mục rữa của chúng túm chặt lấy cánh tay của ông pháp sư, ông ta dường như đang chết ngất. Chúng lôi ông lướt xuống hành lang, và bóng tối chúng để lại đằng sau nuốt chửng ông khiến không còn ai thấy ông đâu nữa.
“Tiếp theo… Mary Cattermole,” mụ Umbridge gọi.
Một người đàn bà nhỏ xíu đứng dậy; bà run rẩy từ đầu đến chân. Mái tóc đen của bà được chải mướt ra sau và bới lại thành một búi và bà mặc một bộ áo chùng trơn dài. Gương mặt của bà cắt không còn giọt máu. Khi bà đi ngang qua bọn Giám ngục, Harry thấy bà rùng mình.
Khi cánh cửa căn hầm bắt đầu chuyển động để đóng lại, Harry lách vào phòng xử án sau lưng bà Cattermole. Nó đã hành động theo bản năng, chứ không tính toán gì ráo, chẳng qua nó ghét cái cảnh bà ta bước một mình vào căn hầm.
Đây không phải căn hầm mà nó từng bị thẩm vấn vì dùng pháp thuật không đúng luật. Căn hầm này nhỏ hơn nhiều, mặc dù trần hầm vẫn rất cao, gây ra nỗi hoảng sợ tưởng đâu bị kẹt dưới một đáy giếng sâu.
Trong này còn có nhiều Giám ngục hơn nữa, chúng tỏa hơi lạnh buốt khắp nơi; chúng đứng như những lính canh không mặt mũi ở những góc xa nhất trên những cái bục cao. Trên bục, sau hàng chấn song, mụ Umbridge ngồi giữa Yaxley và Hermione, mặt cô nàng này tái mét như mặt bà Cattermole. Dưới chân bục, một con mèo lông dài màu bạc óng ánh lẩn quẩn bò lên bò xuống, rồi bò xuống bò lên, và Harry nhận thấy con mèo ở đó để bảo vệ những công tố viên khỏi nỗi tuyệt vọng phát ra từ bọn Giám ngục: nỗi tuyệt vọng là để dành cho kẻ bị buộc tội, chứ không phải cho kẻ kết án.
“Ngồi xuống,” mụ Umbridge nói bằng giọng êm dịu mượt mà.
Bà Cattermole lụp chụp vấp váp đi tới cái ghế đơn đặt giữa sàn bên dưới cái bục. Khi bà đã ngồi xuống, dây xích loảng xoảng thò ra từ chỗ gác tay của cái ghế trói bà vô đó.
“Bà là Mary Elizabeth Cattermole hả?” Mụ Umbridge hỏi.
Bà Cattermole chỉ run run gật đầu một cái.
“Kết hôn với ông Reginald Cattermole của Sở Bảo trì Pháp thuật hả?” Bà Cattermole bật khóc.
“Tôi không biết anh ấy đang ở đâu, lẽ ra anh ấy phải gặp tôi ở đây!” Mụ Umbridge phớt lờ bà Cattermole.
“Mẹ của Maisie, Ellie, và Alfred Cattermole hả?” Bà Cattermole càng khóc thảm thiết hơn.
“Mấy đứa nhỏ sợ lắm, tụi nó sợ tôi sẽ không thể trở về nhà…”
“Miễn giùm đi,” Yaxley nạt. “Đám con nít ranh của bọn Máu bùn không gợi được thương cảm của bọn ta đâu.”
Tiếng nức nở của bà Cattermole đã che át được tiếng chân bước của Harry khi nó thận trọng đi về phía những bậc thềm dẫn lên cái bục cao. Khi nó ngang qua chỗ con mèo Thần Hộ mệnh đang đi tuần, nó cảm thấy sự thay đổi nhiệt độ ngay: ở đó ấm áp và dễ chịu. Nó chắc chắn Thần Hộ mệnh là của mụ Umbridge, và con mèo sáng lên rực rỡ như vậy bởi vì mụ Umbridge quá vui ở đây, trong môi trường của mụ, bảo vệ những luật quái dị mà mụ đã góp phần thảo ra. Từ từ và hết sức cẩn thận, Harry lách dài theo cái bục đằng sau lưng mụ Umbridge, Yaxley và Hermione, ngồi xuống cái ghế đằng sau Hermione. Nó ngại làm cho Hermione giật mình. Nó nghĩ đến chuyện ếm bùa Ù tai lên mụ Umbridge và gã Yaxley, nhưng chỉ riêng việc rì rầm câu thần chú cũng đủ khiến cho Hermione giật mình. Bỗng mụ Umbridge cất cao giọng nói với bà Cattermole, và Harry chụp lấy cơ hội đó ngay.
“Mình ở sau lưng bồ,” nó thì thầm vào tai Hermione.
Đúng như nó dự kiến, cô nàng giật bắn người mạnh đến nỗi suýt hất đổ bình mực mà cô nàng lẽ ra dùng để ghi biên bản cuộc thẩm vấn, nhưng cả mụ Umbridge và gã Yaxley đều đang tập trung vào bà Cattermole, nên chuyện này xảy ra mà không bị chú ý.
“Bà Cattermole, khi bà đến Bộ hôm nay, bà đã bị tước một cây đũa phép,” mụ Umbridge nói, “Tám-và-ba-phần-tư phân, gỗ anh đào, lõi lông kỳ lân. Bà có nhận ra đúng như miêu tả không?”
Bà Cattermole gật đầu, chùi nước mắt bằng tay áo.
“Bà có thể cho chúng tôi biết bà đã lấy cây đũa phép đó từ vị phù thủy hay pháp sư nào không?”
“Lấy… lấy?” Bà Cattermole khóc nức nở. “Tôi đâu có… lấy của ai. Tôi m… mua nó khi tôi mười một tuổi. Nó… nó… nó… chọn tôi mà.”
Bà khóc thảm thiết hơn nữa.
Mụ Umbridge phá ra cười giọng ẻo lả kiểu con gái khiến Harry chỉ muốn đập. Mụ chồm tới trên hàng chấn song để ngắm nạn nhân kỹ hơn, và một cái gì đó bằng vàng cũng đung đưa tới trước và lòng thòng giữa khoảng không: cái mặt dây chuyền.
Hermione cũng đã thấy cái đó; cô bé thốt ra một tiếng ré nho nhỏ, nhưng mụ Umbridge và gã Yaxley vẫn đang mải mê vờn mồi, không nghe thấy gì hết.
“Không,” mụ Umbridge nói. “Không, tôi không tin đâu, bà Cattermole à. Những cây đũa phép chỉ chọn phù thủy và pháp sư. Bà không phải là phù thủy. Tôi có ở đây bản trả lời của bà cho cuộc điều tra mà chúng tôi đã gởi cho bà… Mafalda, cô đưa hồ sơ cho tôi.”
Mụ Umbridge chìa ra một bàn tay nhỏ: lúc đó mụ trông giống một con cóc đến nỗi Harry hơi ngạc nhiên thấy giữa những ngón tay múp míp của mụ không có màng da. Hai bàn tay của Hermione đang run run vì sửng sốt. Cô bé xốc tung đống tài liệu đặt cân xứng trên cái ghế bên cạnh, cuối cùng rút ra một xấp giấy da có tên của bà Cattermole trên đó.
“Cái đó… cái đó xinh ghê, bà Dolores à,” Hermione nói, chỉ vào cái mặt dây chuyền lấp lánh trên những nếp gấp dợn sóng của cái áo mụ Umbridge.
“Cái gì?” Mụ Umbridge nói như táp lại, mắt liếc xuống, “À, phải… một món gia bảo cổ xưa,” mụ nói, vỗ vỗ nhẹ lên cái mặt dây chuyền đang nằm trên bộ ngực đồ sộ của mụ. “Chữ S viết tắt của chữ Selwyn… Tôi có bà con với Selwyn… thật ra thì hiếm có gia đình thuần chủng nào mà tôi không có họ hàng… Đáng tiếc,” mụ nói tiếp giọng lớn hơn, tay gõ gõ trên bản trả lời câu hỏi điều tra của bà Cattermole, “là không thể nói như thế về bà. ‘Nghề nghiệp cha mẹ: buôn bán rau cải’.”
Yaxley cười giễu. Phía dưới, con mèo bạc lông xù rảo lên rảo xuống, và bọn Giám ngục đứng đợi ở góc phòng.
Chính lời nói láo của mụ Umbridge đã làm máu trào lên tới đầu Harry và bịt tắc ý thức thận trọng của nó – cái mặt dây chuyền mà mụ ta ăn hối lộ từ một tên trộm vặt lại đang được mụ ta dùng để nổ về danh giá thuần chủng của chính mình. Harry giơ cao cây đũa phép, thậm chí không buồn giấu giếm cây đũa dưới tấm Áo khoác Tàng hình, và hô: “Điểm huyệt!”
Một tia sáng đỏ nhá lên; mụ Umbridge ngã gục xuống, trán dập vào cạnh của hàng chấn song: hồ sơ của bà Cattermole tuột khỏi đùi mụ rớt xuống sàn, và bên dưới, con mèo bạc đang lởn vởn bỗng biến mất. Khí lạnh như băng ập vào mọi người như một luồng gió đang xộc tới. Bối rối, Yaxley ngoái lại tìm nguyên nhân sự cố và thấy bàn tay Harry chơ vơ không đầu mình đang cầm đũa phép chĩa ngay vào hắn. Hắn toan rút cây đũa phép của hắn ra, nhưng trễ quá rồi: “Điểm huyệt!” Yaxley trượt té xuống đất nằm còng queo trên sàn.
“Harry!”
“Hermione à, nếu bồ cho là mình cứ ngồi yên đây để cho mụ giả đò…” “Harry, bà Cattermole!”
Harry xoay vòng lại, cởi phắt tấm Áo khoác Tàng hình ra; phía dưới, bọn Giám ngục đã rời khỏi những góc phòng; chúng đang lướt về phía người đàn bà bị xiềng xích vào cái ghế: có thể vì Thần Hộ mệnh đã biến mất hoặc vì cảm thấy không bị chủ kiểm soát nữa, chúng dường như bứt bỏ sự ràng buộc. Bà Cattermole thét lên một tiếng gào khủng khiếp đầy hoảng sợ khi bàn tay sứt sẹo nhầy nhụa chụp lấy cằm của bà ấn mặt bà ra sau.
“HÚ HỒN THẦN HỘ MỆNH!”
Con hươu bạc phóng ra từ đầu cây đũa phép của Harry và nhảy về phía bọn Giám ngục khiến bọn chúng rút lui và lại tan vào bóng tối. Ánh sáng của con hươu mạnh và ấm hơn sức bảo vệ của con mèo, tràn khắp căn hầm khi nó phi quanh phòng.
“Lấy cái Trường Sinh Linh Giá,” Harry bảo Hermione.
Nó chạy ngược xuống những bậc thang, nhét tấm Áo khoác Tàng hình trở vào ba lô, và đến bên bà Cattermole.
“Ông sao?” Bà ngó mặt nó trân trân, thì thào. “Nhưng… nhưng anh Reg nói ông là kẻ đã nộp tên tôi để điều tra mà!”
“Tôi hả?” Harry lẩm bẩm, giật mạnh sợi dây xích đang trói cánh tay bà, “À, tôi vừa đổi ý. Cắt đứt!” Không có gì xảy ra. “Hermione, làm sao cởi bỏ những xiềng xích này?”
“Chờ tí, mình đang bận tay trên này…”
“Hermione! Tụi mình đang ở giữa vòng vây của bọn Giám ngục!”
“Mình biết, Harry à, nhưng nếu mụ ta tỉnh lại và thấy mất cái mặt dây chuyền thì…
mình phải chế ra một cái giống hệt… Sinh đôi! Được rồi… Vậy là mụ sẽ bị lừa…” Hermione chạy xuống những bậc thang.
“Để coi… Giải thoát!”
Xiềng xích kêu loảng xoảng và rút lại vào tay ghế. Bà Cattermole có vẻ còn hoảng sợ hơn cả trước đó.
“Tôi không hiểu,” bà thì thào.
“Bà phải rời khỏi nơi đây với tụi này,” Harry vừa nói vừa kéo bà đứng lên. “Về nhà, dắt con cái chạy xa, chạy ra khỏi xứ này nếu cần. Tự cải trang và chạy trốn đi. Bà đã thấy chuyện này như thế nào rồi đó, bà sẽ chẳng có được phiên tòa công minh nào ở đây đâu.”
“Harry,” Hermione nói, “Làm sao tụi mình ra khỏi chỗ này khi bọn Giám ngục đầy nhóc ngoài cửa?”
“Thần Hộ mệnh,” Harry nói, chĩa cây đũa phép vào chính Thần Hộ mệnh của nó. Con hươu chạy chậm lại rồi thong thả bước đi về phía cửa, vẫn tỏa sáng rạng rỡ. “Gọi lên được càng nhiều càng tốt; bồ gọi Thần Hộ mệnh của bồ đi, Hermione”
“Hú… Hú hồn Thần Hộ mệnh,” Hermione hô lên, nhưng chẳng có gì xảy ra.
“Đây là thần chú duy nhất mà cô ấy bị trục trặc,” Harry nói với bà Cattermole đang kinh ngạc hết sức. “Hơi xui xẻo, thiệt là… ráng lên, Hermione…”
“Hú hồn Thần Hộ mệnh!”
Một con rái cá bạc vọt ra từ đầu cây đũa phép của Hermione và duyên dáng bơi trong không khí để đến hỗ trợ con hươu.
“Đi thôi,” Harry nói, và nó dẫn Hermione cùng bà Cattermole chạy ra cửa.
Khi các Thần Hộ mệnh lướt ra khỏi căn hầm, đám người ngồi đợi bên ngoài đều sửng sốt. Harry nhìn quanh; bọn Giám ngục đã giạt sang hai bên, tan biến vào bóng tối, tan tác trước những Thần Hộ mệnh.
“Đã có quyết định là tất cả mọi người nên về nhà và cùng gia đình đi tìm chỗ trốn,” Harry nói với những phù thủy gốc Muggle đang ngồi đợi, họ đều bị chói mắt vì ánh sáng của những Thần Hộ mệnh và vẫn còn co ro cúm rúm. “Trốn ra nước ngoài nếu có thể. Miễn là tránh thiệt xa Bộ. Đó là… ơ… quan điểm chính thức mới ra. Bây giờ mọi người chỉ cần đi theo các Thần Hộ mệnh là có thể ra tới Cổng vòm.
Tụi nó xoay sở đến được những bậc thềm đá mà không bị trở ngại lắm, nhưng khi đi tới gần thang máy, Harry bắt đầu hoang mang lo ngại. Nếu tụi nó kéo vào Cổng vòm với sự hộ tống của một con hươu bạc và một con rái cá bạc, cùng với khoảng hai chục người bị cáo là phù thủy gốc Muggle, thì Harry không thể không lo việc tụi nó sẽ thu hút sự quan tâm ngoài ý muốn. Nó vừa đạt được cái kết luận không đáng phấn khởi này thì thang máy kêu lanh canh ngừng lại trước mặt tụi nó.
“Anh Reg!” Bà Cattermole hét lên, và lao mình vào cánh tay Ron. “Anh Runcorn thả em ra, anh ấy đánh mụ Umbridge và gã Yaxley, và anh ấy biểu tất cả tụi mình bỏ xứ mà đi. Em thấy mình nên làm vậy, anh Reg à. Thiệt mà, tụi mình mau mau về nhà dắt díu con cái và… Sao anh ướt nhem vậy?”
“Nước,” Ron làu bàu, tự gỡ mình ra khỏi tay bà Cattermole. “Harry, chúng biết có kẻ đột nhập ở trong Bộ, chuyện gì đó dính tới cái lỗ trên cánh cửa văn phòng mụ Umbridge. Mình đoán là tụi mình có chừng năm phút nếu…”
Thần Hộ mệnh của Hermione biến mất bằng một tiếng nổ bụp khi cô bé quay gương mặt kinh hoàng về phía Harry.
“Harry, nếu tụi mình bị kẹt ở đây…”
“Nếu chúng ta đi nhanh lên thì sẽ không bị kẹt lại,” Harry nói. Nó nói với đám người im lặng đằng sau tụi nó, tất cả đều đang trố mắt nhìn nó trân trân.
“Ai có đũa phép?”
Khoảng một nửa số người giơ tay lên.
“Được, tất cả những ai không có đũa phép phải bám vào người nào có đũa phép. Chúng ta phải thật nhanh trước khi họ chặn chúng ta lại. Đi thôi.”
Cả đám cố nhồi nhét hết vào hai cái thang máy. Thần Hộ mệnh của Harry đứng gác trước cánh cửa lưới bằng vàng khi cửa đóng lại và thang máy bắt đầu kéo lên.
“Tầng tám,” giọng bình thản của một bà phù thủy vang lên. “Cổng vòm.”
Harry biết ngay là tụi nó gặp rắc rối to. Cổng vòm đầy người đang đi từ lò sưởi này đến lò sưởi khác để niêm phong lại.
“Harry!” Hermione ré lên. “Tụi mình làm gì nữa đây…?”
“NGỪNG LẠI!” Harry gầm lên, và giọng oai phong của Runcorn vang vọng khắp Cổng vòm: những phù thủy đang niêm phong lò sưởi đứng sững ra. “Đi theo tôi.” Nó thì thầm với đám phù thủy gốc Muggle khiếp đảm, họ chúm chụm nhau di chuyển tới trước, bị Hermione và Ron lùa đằng sau.
“Chuyện gì vậy, anh Albert?” Ông pháp sư hói đầu hỏi, chính là cái ông đã cùng chui ra từ một lò sưởi với Harry trước đó. Ông ta có vẻ lo lắng.
“Đám người này cần phải ra khỏi Bộ trước khi các ông niêm phong cửa ra,” Harry nói với tất cả uy quyền mà nó có thể gồng lên được.
Đám pháp sư đứng trước mặt nó nhìn nhau.
“Chúng tôi được lệnh đóng tất cả cửa ra và không để cho bất kỳ ai…”
“Ông cãi lệnh tôi hả?” Harry quát tháo dọa dẫm. “Ông có muốn tôi đem gia phả của ông ra kiểm tra không, như tôi đã làm cho Dirk Cresswell ấy?”
“Dạ, xin lỗi!” Ông pháp sư hói đầu há hốc miệng khiếp sợ đứng thụt lùi lại. “Tôi đâu có ý gì đâu, anh Albert, chẳng qua tôi tưởng… tôi tưởng họ vô đây để thẩm vấn và…”
“Máu của họ thuần,” Harry nói, và giọng trầm đục của nó vang vọng rất ấn tượng khắp sảnh đường. “Thuần hơn rất nhiều người trong bọn các ông, tôi dám nói vậy. Quý vị ra đi,” nó nói oang oang với đám phù thủy gốc Muggle, những người này bèn nhốn nháo chạy tới lò sưởi và bắt đầu biến mất từng cặp một. Các pháp sư của Bộ đứng lưỡng lự, một số tỏ ra bối rối, một số hoảng sợ lo lắng. Bỗng:
“Mary!”
Bà Cattermole ngoái đầu lại. Ông Reg Cattermole thực vừa mới chạy ra khỏi thang máy, sau khi hết ói mửa, nhưng vẫn còn xanh xao mệt mỏi.
“Anh R… Reg?”
Bà Cattermole hết dòm ông chồng đến ngó Ron, nó chửi um lên.
Ông pháp sư hói đầu há hốc miệng, đầu ông quay ngược quay xuôi từ ông Reg Cattermole này đến ông Reg Cattermole kia.
“Ê… chuyện gì đang xảy ra vậy? Vụ này là sao?” “Bít lối ra! Niêm phong cửa!”
Yaxley đã xộc ra từ một thang máy khác và chạy về phía đám người bên cạnh các lò sưởi, nơi tất cả phù thủy gốc Muggle đã chui qua đó biến mất, ngoại trừ bà Cattermole. Khi ông pháp sư hói đầu giơ cao cây đũa phép, Harry cũng giơ nắm đấm bự tổ của nó thụi cho ông một cái, khiến ông ta bay vèo lên không.
“Nãy giờ hắn giúp bọn phù thủy gốc Muggle chạy trốn đó, Yaxley!” Harry thét. Đồng nghiệp của ông hói đầu rộn lên phân bua cãi lại om xòm, thừa cơ hội này Ron
túm chặt bà Cattermole, kéo bà tới một lò sưởi vẫn còn mở, và biến mất. Lúng ta lúng túng, Yaxley hết nhìn Harry đến ông pháp sư bị ăn đấm, trong khi ông Reg Cattermole thực gào lên: “Vợ tôi! Thằng nào đi với vợ tôi vậy? Chuyện gì đang xảy ra đây?”
Harry thấy đầu Yaxley quay lại, nó thấy một tia sự thật lộ dần trên gương mặt đần độn.
“Đi mau!” Harry hét với Hermione; nó nắm tay cô bé và cùng nhảy vào lò sưởi trong lúc lời nguyền của Yaxley bay véo qua đầu của Harry. Tụi nó ngất ngư một lát trước khi vọt ra khỏi cái bồn cầu tiêu trong một cái buồng vệ sinh. Harry mở tung cánh cửa: Ron đang đứng đó bên cạnh mấy chậu rửa mặt, vẫn còn vật lộn với bà Cattermole.
“Anh Reg, em không hiểu…”
“Buông ra, tôi không phải là chồng bà, bà phải đi về nhà ngay.”
Một tiếng động vang lên trong cái buồng vệ sinh đằng sau tụi nó; Harry ngoái nhìn ra sau; Yaxley vừa xuất hiện.
“CHUỒN!” Harry gào lên. Nó nắm tay Hermione và cánh tay Ron rồi xoay mình tại chỗ.
Bóng tối nhận chìm tụi nó, cùng với cảm giác bàn tay ép chặt, nhưng có gì đó không ổn… tay Hermione dường như tuột khỏi nắm tay của nó…
Nó tự hỏi hay là nó sắp chết ngộp; nó không thể thở hay thấy nữa và điều chắc chắn duy nhất trên thế giới này là cánh tay Ron và mấy ngón tay của Hermione đang từ từ tuột ra…
Và nó nhìn thấy cánh cửa ngôi nhà số mười hai, quảng trường Grimmauld, với cái gõ cửa tạc hình con rắn, nhưng chưa kịp lấy hơi lại thì một tiếng thét vang lên cùng một tia sáng tím nhá lên: bàn tay Hermione đột ngột chụp trở lại tay nó và mọi thứ lại đen thui.