Khi Thiên văn bắt những người như vậy phải đóng vai Tiên Tri thì vở kịch luôn luôn biến thành một bi kịch. Còn là may cho nhân loại đấy, nếu lời tiên tri không tiêu trầm luôn với nhà Tiên Tri.
W.A.Freund
Làm được một việc thiện không phải là dễ! Có đủ sáng suốt để thấy con đường phải, đủ nghị lực để theo con đường đó, lại được bạn bè giúp sức, mà rồi phải thất bại trước sự ngu muội mênh mông của người đương thời, tánh thủ cựu bất di, bất dịch của nhân loại, thói tranh quyền, cố vị của người trên, lòng ghen ghét ti tiện của đồng nghiệp, đó là trường hợp chua xót của Ignace Philippe Semmelweis, một người trong ba chục năm hô hào bằng diễn văn, bằng sách báo, mỗi một việc rất dễ dàng là rửa tay, để cứu hàng triệu nhân mạng, mà chẳng ai theo cả, lại còn cản trở, chế giễu nữa, đến nỗi thấy đàn bà, trẻ con cứ chết như rạ, ông đau lòng quá hóa mất trí, tìm cách tự tử rồi tắt thở trong một nhà thương điên, xa quê hương, xứ sở.
Ông sinh ngày 01 tháng 07 năm 1918 ở Budapest (Hung Gia Lợi), trước Pasteur 4 năm, trong một gia đình bán tạp hóa. Cha là Joseph và mẹ là Thérèse.
Tuổi nhỏ của ông không có gì đặc biệt. Năm 19 tuổi, ông lại Vienne, kinh đô Áo, học luật. Một hôm, ông theo bạn lại trường y khoa, dự thính một bài giải phẩu. Nghe giáo sư giảng những huyền bí của cơ thể con người, ông thích quá, về viết ngay một lá thư cho song thân. Thư rằng:
Thưa ba má,
Con ghét môn Luật lắm. Con không thể nào trở thành một nhà Luật học như ba má mong muốn đâu. Từ trước tới nay, như ba má thấy, con không tỏ ý thích một môn nào cả.
Nhưng hôm nay, con đã được dự một buổi giải phẩu. Khi đi, con nửa vui, nửa sợ, mà lại tởm, chỉ coi như một trò đùa thôi (…). Bây giờ thì con biết rằng con phải thành một Y sĩ, chỉ có thể thành một y sĩ thôi, con không thể cưỡng được ý muốn trở thành một Y sĩ. Thế là con đã tìm được một đời sống có ý nghĩa đối với con. Một nghề mà con để tất cả tâm hồn vào.
Xin ba má tha lỗi cho con, hiểu cho con. Con đã xin ghi tên rồi và ngày mai, con bắt đầu học.
o0o
Đúng như lời trong thư, chàng đem tất cả tâm trí để học, quên ăn, quên ngủ, quý những sách y học như Thánh kinh, coi Y khoa học đường như một ngôi đền, đọc sách suốt ngày, gặp chỗ nào không hiểu thì hỏi thầy, hỏi bạn cho được. Một lần, một giáo sư giảng về chất Cơ – lo (Chlore), bảo chất đó có tính cách giết mọi khí độc rất nhanh, ngăn được sự truyền nhiễm. Cả lớp chỉ có một mình chàng đưa tay hỏi:
- Thưa giáo sư, nó giết khí độc cách nào ạ?
- Chẳng hạn dùng nó thì mổ xẻ các thây ma sẽ không bị nhiễm độc, trò hiểu rồi chứ?
- Dạ. Nhưng người ta diệt các khí độc cách nào ạ?
- Khi cậu thở là cậu hít không khí. Nếu không hít không khí thì cậu sẽ chết. Thì đó, không khí duy trì sự sống cách đó. Không khí duy trì sự sống ra sao thì hơi cơ-lo tiêu diệt các hơi độc cũng như vậy. Nghe ra chưa?
- Thưa giáo sư, tôi vẫn chưa nghe ra ạ.
- A! Cậu vẫn chưa nghe ra? Nhưng cậu biết rằng nó như vậy chứ?
- Thưa biết.
- Thôi hết giờ rồi. Để kỳ sau.
Xét câu chuyện đó, ta thấy Semmelweis có óc tiến hơn người đương thời. Phải đợi vài ba chục năm sau, khi thuyết của Pasteur ra đời, người ta mới có thể đáp câu hỏi của chàng được.
Chàng học rất tấn tới. Nhưng vốn là người Hung, từ giọng nói đến cử chỉ đều khác người Áo, nhất là y phục rất lôi thôi, nên bị các bạn học trêu ghẹo, chế giễu. Chàng chỉ giao du với một bạn đồng hương là Ludwig Von Markussovsky. Cuối năm, ghét cái không khí đó, chàng về quê nhà, xin vô học tiếp Y khoa ở Đại học đường Pesth. Nhưng trường đại học này nhỏ, thiếu dụng cụ thí nghiệm, giáo sư dở, chàng ráng học hết niên khóa rồi trở lại Vienne.
Nhờ trí thông minh, tính chuyên cần, đứng đắn, chàng được hai giáo sư ở Vienne là Rokitansky và Skoda che chở, tận tâm chỉ bảo, cho tiền may quần áo, mời về ở chung nhà. Cả hai sau đều thành những bạn thân, những người đỡ đầu của Semmelweis.
o0o
Giáo sư Skoda là một người khá đặc biệt. Năm 1834, ông là y sĩ đầu tiên ở Áo dùng ống thính chẩn (Stéthoscope) của Laennec chế tạo … Bác sĩ Klein, giám đốc khu hộ sinh, óc thủ cựu, cấm ông dùng ống đó, ông không nghe, bèn kêu ông vô phòng rầy:
- Bác sĩ Skoda, từ một tháng nay, tôi nghe nhiều lời kêu ca về ông. Các con bệnh phàn nàn rằng ông làm họ khó chịu, làm nhột họ vì ông lấy một cái ống kỳ quái chọc vào ngực, vào sườn, vào bụng họ. Cái thứ đó là của người Pháp làm ra. Mà tôi đã bảo ông rằng tôi không muốn người ta làm cái trò đó trong dưỡng đường của tôi, sao ông không chịu nghe lời?
Skoda đáp:
- Thưa ông giám đốc, dùng ống nghe đó nghe rõ tiếng trong tim, trong phổi hơn lên, chứ có hại gì đâu ạ. Xin ông giám đốc cứ nghe thử một lần sẽ biết.
- Tôi không cần phải nghe. Đại dưỡng đường ở đế đô này, không khi nào dùng cái đồ của người Pháp đó. Ông cải lời tôi hử? Kể từ giờ phút này trở đi, ông không còn ở dưới quyền tôi nữa.
- Nhưng thưa ông giám đốc, xin ông cho tôi …
- Thôi, mời ông ra, không nói gì nữa.
Ngay buổi chiều hôm đó, Skoda khiêng rương tới nhà thương điên vì đã bị đổi lại đó.
Nhưng ông không phải là hạng người chịu lép vế. Ông biết rằng làm nghề y sĩ mà không được một chính khách có quyền thế che chở thì bị tủi nhục, nên ông vận động trong chính quyền và bốn tháng sau, ông được chuyển qua làm y sĩ trong ty cảnh sát và tiếp hai tháng nữa, ông lại trở về Đại dưỡng đường Vienne.
Lần này, gặp chủ cũ là bác sĩ Klein, ông tươi cười chào, Klein đáp lại lạnh lùng, nhưng lễ phép vì biết Skoda không phải tay vừa. Và từ đó nhắm mắt để Skoda tha hồ dùng ống thính chẩn.
o0o
Nhờ sự giúp đỡ của Skoda và Pokitansky mà sự học của Semmelweis rất tấn tới. Chàng nổi tiếng là một sinh viên xuất sắc nhất trường.
Một hôm, Skoda giao cho chàng chăm sóc một em nhỏ 18 tháng. Đứa nhỏ rất kháu: Da trắng, mắt xanh, tóc hung hung, nhưng bịnh tình có vẻ nặng. Mặt hốc hác, nằm rên hoài, da vừa nóng, vừa nhớp, nướu sưng, lưỡi khô, mắt lờ đờ, đi tướt phân rất hôi, chân tay như ống sậy, trên mình có những vết bầm rất lạ, bụng phồng lên mà không cứng.
Người mẹ đứa trẻ đứng bên cạnh, tỏ vẻ lo lắng hỏi chàng:
- Thưa bác sĩ, cháu Lisl qua khỏi được không ạ?
- Không sao đâu, tôi cam đoan là cháu nó sẽ mạnh.
Chàng nói vậy, nhưng trong lòng rất phân vân, chưa biết là bệnh gì. Sốt thì phải rồi. Nhưng sốt là triệu chứng của hàng chục thứ bệnh. Bệnh nào đây? Chàng bỗng thấy rằng: Mặc dầu đọc hàng trăm pho sách, mặc dầu đứng đầu lớp mà chàng vẫn dốt, dốt quá!
Chàng về phòng tra các sách thuốc. Thì đây, đúng rồi, bệnh thổ tả chứ gì nữa? Chàng nhớ lại những triệu chứng của em nhỏ thì đích thị là triệu chứng bệnh thổ tả, chỉ khác mỗi một điều là bệnh này không có những vết bầm trên người. Nhưng chàng nhớ một vị giáo sư đã dạy rằng: Bệnh nào cũng có ngoại lệ.
Chàng trở lại phòng bệnh, ra toa.
Người mẹ đứa nhỏ vẫn đứng đợi, rụt rè thưa:
- Sao tôi thấy lưỡi cháu nó đen quá!
- Không sao, tôi biết rồi. Tôi cho toa thuốc này, bà về nấu cháo gà cho nó ăn, nó sẽ hết.
Đứa nhỏ chảy máu cam, kêu đau bụng. Chàng nhấn vào những vết bầm, nó tan đi. Chàng xét kỹ giường nó nằm, thấy một con rệp, càng tin ở sự chẩn đoán của mình. Nhưng đến khuya, bệnh đứa bé không giảm mà còn tăng, mắt lờ đờ, thở khó khăn, mạch nhỏ như sợi tóc. Chàng đâm sợ, luýnh quýnh không biết làm sao…. Rồi nó tắt thở. Chàng lắc nó, mới đầu nhẹ, sau mạnh, hết sức mớm hơi thở cho nó. Một người đặt tay lên vai chàng bảo:
- Uổng công bác sĩ, nó chết rồi.
Chàng đau đớn trở về phòng, thấy cái ngu của mình mênh mông như biển và cái tội của mình nặng như núi.
Hôm đó, chàng còn chữa một em nhỏ nữa, cũng mắc bệnh như Lisl, mà cũng vô hiệu. Sáng sớm, chàng vội vàng đi kiếm Skoda, năn nỉ:
- Thưa bác sĩ, xin bác sĩ tới liền cho, tôi đã lầm lỡ một cách ghê gớm.
Skoda đang ngủ, phải thay quần áo, đi theo tới nhà thương, đi ngang giường của em Lisl, ngó qua, rồi lại giường của em nhỏ thứ nhì.
Semmelweis mếu máo nói:
- Tôi xin lỗi bác sĩ. Tôi đã tự làm nhục cho mình, còn làm nhục tới nhà thương nữa … Tôi thú thực không trị nổi, xin bác sĩ làm ơn chữa giùm em nhỏ này. Tôi muốn bỏ nghề này thôi, tôi không thể nào thành lương y được.
Các bệnh nhân trong phòng bắt đầu nhao nhao lên. Skoda phải kéo Semmelweis ra ngoài sân bảo:
- Đứa nhỏ đó sắp chết, không thể chữa được.
- Không có thuốc gì cả? Vô phương?
- Vô phương! Anh cho nó là bệnh gì?
- Dạ bệnh thổ tả.
- Không đúng hẳn. Nó bị bệnh thương hàn. Nặng lắm rồi. Ỉa ra máu là lủng ruột rồi.
Vừa lúc đó, mẹ em Lisl tới, thấy con đã chết, khóc bù lu, bù loa lên, trách Semmelweis là nói dối, là gạt bà. Semmelweis càng an ủi, bà ta càng la lớn:
- Người ta đều bảo cho tôi hay trước rằng các ông là kẻ sát nhân, rằng đừng cho nó vào nhà thương, hễ vào thì chết. Ôi, con ơi là con ơi! Con đi đâu? Người ta giết con!
Skoda nắm vai bà ta, lắc mạnh:
- Không im đi thì tôi đuổi ra ngoài đa! Ở đây, chúng tôi đều tận tâm chăm sóc nó. Nhất là ông bạn tôi đây đã thức đêm, thức hôm vì nó. Thím không có quyền trách ai hết. Cái lối gì mà gào lên như vậy? Tôi sai người đuổi thím ra bây giờ.
Semmelweis cúi mặt xuống, trơ như khúc gỗ, rưng rưng nước mắt. Skoda nắm tay chàng, dắt lại một phòng bảo:
- Cảm xúc như vậy là vô lối. Phải thắng nó đi. Khoa học không cần dùng tới cảm xúc. Lòng thương và nước mắt không cứu được bệnh nhân.
- Thưa bác sĩ, thấy họ chết tôi chịu không được. Họ tin cậy ở tôi như vậy mà tôi giết họ.
- Anh không giết ai cả. Bệnh đó không có thuốc chữa. Những bệnh nội thương thì phương pháp hay nhất là không làm gì cả. Vả lại, ai cũng phải chết. Dù anh có chữa được cho nó thì chỉ là kéo dài hạn chết ra thôi. Anh phải diệt cái bệnh thương người đó đi thì mới làm y sĩ được, nghe chưa?
- Thưa bác sĩ, vâng ạ!
Nhưng Skoda không biết bệnh thương người cũng là một bệnh vô phương cứu chữa. Và Semmelweis đã mang lụy nhiều vì nó.
o0o
Năm 1844, Semmelweis trình một luận văn nhan đề là: ĐỜI SỐNG CÁC THẢO MỘC, để lấy bằng cấp Bác sĩ. Luận văn chỉ dài 12 trang mà không có tính cách khoa học, chỉ là một bài thơ bằng tản văn ca tụng những cái đẹp của vũ trụ. Xin độc giả đọc đoạn dưới đây thì biết:
Còn có cảnh nào làm cho ta vui thích bằng cảnh đời sống của thảo mộc, cảnh những bông đủ loại, màu sắc rực rỡ, hương thơm ngào ngạt, nó tặng cho ta những vị tuyệt thú, lại nuôi dưỡng ta nữa, trị được bệnh cho ta nữa? Linh hồn thảo mộc đã gây hứng cho các thi sĩ, con cháu của thần Apollon và làm chóa mắt họ (…). Lý trí của con người không thể hiểu nổi những hiện tượng đó, những hiện tượng mà tới nay, tuy vẫn còn là một bí mật nhưng được tinh thần triết lý công nhận và tôn trọng.
Đúng là giọng văn của cậu tú ban Triết ngày nay: Kêu mà nhạt, lại lúng túng nữa. Vậy mà cũng được ban giám khảo chấp thuận. Thời đó, học hành dễ thật!
Mới mừng thi đậu thì có tin thân mẫu đau nặng. Chàng chỉ kịp về đưa ma rồi trở lại Vienne ngay để học thêm về sản khoa.
Cuối thế kỷ 17, ở Châu Âu, đàn ông không được làm nghề hộ sinh. Qua đầu thế kỷ 18, tình trạng cải thiện một chút: Đàn ông được làm nghề đó, nhưng khi vào phòng sản phụ thì phải hai y sĩ cùng vào, phải có mặt người chồng hoặc một người nhà của sản phụ ở trong phòng, y sĩ lại phải cải trang thành phụ nữ, mặt trùm khăn voan và không được nói một tiếng nào trong khi đỡ đẻ, kẻo sản phụ thấy y phục, nghe giọng nói, họ nhận ra đàn ông mà mắc cỡ. Họ đỡ đẻ lạ lùng lắm: Sản phụ nằm trên giường, mặc y phục dài như bình thường, y sĩ luồn tay dưới y phục, đỡ đứa bé, khi đỡ xong, tắm nó bằng nước tiểu của chó, rồi lẳng lặng đi ra, có khi, nhau quấn cả vào chân người mẹ cũng mặc. Chính Semmelweis đã ra đời trong một hoàn cảnh như vậy.
Hồi đó, không có nhà hộ sinh và y sĩ phải tới nhà của mỗi sản phụ. Ít năm sau, hoàng hậu Marie Thérèse cho lập một khu hộ sinh trong Đại dưỡng đường Vienne. Khu này có một phòng giải phẩu. Mới đầu, người ta dùng hình nộm để chỉ cơ thể của sản phụ cho sinh viên, rồi sau mới được phép mổ xẻ. Ngày nào, Semmelweis và các bạn học cũng dự những buổi giải phẩu. Vì thây ma rất nhiều. Giáo sư mổ bụng một tử thi, lấy xác một hài nhi, đặt vào trong bụng tử thi đó rồi trùm khăn lên kín từ trên xuống dưới. Sinh viên luồn tay dưới tấm khăn, kéo thây hài nhi ra, tất nhiên là không phải qua vết mổ ở bụng. Xong giờ, sinh viên rửa tay qua loa trong một thùng nước rồi sang phòng sản phụ để coi mạch, đỡ đẻ. Có khi vội quá, họ chẳng thèm rửa, cứ để máu mủ đầy tay, chỉ vẩy vẩy vài cái hoặc chùi đại vào áo ngoài, vào túi quần. Phòng giải phẩu hôi thối không thể tưởng tượng được. Từ bàn ghế đến khăn, nệm, dụng cụ … đều cáu những máu mủ. Mà phòng sản phụ cũng không sạch gì hơn.
Bác sĩ Klein, giám đốc khu hộ sinh. Hoàng hậu Marie Thérèse lập ra khu đó vì nhân đạo, cốt để thu nhận, giúp đỡ những đàn bà bị chữa hoang, nghèo khổ và nuôi nấng những đứa trẻ vô thừa nhận. Cho nên bà ra lệnh rằng bất cứ người đàn bà nào xin vào nằm cũng đều được, không cần phải khai tên tuổi của mình và của chồng. Và một khi vào nằm đó thì bất cứ chồng con hay thân thích đều cũng không được vào đó quấy rối. Sở dĩ có nội quy đó là do tình trạng xã hội. Không hiểu tại sao chính phủ Áo lại cấm những người mù chữ làm lễ cưới. Dân lo kiếm ăn chưa xong, thì giờ đâu mà đi học, cho nên non nửa số trẻ em ra đời là những đứa con hoang; cũng có một số trẻ hoang là con của ông lớn, bà lớn. Như vậy thì tất nhiên phải lập một khu để chứa những hạng đó.
Khu hộ sinh ở Vienne gồm ba tiểu khu.
Tiểu khu thứ nhất do Klein chỉ huy, có các sinh viên phụ tá. Ông ta 52 tuổi, dốt, không có cao vọng gì cả, chỉ mong cố bám chặt lấy địa vị, nhờ chính sách luồn cúi, gây bè đảng, triệt để tuân lệnh bề trên, không dám làm mất lòng cụ lớn này, cụ lớn khác, nên chăm chú vào việc báo cáo, sửa đổi sự kiện và con số sao cho khỏi bị rầy. Chẳng hạn số người chết vì một bệnh dịch nào đó tăng lên thì ông ta rút xuống, cho là họ chết vì những bệnh khác, rồi khoe với cấp trên rằng nhân viên của ông ta đã tận tâm, nhất là phương thuốc của ông ta đã hiệu nghiệm. Tư cách của ông ta ra sao, chúng ta đã hiểu rõ từ khi ông ta đuổi Skoda vì vị bác sĩ này đã dám dùng ống thính chẩn của một ngừơi Pháp chế tạo. Mỗi lần đi khám bệnh, ông ta chỉ chú trọng xem giường bệnh nhân có kê ngay hàng hay không. Ông cầm cây thước đo, hễ sai một phân là quát tháo ầm ĩ lên. Còn bệnh nhân thì ông chỉ ngó qua, gật gật rồi đi. Quan niệm của ông về nghề Y rất kỳ quặc: Chỉ cần đoán đúng bệnh là giỏi rồi, vấn đề chữa không quan trọng, con bệnh sống hay chết không cần biết.
Tiểu khu thứ nhì và thứ ba do bác sĩ Bartsch chỉ huy và các cô đỡ phụ tá. Bartsch hiền lành, hơi nhút nhát, học vấn tầm thường, không có tài gì cả.
Tiểu khu thứ nhất và thứ nhì thu nhận những người nghèo, chứa được 350 giường, kê trong những phòng rộng mênh mông. Một khi đã vô nằm đó thì được luật pháp che chở: Công an cũng được bắt bớ, tra xét tên tuổi của sản phụ, dù có lệnh của triều đình.
Tiểu khu thứ ba có 60 giường, giành cho người giàu có chịu đóng tiền. Có phòng 6 giường, có phòng 10 giường. Có lối đi riêng, có cửa riêng để người ngoài khỏi trông thấy. Hầu hết các sản phụ đều thuộc hạng quý phái, có ngoại tình, giả trang, che kín mặt, cho không ai nhận ra được. Họ ghi tên và địa chỉ thật trong một miếng giấy, đưa cho y sĩ, y sĩ niêm phong trước mặt họ. Họ muốn nằm bao lâu thì nằm, muốn ra lúc nào thì ra. Khi ra, người ta trả lại họ bao thư có địa chỉ và tên tuổi còn y nguyên. Họ có thể mang theo đứa trẻ hoặc gửi lại cho Dưỡng đường nuôi.
Khi có người chết, người ta mở bao thư ra, coi địa chỉ và báo cho thân quyến biết, nếu trong thư có dặn như vậy, còn không thì thôi.
Mà họ chết rất nhiều, trung bình là chết một phần ba. Tình trạng đó chung cả Châu Âu. Có năm, Dưỡng đường Hotel Dieu ở Ba Lê chết già nửa số sản phụ. Bốn năm liền, nhà hộ sinh ở Iéna chết hết ráo, không một người nào sống sót … Trẻ con cũng vậy, đẻ ra ít ngày là chết, chết tới tám phần mười!
Có khi cả chục bệnh nhân nằm chung một giường; những sản phụ mới sanh nằm bên những kẻ hấp hối hoặc những thây ma lạnh ngắt mà 24 giờ sau, người ta mới chịu khiêng xuống nhà xác. Thật là kinh khủng!
o0o
Ở Đại dưỡng đường Vienne, tiểu khu hộ sinh thứ nhất nổi tiếng là chết nhiều nhất. Một hôm, Semmelweis mục kích một cảnh thương tâm. Một bà mẹ đã gần tới ngày sinh, xin vô nằm. Khi người nữ khán hộ mở cửa phòng, chỉ số giường cho thì bà ta chùng lại, không đi nữa, hoảng hốt ngó cô khán hộ rồi ngó Semmelweis. Bỗng có tiếng chuông leng keng, bà ta ngã xuống, mặt tái ngắt.
Cô điều dưỡng nắm tay, kéo lên an ủi:
- Không sao đâu mà!
Bà ta đứng dậy, run lật bật, mắt ngó Semmelweis trân trân, thở hổn hển, mồ hôi nhể nhại. Vụt một cái, bà ta quỳ xuống, lết tới semmelweis, chắp tay năn nỉ:
- Bẩm bác sĩ, xin bác sĩ thương tôi. Tội nghiệp tôi lắm, Trời Phật phù hộ bác sĩ … Xin bác sĩ cho tôi đẻ ở ngoài đường.
Semmelweis cảm động quá, gương mặt bà đó hao hao giống thân mẫu của chàng. Chưa biết nói sao thì cô khán hộ đã la lên:
- Đi, vô đây. Ngay lập tức. Thế là cái nghĩa gì hả?
Bà mẹ lại năn nỉ nữa:
- Tội nghiệp tôi, bác sĩ. Xin ngài cho tôi ra.
Cuối phòng có tiếng gào. Rồi một người khác thút thít. Thế rồi cả phòng nhao nhao lên. Người ta bước xuống sàn, lết ra cửa.
- Tội nghiệp tôi quá, bác sĩ, tôi cắn cỏ lạy ngài. Một lần này thôi, cho tôi đẻ ở ngoài.
- Cho chúng tôi ra, chúng tôi không đẻ trong này đâu.
Có tiếng hét lên:
- Cho chúng tôi ra. Ở đây thì chúng tôi chết, chết hết mất!
- Ra ngoài đường … ra đẻ ngoài đường hoặc cho chúng tôi qua tiểu khu nhì.
Bà mẹ mới tới vẫn chắp tay khóc lóc:
- Lạy bác sĩ, ngài cho chúng tôi ra đẻ ngoài đường, xong rồi tôi xin vô ạ, rồi bác sĩ muốn bảo sao, tôi cũng xin nghe.
Cả phòng bao vây chàng, có người nước mắt đầm đìa ôm chặt lấy thân chàng. Họ lạy van, kêu trời, huyên náo cả khu. Các khán hộ ở ở phòng bên chạy tới, lôi kéo các sản phụ về giường và một lát sau, yên tĩnh trở lại, chỉ còn văng vẳng những tiếng nức nở, nghẹn ngào ở cuối dãy.
Semmelweis lảo đảo bước về phòng giải phẩu, ngồi bệt xuống một chiếc ghế, úp tay vào mặt khóc. Chàng vẫn biết dân chúng sợ tiểu khu thứ nhất. Chàng nhận rằng yêu cầu của họ có lý vì những kẻ đẻ rơi ở lề đường, bên bờ suối rồi vô nằm nhà thương thì không sao, còn hễ đẻ ở nhà thương thì mười người chết tới ba – bốn, có khi chết tới bảy – tám, cho nên chàng không thể nhẫn tâm lôi kéo họ về giường được. Nhưng làm một bác sĩ mà trông thấy bệnh nhân sợ mình như sợ hung thần thì có tủi nhục, đau lòng không chứ?
Một đồng nghiệp nắm cánh tay, lắc chàng:
- Buồn cho anh thật, anh Ignace. Ông Klein thế nào cũng biết và sẽ rầy anh. Nhưng thôi quên đi, thỉnh thoảng vẫn có những cuộc nổi điên như vậy ở nhà thương.
Semmelweis ráng quên đi, vùi đầu vào việc học, ngày nào cũng mổ xẻ hai ba xác bệnh nhân chết vì sốt sản hậu (Fièvre puerpérale) vì hết thảy các sản phụ trong nhà thương đều mắc bệnh ấy mà qua đời.
Chàng quyết tâm tìm hiểu thật kỹ bệnh đó đọc hết các sách về nguyên nhân triệu chứng bệnh sản hậu và các phương pháp chữa. Chàng học tới thuộc lòng những tác phẩm chính. Nhưng không có tác giả nào chịu đồng ý kiến với nhau. Người ta kể ra tới 28 nguyên nhân, còn phương thuốc thì rất ít mà tuyệt nhiên không công hiệu. Chàng càng học, càng thấy hoang mang, nghi ngờ, muốn kiểm tra nguyên nhân thứ 29.
Một hôm, chàng đỡ đẻ cho một sản phụ khỏe mạnh, hồng hào, mẹ tròn, con vuông. Đứa nhỏ khóc lớn tiếng và nặng cân. Chàng tận tâm chăm sóc, an ủi người mẹ vì chồng chị ta đang bị giam. Qua một ngày rồi, nhiệt độ chị ta vẫn bình thường, chàng đã mừng.
Nhưng hôm sau, chàng để ý thấy mắt thiếu phụ sáng quá, má đỏ quá, chàng ngờ ngờ bèn lấy thủy, thủy lên ít thôi; đếm mạch, mạch bình thường.
- Cứ tĩnh dưỡng rồi ít bữa mới đi đứng được.
Miệng nói vậy mà lòng vẫn không yên.
Hôm sau nữa, thủy lên dữ, mạch nhanh mà yếu (120/phút). Chàng ra toa, cho uống muối Epsom, dặn cô điều dưỡng đừng để chị ta bón. Bệnh nhân kêu nhức đầu, đau lưng, có hồi lạnh run, ngủ không được.
Bác sĩ Breit cùng trông nom khu đó với chàng bảo:
- Chị ta mạnh như trâu, không sao đâu. Thủy lên xuống như vậy là thường.
Buổi chiều hôm đó, bụng thiếu phụ đã bắt đầu cương lên, ấn vào thấy đau. Semmelweis cho uống thêm 20 giọt nước nha phiến.
Sáng hôm sau, bệnh nhân kêu đau bụng dữ, đau ran lên tới mỏ ác, vẫn chóng mặt, nhức đầu. Chiều bệnh hơi giảm, tối ngủ được.
Ngày thứ năm, bệnh nhân vui vẻ, nói là bớt nhiều, mạch lớn, đều, 100/phút, lưỡi hơi xám nhưng không đóng. Chàng yên tâm, vẫn cho uống muối Epsom và xoa dầu vào bụng.
Thình lình, 2 giờ chiều, nữ khán hộ hốt hoảng kiếm chàng. Bệnh nhân rên là vì bụng đau dữ dội, nhiệt độ lên, mửa, lưỡi đóng, mạch lên 160. Đúng là triệu chứng sốt sản hậu.
Tối, mạch yếu hơn, sốt tăng, nhức lưng, vai, ngực.
Sáng ngày thứ sáu, bệnh nhân hổn hển hỏi:
- Thưa bác sĩ, tôi có sống được không? Tôi có thể thấy mặt chồng con tôi được không?
- Đừng nghĩ bậy, không sao đâu, tôi sẽ trị hết.
Lưỡi khô, môi nứt, mạch đã chạy loạn, đếm không được, nàng nói lảm nhảm:
- Ồ! Đẹp quá! Nó bay, nó lượn kia. Kính chào bác sĩ … A! Cái xe của con tôi này … Mình coi kìa!
Semmelweis ở luôn bên cạnh, thỉnh thoảng lại coi mạch. Mạch như trốn lần lần. Thiếu phụ tắt thở. Nước da nàng mấy hôm trước hồng hào, bây giờ đã nhợt nhạt.
Hai bữa sau, đứa con của nàng chết theo, cũng do cái bệnh sốt của mẹ. Hôm đứa nhỏ chết, trong phòng có năm người nữa chết và mười một người đương ngoắc ngoải.
Run rẩy, chàng gõ cửa phòng bác sĩ Klein. Klein ngạc nhiên ngước mắt lên hỏi:
- Có chuyện gì vậy, gấp không?
- Thưa ông giám đốc, chúng ta phải làm cái gì mới được. Không thể kéo dài như vậy!
- Bình tĩnh lại đi nào!
- Thưa, vẫn bệnh sốt ấy, bệnh sốt sản hậu tai hại ấy! Chết hết người này đến người khác, mỗi ngày chết một nhiều, phải làm sao chứ? Phải kiếm cách trị cho được cái bệnh ấy.
- Bác sĩ lầm rồi, lầm lớn rồi! Này, tôi hỏi bác sĩ: Nguyên nhân bệnh ấy ở đâu?
- Thưa ông giám đốc, tất cả các nguyên nhân ư? Nhiều lắm mà không biết nguyên nhân nào đúng. Người ta bảo tại sữa lúc đó lên nên hành sản phụ như vậy.
- Phải.
- Có người lại bảo tại khí độc.
- Phải.
- Có người lại cho bệnh sốt đó do bao tử và gan hoặc do ruột. Một thuyết nữa đổ lỗi cho đàn bà không biết kiêng cử khi có thai. Có kẻ lại bảo tại bị lạnh, tại thời tiết, do cảm xúc …
- Thôi đủ rồi. Sách thuốc của Lucas Bauer bảo là tại sữa lên, và tôi cũng đã dạy như vậy. Ta tin thuyết đó, còn phương thuốc?
- Thưa, chưa có phương nào hiệu nghiệm ạ.
- Rất đúng. Từ nay bác sĩ nhớ kỹ bệnh sốt sản hậu là tại sữa lên mà loài người chưa tìm được phương trị. Mà sau này, loài ngưuời cũng không thể nào tìm được phương trị. Nhớ rồi chứ? Thế thì chúng ta đành vậy.
- Nhưng thưa ông giám đốc, họ chết hoài, chết như rạ.
- A! Nếu bác sĩ ngại thấy họ chết thì có thể chọn nghề khác. Tôi đã dặn bác sĩ rồi mà: Có muốn lại hỏi tôi điều gì thì phải đợi lúc từ 1 – 3 giờ rưỡi, mà bây giờ – Ông ta cúi xuống ngó đồng hồ – Mới có 11 giờ 10.
- Tôi xin lỗi ông giám đốc.
- Lần này thì tôi bỏ qua cho. Từ trước tới nay, bác sĩ tỏ vẻ siêng năng, hoạt động … Thôi, về phòng đi. Nhân tiện, tôi cho bác sĩ hay một điều: Khi lập ra khu hộ sinh này, Hoàng thượng có ra lệnh:
Cứ theo đúng đường lối cũ vì cái gì cũ cũng đã được thí nghiệm là tốt rồi. Tổ tiên ta đã cho là tốt thì tại sao chúng ta lại không cho là tốt? Đừng tin những ý mới. Trẫm không cần dùng những nhà bác học. Trẫm chỉ cần bề tôi trung tín. Kẻ nào muốn thờ trẫm thì phải theo lệnh trẫm. Kẻ nào không theo lệnh trẫm mà óc đầy ý mới thì quy điền viên đi. Nếu họ không tự xin về thì trẫm sẽ đuổi họ về.
- Sao? Hiểu chưa bác sĩ Semmelweis?
- Dạ.
- Thôi, bác sĩ đi ra.
Rồi Klein cúi xuống đọc nốt bản báo cáo, cộng lại số sản phụ bị chết vì sốt sản hậu. Tháng trước chỉ có 21%, tháng này có tăng lên nhiều thật, nhưng có tháng xuống, rút cục đến cuối năm thì đâu cũng vào đó.
Trong lúc ấy thì Semmelweis hầm hầm tiến về phòng giải phẩu, uất hận trào lên tới họng. Tương lai chàng ra sao, ta có thể thấy từ giây phút đó.
o0o
Ta nên nhớ, thời ấy dân chúng Châu Âu đang xao xuyến vì những tư tưởng Cách mạng. Người già còn nhớ cuộc Cách mạng năm 1789 ở Pháp, người trẻ thì thấy cuộc Cách mạng năm 1830. Năm Semmelweis tập sự ở khu hộ sinh là năm 1845, trước cuộc Cách mạng 1848 có 3 năm. Cho nên các vua chúa Châu Âu rất sợ những tư tưởng mới, bất kỳ trong lĩng vực hoạt động nào. Không tuân lệnh thì khó yên mà tuân lệnh Klein thì làm sao tránh được tội với lương tâm của mình, với hàng ngàn sản phụ và hàng ngàn hài nhi mà tính mệnh giao phó cả vào tay mình?
Semmelweis nắm chặt tay lại, nghiến răng:
- Không thể như vậy được. Ta chịu làm một tên sát nhân sao? Cái khu hộ sinh này thành một cái lò sát sinh sao? Nhất định phải tìm được cách trị bệnh sốt sản hậu.
Một hôm, chàng nhớ ra rằng từ trước tới nay, tiểu khu II và III năm nào số người chết cũng chỉ bằng một phần ba số người chết ở tiểu khu I. Thấy lóe lên một ánh sáng, chàng vội vàng lại nhà bác sĩ Bartsch để hỏi.
Bartsch đã sửa soạn đi ngủ, tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Có gì gấp vậy? Để đến mai được không?
- Không. Quan trọng lắm. Đây, xin ông coi. Tôi đã ghi lại đây từ năm 1841 đến năm 1846, ở tiểu khu của tôi có 1989 sản phụ chết, còn ở tiểu khu của ông có 691 sản phụ chết.
- Tôi biết rồi, từ xưa nay vẫn vậy, tôi không hiểu tại sao. Chúng tôi săn sóc sản phụ cũng y như bên ông, không khác gì cả. Thật là bí mật … Có lần tôi đã nghĩ đến điều này: Ở bên tôi chỉ có cô đỡ giúp việc, chứ không có sinh viên như bên ông. Đàn ông thì bao giờ cũng manh tay, tay họ lớn. Có lẽ tại vậy chăng? Tôi không dám chắc. Nhưng ông đừng tuyên bố điều đó với ai nhé. Sợ mất lòng người khác.
Semmelweis ra về, bất mãn vì lời giảng đó. Tại sao bên họ chết ít như vậy? Cùng chung một mái nhà, cùng chung một lối trị … À, hay là tại sản phụ sợ? Tiểu khu II ở cuối dãy, khi sắp có người chết, thì vị mục sư đi ngang qua hành lang tiểu khu I rồi mới tới tiểu khu II và vừa đi, vừa rung chuông. Có lẽ vậy … Chàng nhớ vẻ mặt kinh khủng của những bệnh nhân mỗi khi nghe tiếng chuông leng keng. Mà mỗi ngày phải nghe 5 – 6 lần, có khi 10 – 20 lần. Đúng rồi! Họ sợ nên dễ chết.
Sáng hôm sau, chàng để ý ngóng vị mục sư, vừa thấy bóng ở xa đã chạy lại thưa:
- Tôi muốn xin cha một điều.
- Bác sĩ cứ nói.
- Thưa cha, có cần phải rung chuông như vậy không ạ?
- Nghi thức từ xưa vẫn vậy.
- Có nhất định phải theo nghi thức đó không?
- Tại sao lại bỏ đi hả bác sĩ?
- Thưa cha, tôi nhận thấy sản phụ nghe thấy tiếng chuông là kinh khủng, nhắm mắt lại, có kẻ run lên. Mà tôi ngờ rằng vì họ sợ quá mà họ chết ở tiểu khu này nhiều như vậy. Nên tôi yêu cầu cha vì lòng nhân, đừng rung chuông nữa, cứ lẳng lặng đi, thưa, có được không ạ?
Suy nghĩ một chút, mục sư đáp:
- Nếu bác sĩ cho rằng có lợi thì tôi cũng chìu ý.
- Đa tạ cha!
Hay tin đó, Klein gọi Semmelweis vào phòng để rầy. Chàng hăng hái giảng giải. Klein ngắt lời:
- Tôi đã bảo thầy rằng bệnh sốt sản hậu do sữa lên và vô phương trị kia mà. Tôi cảnh cáo lần này là lần thứ nhì.
Nhưng Klein quên không ra lệnh cho mục sư cứ rung chuông như trước, thành thử thí nghiệm của Semmelweis vẫn tiếp tục. Tới cuối tháng, kết quả vẫn như cũ, có phần tệ hơn. Không, không phải là họ sợ tiếng chuông. Nhưng lạ quá, họ chết nhiều là vậy, ít nhất cũng 30%, nhưng báo cáo của dưỡng đường chỉ có 3,22%. Thì ra Klein đã sửa con số để nhà cầm quyền không phái ủy ban lại điều tra.
o0o
Mặc dù vậy, Klein cũng chỉ dấu nhẹm được trong một thời gian thôi, vì số người chết nhiều quá, đồn tới tai các cụ lớn, các cụ sợ mang tiếng phải cho mở một cuộc điều tra lấy lệ.
Ta còn lạ gì cái thói điều tra lấy lệ để bịt miệng dân chúng đó. Ủy ban điều tra không có Skoda, Rokitansky, cũng không có cả Semmelweis mà chỉ gồm một bọn bồ bịch của Klein, chẳng biết chút gì cề bệnh sốt sản hậu cả. Họ đi một lượt qua các tiểu khu rồi vào phòng giấy của Klein uống rượu, hút thuốc, nghe Klein giảng giải. Khi thảo bản phúc trình, họ chép đúng lời trình bày của Klein, tuyên bố rằng tiểu khu I chết nhiều hơn tiểu khu II vì các sinh viên không nhẹ tay đỡ đẻ như các cô đỡ ở tiểu khu II. Họ đổ lỗi cho các sinh viên ngoại quốc để sinh viên Áo không phản kháng họ. Và người ta đuổi luôn một lúc 22 sinh viên ngoại quốc. Klein lại bình chân như vại, các sản phụ vẫn chết oan vì sau khi sinh viên ngoại quốc đi rồi, bệnh dịch giảm được một chút rồi lại hoành hành như cũ.
o0o
Hết niên khóa đó, Semmelweis đậu bằng cấp giải phẩu, nhưng năm sau mới được thăng chứ đệ nhất phụ tá ở tiểu khu I, dưới quyền trực tiếp của Klein. Lúc này, trách nhiệm hoàn toàn thuộc về mình rồi, chàng càng thấy rõ bổn phận phải trị được bệnh đó.
Thật lạ lùng, gọi là bệnh sản hậu mà sao có những phụ nữ không sinh sản cũng chết vì bệnh đó, cả con nít cũng mắc, có khi cả đàn ông cũng mắc, như vậy là đâu phải tại sữa lên như Klein đã nói? Mà cũng không phải tại các sinh viên làm mạnh tay quá, thực là oan uổng cho họ.
Chàng đọc lại một lần nữa hết những thuyết về nguyên nhân của bệnh, vẫn không thỏa mãn và chàng ngờ rằng các lý thuyết gia đều lầm triệu chứng với nguyên nhân. Chẳng hạn thấy bụng bệnh nhân sưng lên thì cho rằng bao tử, mật sinh mà sinh ra sốt sản hậu. Thấy trong huyết có nhiều chất độc thì cho rằng tại huyết hư nên sinh ra sốt sản hậu …
Semmelweis tìm đọc cả những sách Anh viết về bệnh đó nữa. Thời ấy ở Anh, số người chết vì bệnh sản hậu tương đối ít hơn những nước khác và một số y sĩ Anh đã gần đoán được nguyên nhân của bệnh. Chẳng hạn Alexander Godon, năm 1795 đã viết đại ý rằng:
Tôi có chứng cớ chắc chắn rằng nguyên nhân của bệnh là do lây mà bị nhiễm độc. Khi các y sĩ, cô đỡ và nữ điều dưỡng săn sóc cho những người bị bệnh, họ truyền một “không khí lây bệnh” cho những người mạnh.
Và Gordon khuyên phải đốt hết quần áo, mền nệm của người bệnh. Còn những người săn sóc bệnh nhân thì phải tắm rửa kỹ và thay quần áo trước khi đi thăm khám một bệnh nhân khác.
Năm 1829, một y sĩ Anh khác là Robert Collins dùng những thuốc sát trùng để tẩy uế phòng bệnh nhân, còn quần áo của họ thì bỏ vào một lò không khí nóng tới 120 – 130 độ, nhờ vậy mà ông chận được bệnh sốt sản hậu trong dưỡng đường Dublin.
Các y sĩ Anh đã gần tìm ra cách trị, nhưng vẫn không biết nguyên nhân gây ra bệnh. Những chữ “Không khí lây bệnh” trừu tượng quá, không giảng được gì cả. Bảo là do không khí lây bệnh thì ở tiểu khu II, mỗi khi có người mắc bệnh sao không lây hết phòng, lây nhiều như ở tiểu khu I? Semmelweis rất thắc mắc về việc đó. Chàng tự hỏi hoài: Tiểu khu II bao giờ cũng chết ít hơn tiểu khu I là tại sao?
Rồi chàng kê ra hết những điểm khác nhau của hai tiểu khu để loại từng điểm một và ráng tìm xem điểm nào là nguyên nhân của hiện tượng?
Không phải là tại sản phụ ở tiểu khu I nghe tiếng chuông của mục sư mà phát bệnh, thế thì tại cái gì? Các phòng có khác hướng nhau không? Chất vôi và các thứ gỗ xây cất có khác nhau không? Hay tại các tòa nhà xung quanh tiểu khu II cản hơi độc? Vô lý! Càng suy nghĩ, chàng càng rối trí, hoang mang.
Bỗng một hôm, chàng tìm ra được một dị điểm: Ở tiểu khu I khi đỡ đẻ, người ta cho sản phụ nằm ngữa, còn ở tiểu khu II người ta cho họ nằm nghiêng. Hay là tại vậy chăng? Thử thí nghiệm xem. Chàng ra lệnh cho các sinh viên và các cô đỡ làm theo như tiểu khu II. Và chàng phải ngày đêm giám sát họ thi hành đúng chỉ thị vì nếu chàng quay lưng đi là họ lại làm theo lối cũ.
Nhưng rồi cũng chẳng có kết quả gì cả. Chàng phải bỏ lệnh đó và tìm một giả thuyết khác. Chàng không nản lòng vì biết rằng càng loại được nhiều dị điểm thì càng tới gần mục đích.
Chàng bàn với bác sĩ Skoda cho điều tra những sản phụ sanh ở lề đường, ở bờ suối chết là bao nhiêu để làm thống kê. Klein phản đối kịch liệt, vận động với viên Thượng thư bộ Quốc gia giáo dục cấm ngặt chuyện đó. Có kẻ hỏi ông: “Tại sao tiểu khu II chết ít hơn tiểu khu I?”. Ông chỉ đáp:
- Chết cũng như nhau. Khi nào tiểu khu I chết nhiều hơn thì tất cũng có những lý do chính đáng.
Semmelweis bị Klein ghét, ít lâu sau bị giáng xuống làm phụ tá thứ nhì. Lại nhằm lúc thân phụ chàng mất, chàng chán nản, xin nghỉ về quê nhà ít lâu. Qua năm 1847 rời Vienne nửa tháng. Khi trở lại Vienne thì hay tin một đồng nghiệp của chàng là Kolletschka mới từ trần.
Kolletschka là một bác sĩ nhũn nhặn, tận tâm, hiền lành, mới 43 tuổi và được toàn thể học trò và bạn bè kính mến. Trong một giờ giải phẩu, một sinh viên thực hành vụng về, ông vội vàng thò tay để ngăn lại, không dè lưỡi dao của sinh viên đưa mạnh quá, chạm vào đầu ngón tay của ông: Vết thương rất nhẹ, chỉ chảy vài giọt máu. Ông vẫn tiếp tục giảng bài. Hôm sau, thấy ngây ngất, bệnh mỗi ngày một tăng, được bảy bữa thì chết. Bị nhiễm độc của tử thi!
Semmelweis làm việc trở lại. Các bạn thân của chàng đã vận động cho chàng giữ chức cũ: Đệ nhất phụ tá. Nhưng chàng vẫn không vui vì cái tang cha và vì trong đầu cứ lởn vởn những câu hỏi: “Tại sao tiểu khu I luôn chết gấp ba lần tiểu khu II? tại sao có tháng tăng lên, chết gấp 10 lần so với tiểu khu II? Những thiếu phụ khỏe mạnh, hồng hào mà đẻ xong ít ngày là sốt rồi chết, chết từng loạt là tại sao?”
o0o
Một đêm, không ngủ được, chàng đi thăm một Kolletschka, đột nhiên nảy ra ý coi hồ sơ về cái chết của bạn. Hồ sơ ghi:
“Hệ thống lâm ba sưng rất nặng ở phần trên.
Tĩnh mạch cũng sưng.
Phổi sưng.
Tim sưng.
Bụng sưng.
Màng óc sưng.
Tất cả những bộ phận đó đều có mủ máu như rửa, rất hôi thối. Mắt bên trái cũng vậy.”
Đủ hết, đủ hết các triệu chứng của bệnh sốt sản hậu. Một ánh sáng rực rỡ lóe lên trong óc của Semmelweis. Chàng đọc đi, đọc lại hồ sơ, nhớ lại thi thể của một sản phụ chết vì sốt sản hậu mà chàng mới mổ hồi sáng. Đúng, chỉ một điều là Kolletschka không có tử cung, nếu có thì tất tử cung cũng phải sưng. Chàng lại nghĩ tới những hài nhi sanh ra được năm sáu ngày rồi chết vì sốt. Thi thể của chúng mổ ra, cũng y như thi thể của mẹ chúng, y như của Kolletschka. Tất phải cùng do một nguyên nhân. Chàng tìm thấy nguyên nhân đó rồi: Nhiễm độc tử thi(°)
o0o
Kolletschka bị nhiễm những chất độc tử thi ở lưỡi dao, những chất đó vào máu rồi phá phách cơ thể. Những sản phụ mắc bệnh là do những bàn tay của sinh viên và y sĩ đem lại trong khi đỡ đẻ cho họ. Chàng rùng mình. Các hài nhi tử vong cũng vì do những bàn tay sát nhân đó chăm sóc. Những bàn tay nhơ nhớp mủ và máu mà khám xét những thân thể khỏe mạnh. Chàng đã giết biết bao mạng người? Các bạn đồng nghiệp, các sinh viên trong Đại dưỡng đường Vienne này đã giết mấy vạn, mấy ức người rồi? Ở khắp Châu Âu, người ta đã giết mấy chục triệu người rồi từ khi đặt ra cái lệ giải phẩu tử thi? Nhất là tội của chàng không sao tha thứ được, chàng đã giết nhiều mạng người hơn các bạn đồng nghiệp vì chàng giải phẩu tử thi nhiều hơn họ, do đó, truyền bệnh ra nhiều hơn họ. Ừ, rất đúng. Bây giờ thì thấy tỏ như ban ngày: Tiểu khu II chết ít vì do các cô đỡ săn sóc, mà các cô này không giải phẩu tử thi, tay không dính độc tử thi. Các sản phụ sanh ở ngoài rồi mới vô nằm dưỡng đường, sở dĩ ít bị bệnh sốt sản hậu là do ít bị các sinh viên khám bệnh. Rồi chàng sung sướng nhảy nhót vì đã kiếm được một phương cứu đời. Rất giản dị: Chỉ cần rửa tay thật kỹ trước khi khám bệnh là trị được bệnh sốt sản hậu. Chàng lại ngay bàn giấy, ghi cảm tưởng của mình lên giấy. Năm đó là năm 1847, chàng 29 tuổi.
o0o
Mới hửng sáng hôm sau, Semmelweis đã tới nhà thương, vẻ mặt hớn hở. Chàng muốn chạy khắp các phòng, lay các sản phụ, hô lớn lên:
- Từ nay các bà yên tâm. Không còn lo bị bệnh sốt sản hậu nữa. Hết rồi, hết hẳn.
Khi các sinh viên tới đủ, chàng nhóm họ lại, cảm động quá, không biết mở đầu ra sao. Mắt chàng rưng rưng. Đột nhiên chàng mở lời:
- Chúng ta sẽ trị được bệnh sốt sản hậu. Tôi đã kiếm được cách. Các ông biết đấy chứ, bác sĩ Kolletschka chết vì nhiễm độc tử thi. Triệu chứng của ông y như triệu chứng bệnh sốt sản hậu. Tôi đã đọc kỹ hồ sơ … Chính chúng ta là kẻ sát nhân. Từ nay, chúng ta phải rửa tay cho sạch.
Mọi người ngơ ngác, chẳng hiểu gì cả, tỏ vẻ lạnh lùng.
- các ông nghe rõ chưa? Từ nay, các ông, các cô và tôi, bất kỳ ai trong tiểu khu này cũng phải rửa tay thật kỹ trước khi khám bệnh.
- Tại sao vậy bác sĩ?
- Tại tay chúng ta dơ, dính độc tử thi rồi truyền độc đó vào cơ thể sản phụ, cho nên chúng ta phải rửa tay cho hết những độc đó đi. Nào, bây giờ chúng ta đi rửa tay.
Có kẻ khúc khích cười, có kẻ bĩu môi, có kẻ nhún vai. Nhưng rồi người ta cũng đi rửa tay.
- Các ông đưa tay tôi khám.
A! Thế này thì quá lố rồi. Người ta là sinh viên, chứ đâu phải con nít nữa mà khám xem tay có sạch không?
- Xin lỗi bác sĩ, thuyết của bác sĩ có chắc đúng không đã, hay bác sĩ chỉ muốn làm nhục chúng tôi thôi? Chúng tôi đâu phải là em nhỏ?
Semmelweis nổi giận la:
- Các thầy còn nghi ngờ hả? Thì cứ theo lời tôi xem có trị được bệnh sốt sản hậu không. Rửa tay mà là nhục ư? Hay các thầy muốn tiếp tục giết người? Tôi chỉ đòi một điều rất dễ là rửa tay để cứu hàng vạn, hàng ức nhân mạng mà các thầy không chịu nghe. Làm biếng. Cái đó mới là nhục. Tôi có trách nhiệm bảo vệ sinh mạng của sản phụ và hài nhi trong tiểu khu này. Nếu các thầy không muốn tuân lệnh tôi thì các thầy có quyền đi ra. Còn như muốn ở lại đây thì nhất định phải rửa tay.
Trong y học, một kỹ nguyên mới xuất hiện, kỹ nguyên phòng độc. Cuộc đời gian truân của Semmelweis cũng bắt đầu, một phần vì buổi sáng hôm đó, ông đã vụng về, nóng nảy quá làm mất cảm tình của những người giúp việc ông và những người này sẽ phá công việc của ông.
o0o
Sáng hôm sau, bác sĩ Klein vô khám phòng. Semmelweis chạy ra ngăn ông ở cửa phòng, chỉ thau nước. Klein ngạc nhiên hỏi:
- Để làm gì vậy?
- Thưa ông giám đốc, để ông rửa tay ạ.
- Bác sĩ điên ư?
- Thưa ông giám đốc, tôi đã tìm ra nguyên nhân bệnh sốt sản hậu. Cách trị rất giản dị: Chỉ cần rửa tay thôi.
- Tôi đã bảo có muốn thay đổi thủ tục nào thì phải xin phép tôi mà
- Thưa ông giám đốc, tôi đã gởi tờ phúc bẩm lên ông rồi ạ.
- Nhưng tôi chưa cho phép mà sao đã tự tiện thi hành? Ai lãnh trách nhiệm ở dưỡng đường này? Thầy hay tôi?
- Thưa ông giám đốc, công việc rửa tay không làm cho các sản phụ chết được mà tôi còn tin rằng nhờ nó, họ sẽ sống. Tôi đã thưa rõ trong tờ phúc bẩm rồi ạ.
- Có, tôi đã đọc. Thôi tránh đường cho tôi đi khám.
- Thưa bác sĩ, tôi nhất định không để ngài khám bệnh nhân nếu ngài không chịu rửa tay. Tôi làm vậy không phải vì tôi đâu mà vì sinh mạng của sản phụ và hài nhi.
Klein tái mặt đi nhưng rồi cũng cúi xuống rửa tay.
- Xin ngài rửa thật kỹ cho!
Chàng lại vụng về một lần nữa, gây oán với Klein.
o0o
Kết quả số chết giảm trông thấy. Hai tuần lễ sau, Semmelweis lại chơi chỗ Skoda và Rokitansky. Hai bác sĩ này khuyến khích chàng, nhưng bảo phải tiếp tục thí nghiệm lâu nữa, mới nửa tháng chưa thể kết luận được.
Tới cuối tháng 5 năm 1847, số tử ở tiểu khu I hạ từ 18,26% xuống còn 12,24%. Semmelweis vui mừng, nhưng chưa mãn nguyện, nghĩ rằng xà bông và nước lạnh chưa đủ để khử độc. Nhớ lại bài học về chất cơlo (Chlore), mà giáo sư cũ của chàng đã cho là chất mạnh nhất để trừ bệnh truyền nhiễm và khử hơi độc. Chàng bèn xin nước Chlorina, rồi bắt các sinh viên, các cô đỡ rửa tay thật kỹ bằng xà bông, xong lại rửa lần nữa bằng nước Chlorina. Chàng gí mũi vào sát bàn tay họ để hít xem còn mùi hôi thối của tử thi không, coi từng ngón tay một xem còn dính chất dơ nào trong kẽ không, luôn luôn nhắc họ:
- Nhớ rửa tay hai lần trước khi đi khám bệnh.
Kết quả lần này không còn nghi ngờ gì nữa. Cuối tháng sáu, số người chết ở tiểu khu I hạ từ 12,24% xuống còn 2,28%. Độc giả mừng cho chàng phương pháp đã thành công và sẽ được truyền bá khắp Châu Âu? Nhưng tôi đã nói, làm việc thiện đâu phải dễ như vậy. Nếu dễ thì hôm nay, tôi đã không chép lại câu chuyện này.
Trong lịch sử Y học, chưa có một phát kiến nào lớn mà được người đương thời chấp nhận ngay; luôn luôn có những người nghi ngờ, chỉ trích. Như vậy thì có lợi là tránh được những giả thuyết không vững, nhưng cũng có hại là nhiều nhân mạng bị hy sinh quá.
o0o
Thời nào cũng có hạng người chỉ theo đuổi mỗi mục đích là cầu cạnh cho được địa vị. Và một khi được thì cố bám lấy nó. Càng bất tài thì lại càng bám chặt, đến nổi có mắt cũng như đui, không trông thấy sự thực, hoặc có thấy cũng tìm cách che mắt người trên, dù hành động đó làm hại hàng vạn, hàng ức nhân mạng cũng mặc. Phần đông những kẻ đó được sống sang trọng trên xương máu đồng bào cho đến khi chết. Nhờ khéo luồn cúi, nâng chiều nào, che chiều ấy, một số ít bị “Hạ bệ”, nhưng khi lui về vườn, họ vẫn ung dung, sung sướng với vợ con ở nước ngoài hoặc ở ngay trong nước, vì có ai bắt họ chịu trách nhiệm vì hành động của họ đâu? Vấn đề trách nhiệm là vấn đề quan trọng số một của nhân loại. Không giải quyết được nó, hễ còn những kẻ có thể làm hại cả triệu người khác thì nhân loại không thể nào có hạnh phúc được, không thể gọi là văn minh được. Phải đào tạo một hạng người có tài, có đức, liêm khiết, chính đại, sáng suốt và nhân từ, phải giao cho họ đủ quyền hành kiểm soát hành động của những người có thể làm hại dân được, thì nhân loại mới đỡ khổ. Nhưng người ta chỉ đào tạo được những thạc sĩ, những nhà bác học, chứ có trường nào đào tạo được con người có đức. Cho nên những kẻ như Klein, nhan nhãn khắp nơi, kéo bè, kéo đảng để làm hại đồng bào.
Tại Đại dưỡng đường Vienne, hồi đó đã chia làm hai phe: Phe Bảo Thủ (Đúng hơn là phe bợ đỡ) cùng Klein mà chủ trương là củng cố địa vị. Phe Đối Lập là phe Skoda gồm Rokitansky, Hebra (Chủ bút một tạp chí Y học) và Semmelweis (Có óc cấp tiến, muốn cải thiện phương pháp chẩn mạch, trị bệnh).
Klein thấy kết quả của Semmelweis, sợ địa vị của mình sẽ lung lay, bắt đầu tấn công với sức kiên nhẫn của một con mọt và tánh nham hiểm của một con cáo. Hắn lại thù Semmelweis bắt hắn phải rửa tay nên ra lệnh cấm dùng nước Chlorina, lấy lẽ rằng đắt tiền quá, quỹ sẽ bị thâm hụt. Semmelweis phải tra cứu những sách hóa học, chế tạo thứ thuốc khử độc rất rẻ tiền là nước vôi pha với Chlore (Chaux Chlorurée). Kết quả rất khả quan. Tháng bảy, số người chết chỉ còn có 1,2%.
Nhưng tháng tám, số đó tăng lên một chút: 1,89%, rồi bỗng nhiên tăng vọt: 5,25%.
Semmelweis lo lắng, cố tìm ra nguyên nhân, bắt được tại trận một sinh viên làm biếng, không chịu rửa tay. Ông đuổi ra ngay khỏi nhà thương rồi suốt ngày đêm kiểm soát từng ly, từng tý. Số tử lại bớt đi, rồi lại tăng. Trong số 12 người bệnh, có 11 người chết.
Lại điều tra, dò xét: Tại một con bệnh làm lây qua những con bệnh khác. Như vậy rửa tay trước khi vô phòng khám bệnh cũng chưa đủ mà phải rửa tay sau mỗi lần khám cho một bệnh nhân. Không phải chỉ cái độc của tử thi, mà cả cái độc của người còn sống nhưng mang bệnh cũng đủ sinh ra sốt sản hậu. Ông bèn ra lệnh, mỗi lần khám một bệnh nhân, phải rửa tay. Kết quả không ngờ: Tháng sau, không có một người nào chết cả.
Ba bạn thân của ông là Skoda, Rokitansky và Hebra mới hoàn toàn tin, rủ nhau lên báo cáo cho Klein.
Klein sợ sệt, lúng túng, nhìn bảng thống kê bảo:
- Tin gì được những con số? Người ta bắt nó nói gì chẳng được? Lúc này hết thời bị dịch rồi, chứ có gì đâu?
Skoda viết một bài tường thuật đăng vô tờ báo của hội Y Học Vienne. Các sinh viên thân tín của ông và của Semmelweis gởi báo cùng 12 bức thư đi khắp nơi ở trong nước và ngoài nước: Qua Anh, lên Na Uy, lại Kiel, nơi mà số tử vong lên tới 75%, lại Bá Linh, mà cứ ba sản phụ, có hai người chết, sang Ý, Nga, Hòa Lan, Pháp …. Rồi cả bọn đợi.
Một tháng sau mới nhận được một bức của bác sĩ Simson ở Luân Đôn, bảo rằng tính cách trừ độc của nước Chaux Chlorurée, ở bên Anh, người ta vẫn biết từ xưa, mà bệnh sốt sản hậu ai cũng biết là bệnh truyền nhiễm. Semmelweis thất vọng: Người ta không đọc kỹ bài báo, không nhận thấy chỗ quan trọng là phải rửa tay để khử độc trước khi khám bệnh.
Năm 1848, Cách mạng nổi ở Áo, nhưng cũng không mang lại một sự thay đổi nào cả. Klein vẫn giữ chức cũ. Semmelweis tiếp tục thí nghiệm, lần này vào loài thỏ và kết quả là chín con thỏ khỏe mạnh bị ông chích mủ sốt sản hậu vào cơ thể thì cả chín con đều mắc bệnh và có bảy con chết, chỉ có hai con sống sót.
Thí nghiệm đó trình lên Hàn Lâm Viện khoa học Vienne, nhưng các ông Hàn bảo rằng nó không giá trị gì cả, chỉ có những thống kê ở dưỡng đường – Tức những thống kê của Klein – Mới đáng tin thôi!
Mãi đến tháng tư năm 1849, Skoda mới nhận được lời cám ơn đầu tiên của bác sĩ Michaelis ở Kiel, nơi mà người ta phải đóng cửa nhà hộ sinh vì bệnh sốt sản hậu giết nhiều người quá. Thư rằng:
Khi tôi nhận được thư của ông thì tinh thần tôi đương chán nản ghê gớm. Nhà hộ sinh của chúng tôi phải đóng cửa từ ngày mùng một tháng bảy đến ngày mùng một tháng mười một. Rồi lại tiếp ba bệnh nhân, người thứ nhất chết, hai người sau, may mà cứu được.
…Bài báo của ông làm cho tôi tin tưởng trở lại …
…. Lần thứ nhất, tôi thấy có một chút hy vọng.
Tức thì tôi áp dụng phương pháp khử độc bằng nước vôi pha Chlore. Và từ đó, không thấy một sản phụ nào mắc bệnh sốt sản hậu nữa, trừ mỗi một người trong tháng hai … Cho nên, tôi hết lòng cảm tạ ông … Ông đã giúp cho nhà hộ sinh của chúng tôi khỏi bị đóng cửa. Ông đã cứu được hàng trăm nhân mạng … Xin ông cho tôi gởi lời ngưỡng mộ và cám ơn bác sĩ Semmelweis … Khi tôi nghĩ đến những sản phụ mà chính tôi đã giết! …
Skoda đưa thư cho Semmelweis coi, bảo:
- Rồi sẽ nhận những bức thư như vậy nữa ở khắp xứ. Phải đóng khung nó lại rồi đăng báo Y Học Vienne.
Ngay tối hôm đó, Semmelweis trả lời bác sĩ Michaelis, hy vọng ông này sẽ là một người truyền bá đắc lực phương pháp của mình. Nhưng trớ trêu thay! Bức thư không bao giờ tới tay Michaelis cả. Vì quá đau khổ, hối hận vì tội lỗi của mình, Michaelis đã đâm đầu vào xe lửa tự tử. Bác sĩ Litzmann lên thay ông ta, tức thì bỏ phương pháp phòng độc, cho là ngây thơ!
o0o
Trong lúc đó, ở Vienne, nhóm Skoda phấn khởi thảo một bản thỉnh nguyện xin cấp tốc triệu tập một ủy ban gồm các y sĩ để định giá trị của sự phát minh.
Đơn gởi lên triều đình. Klein phản công tức thì, báo động tất cả các giới thủ cựu và các giáo phái. Triều đình ra lệnh cho Thượng Thư bộ giáo dục bác bỏ đơn đó, lấy lẽ rằng:
Vấn đề đó cũng đáng nghiên cứu, nhưng chưa phải lúc, vì năm nay không có dịch sốt sản hậu, không thể so sánh tình hình năm nay với tình hình các năm trước được. Mà khi nào cần điều tra thì chỉ có giáo sư Klein là được quyền điều tra thôi.
Sự thực rành rành ra vậy, hễ khử độc thì sống, không khử độc thì chết mà người ta đổ cho thời tiết rồi lại cấm nhóm Semmelweis, Skoda điều tra nữa!
Klein còn hô hào mọi giới tấn công Skoda.
Các giáo phái la lên:
- Đồ Duy Vật! Bỏ tù hết ráo đi!
Và các bác sĩ cũng hùa theo:
- Hoàn toàn duy vật! Duy vật một cách ghê gớm!
Semmelweis bị cất chức phụ tá ở khu Hộ sinh. Bây giờ thì không còn nghe tiếng rên rỉ, tiếng khóc của các sản phụ, tiếng chuông rùng rợn của mục sư nữa. Nhìn những bà mẹ hồng hào, những em bé mủm mỉm, lòng ông bùi ngùi. Nhưng ông vừa quay lưng để ra cửa, thì có tiếng cười lanh lảnh của một cô đỡ:
- Ha ha, từ nay khỏi phải rửa tay, bác sĩ!
Đau đớn nhất là một sản phụ mà ông đã cứu được mạng,cong cớn lên, lớn tiếng:
- Chào bác sĩ nhé! Về Hung Gia Lợi đi! Ở đây, chúng tôi không cần đến ông. Đàn bà chúng tôi dơ dáy quá mà! Nên khám xong, bác sĩ phải rửa tay! Về Hung mà rửa tay rồi khám các sản phụ của mi!
Bây giờ ông mới thấy sự phản bội của những kẻ giúp việc cho ông.
Tới cửa nhà thương, viên bác sĩ Carl Braun, thay chân ông, chìa ra một ve thuốc bảo:
- Ông còn bỏ quên cái này, bác sĩ!
Ông đỡ ve nước vôi pha Chlore mà lòng chua xót.
Skoda ráng vận động cho ông một chân giảng viên ở Đại học do chính phủ bổ nhiệm, nhưng lương bổng thì do các sinh viên chung nhau lại đài thọ. Ông miễn cưỡng nhận lời vì không muốn lãnh lương của các sinh viên hầu hết đều nghèo. Mọi việc thu xếp đã gần xong, nhưng khi danh sách giáo sư được niêm yết thì người ta không thấy tên ông. Tất có bàn tay bí mật của cáo già Klein nhúng vào.
Trong lúc đó, số tử thi ở khu hộ sinh tăng vọt lên 34% vì chỉ một số ít sinh viên vẫn giữ phương pháp khử độc, còn thì làm biếng không chịu rửa tay. Mà chỉ một bàn tay dơ khám khắp lượt bệnh nhân là đủ gieo cái chết khủng khiếp. Người ta đưa cái số đó cho Klein coi. Hắn tươi cười đáp:
- Đó, các ông thấy không? Tôi đã bảo rồi mà, phương pháp rửa tay có kết quả gì đâu? Nếu có kết quả, chỉ là làm cho tình trạng thêm nguy kịch mà thôi. Chà, tới trên một phần ba rồi!
Semmelweis nghe thấy mà đứt ruột.
Skoda, Rokitansky và Hebra lại vận động cho ông vô Hàn Lâm Viện Áo. Hay tin đó, Klein cho phao tin rằng ông đã phá thai nhiều sản phụ, rằng con Quỷ Semmelweis chẳng có lương tâm gì cả đối với phụ nữ.
Thế là khi danh sách các ông Hàn được công bố, người ta lại không thấy tên ông.
Skoda cũng kiên nhẫn không kém Klein. Ông để cho vụ đó nguôi nguôi, rồi một hôm, niềm nở, lễ phép vào thăm Klein:
- Kính chào ngài giám đốc, tôi lại xin ngài ban cho tôi một ân huệ!
- Cái gì vậy, bác sĩ? Tôi sẵn lòng lắm. Lúc nào tôi cũng vui vẻ giúp đỡ cựu sinh viên của tôi.
- Thưa ngài, tôi muốn thu thập tài liệu để … viết một bài ngăn ngắn.
- Chịu khó khảo cứu nhỉ?
- Dạ, có gì đâu ạ. Tôi xin ngài cho tôi dùng văn thư của tiểu khu I. Thưa, tôi sẽ không dám làm phiền ai hết đâu ạ. Tôi không mang về nhà mà tới phòng văn thư vào buổi tối, tìm kiếm lấy rồi ghi chép ít hàng thôi ạ.
- À! Ông muốn lục văn thư của tôi, cái đó thì không được.
- Thưa, tôi chỉ coi công văn thôi ạ.
- Công văn cũng không được.
- Thưa ngài giám đốc, công văn mà cũng không được ư?
- Tôi nói không là không.
- Thưa ngài, tôi xin coi để nghiên cứu khoa học mà?
- Thôi, tôi bận việc lắm, bác sĩ ra đi.
Nhưng nói rồi, Skoda cũng kiếm được một bản sao các công văn đó, viết một bài so sánh kết quả của phương pháp khử độc khi Semmelweis còn làm ở tiểu khu I với số chết kinh khủng khi người ta đuổi Semmelweis đi và bỏ phương pháp của ông.
Bài đó đọc ở Hàn Lâm Viện khoa học có tiếng vang lớn. Hàn Lâm Viện trợ cấp cho Semmelweis một số tiền để tiếp tục nghiên cứu, nhưng không được vô phòng hộ sinh, không được vô phòng giải phẩu thì nghiên cứu cách nào bây giờ? Tuy nhiên, đó cũng là một thắng lợi về tinh thần.
Klein tím gan lại, huy động ngay một số lang băm vô lương tâm, nhao nhao lên chưởi Semmelweis, viết bài mạt sát. Ông phải đăng đàn ở Hàn Lâm Viện vài lần nữa để bênh vực thuyết của mình. Phe Klein cho người tới phá, bảo:
- Thuyết Semmelweis có một nhược điểm lớn là giản dị quá. Vì nó giản dị quá cho nên nó không có giá trị.
- Thuyết Semmelweis duy vật. Mà duy vật là không có trời, là phạm thượng!
Và mặc dầu được làm hội viên Hàn Lâm Viện khoa học, mà tới khi Skoda vận động cho ông một lần nữa chức giảng viên thì người ta không gạt hẳn tên Ignace Philippe Semmelweis ra, nhưng chỉ bớt đi ba chữ.
Đó là khi ông Thượng thư Bộ Giáo dục ký nghị định bổ Semmelweis giữ chức: Giảng Viên được mổ xẻ tử thi và hình nộm để dạy sinh viên. Nhưng khi nghị định được đăng trên công báo, không hiểu vì đâu mà mất đi ba chữ: “Tử Thi Và”. Như vậy còn dạy cái gì nữa? Sinh viên nào chịu đóng tiền cho một giảng viên để học cách mổ xẻ hình nộm!
Chán nản, Semmelweis từ biệt các bạn thân về Hung Gia Lợi, quê hương của ông. Đất Vienne này bạc bẻo, nhỏ mọn lắm, ông không thể ở lại thêm một ngày nào nữa được. Nhất định phải đi! Các bạn thân can ngăn ông, bảo: Chịu khó kiên nhẫn đợi, thua keo này, bày keo khác, ông chỉ lắc đầu. Hết muốn chiến đấu rồi!
Bác sĩ Kenneth Walker, tác giả cuốn La grande aventure de la Médecine (NXB Gérard et Cie), phê bình ông như vầy: “Semmelweis không có những thiên tư cần thiết cho một nhà cải cách”.
Frank G. Slaughter trong cuốn Cet inconnu …Semmelweis, cũng chê ông là vội vàng bỏ cuộc; giá cứ nhận ghế giảng viên đó mà đợi thời thì các bạn bè của ông thế nào cũng còn giúp ông được và ông sẽ thành công mau hơn.
Những lời trách đó đều đúng cả. Ông là một nhà bác học có lòng nhân đạo chứ không có tinh thần chiến đấu. Ông đau khổ thấy hàng vạn sản phụ và hài nhi chết mỗi năm ở trước mắt mình, biết cách trị mà phải bó tay nên đi tìm một nơi khác người ta biết dùng mình chứ không chịu nổi cái không khí cải vả nhau, hại ngầm nhau như cái không khí đê tiện ở Vienne nữa. Ông đã chịu thua Klein. Các sản phụ và hài nhi ở Vienne, từ nay lại tiếp tục chết như rạ vì vị cứu tinh của họ đã phải gạt lệ mà xa họ.
o0o
Về tổ quốc, ông gặp bạn thân cũ là Markussovsky, được giới thiệu vào nhà hộ sinh Saint Roch của tỉnh Pesth. Nhà hộ sinh này rất nhỏ, chỉ bằng một phần mười khu hộ sinh Vienne, cả năm chỉ tiếp nhận chừng một – hai trăm sản phụ. Viên giám đốc là bác sĩ Birly, hiền lành nhưng óc hẹp hòi. Mặc dầu đã đọc thuyết của ông, nhưng tuyệt nhiên không tin, cho rằng chỉ có mỗi một cách hiệu nghiệm để trị chứng sốt sản hậu là bắt sản phụ xổ mỗi ngày.
Cuối tháng đầu, Semmelweis làm cho số tử trụt từ 13% xuống 0,46%. Birly trông con số ấy, tươi cười nói:
- Đó, tôi nói có đúng không? Từ khi ông mới tới, tôi đã dặn ông cứ cho họ xổ mỗi ngày là họ mạnh. Cám ơn ông, những sản phụ của nhà thương chúng ta được xổ kỹ nhất ở khắp nước.
Được cái Birly không hề cản trở, ghen ghét ông, có lần lại còn tỏ lòng thương hại nữa:
- Bác sĩ tận tâm quá, sao mà lao lực suốt ngày đêm, coi bệnh nhân như là ruột thịt của bác sĩ vậy?
- Thưa ông giám đốc, tôi không có gia đình nên coi họ như là người thân vậy.
- Thật họ có phước mới gặp được bác sĩ. Nhưng bác sĩ nhớ đấy nhé. Cho xổ mỗi ngày đi. Cứ cho xổ đi, cho xổ hoài đi, sẽ không có một người nào chết nữa, 0,46%, tốt lắm rồi!
Semmelweis chỉ đứng trơ trơ ra, không mỉm cười, cũng không thở dài được nữa. Chẳng một ai hiểu mình cả!
Trong mấy năm, lời phê bình của các bác sĩ ở khắp nơi cũng thỉnh thoảng được bạn bè gởi tới cho ông, nhưng đều một giọng: Đâu có giản dị như vậy?. Hoặc: Nguyên do là tại Khí Độc, tại Thời Tiết, tại Lên Sữa …. Người ta chỉ biết lặp lại những thuyết cũ học ở trường. Người ta cũng chẳng thèm thí nghiệm nữa, cứ thấy cái gì mới là tin chắc rằng sai!
o0o
Nhà thương nhỏ, lương không được bao nhiêu, ông thiếu hụt, ăn bận lôi thôi. Markussovsky thương hại, khuyên ông khám bệnh thêm ở nhà. Muốn vậy, cần sắm thêm vài bộ quần áo sang trọng và một con ngựa tốt. Bạn bè giúp tiền và ông nghe lời họ mở một phòng khám bệnh. Mới đầu, thân chủ chỉ lưa thưa vài người vì tuy ông giỏi và tận tâm, nhưng ông lại không khéo xã giao.
Dịp may tới, Hầu tước phu nhân Gradinish bị một chứng nan y, cho mời ông tới chẩn mạch. Bà là người quyền thế và hách nhất trong xứ, tất cả hạng quý phái đều sợ. Y sĩ nào được chẩn mạch cho bà thì sẽ nổi danh khắp nước. Semmelweis và một y sĩ nữa ngồi xe tới biệt thự, qua ba bốn lần cửa, ở mỗi cửa một tên lính hầu chực sẵn, dẫn vô phòng trong. Sau cùng, hai ông tới trước giường Hầu tước, gập mình xuống chào rồi đứng đợi. Hầu tước đưa mắt ra lệnh cho thị nữ ra ngoài.
Semmelweis lại cúi chào lần nữa, thưa:
- Xin Hầu tước cho phép.
Ông kéo mền phủ thân thể bà Hâu tước cho ngay ngắn, luồn tay xuống dưới xét.
Bạn ông khám lại một lần nữa. Rồi hai người lánh ra một góc, nói nhỏ với nhau. Một lát sau, trở lại bên giường bà Hầu tước. Hầu tước hất hàm hỏi như hỏi người ở:
- Sao?
- Bẩm Hầu tước, chúng tôi đau đớn mà thưa thực rằng Hầu tước bị chứng Ung thư tử cung.
- Chắc chắn?
- Bẩm, chắc chắn.
- Phương thuốc?
- Bẩm. Vô phương.
Hầu tước gật đầu, họ lặng lẻ đi ra.
Ngay sáng hôm sau, tin đồn khắp Châu thành và các bà quý phái nườm nượp lại phòng khám bệnh của Semmelweis. Hết giờ tiếp khách, một người bạn bảo ông:
- Thấy không? Tôi đã đoán trước rồi, phải gạt bớt ra chứ tiếp không xuể. Anh cho họ những thuốc gì?
- Chẳng cho thuốc gì cả. Họ khỏe mạnh, có bệnh gì đâu? Họ kêu hay chóng mặt, nhức đầu, ăn không ngon, ngủ không ngon, mệt. Tôi kêu họ bớt ăn thịt đi, đi bộ nhiều lên thì hết. Họ có vẻ không bằng lòng.
- Anh này điên! Tiền tới tay mà không biết nhận! Cứ kê những toa thật mắc tiền cho họ, họ sẽ rủ nhau tới nhiều hơn nữa.
- Một y sĩ không thể làm như vậy được!
- Muốn nghèo thì mặc!
Tối hôm đó, ông thao thức nhớ lại hồi còn đi học, có lần một giáo sư cho ông khám một cái mụn ở tử cung và cảm giác lần đó y như lần này. Mụn đó chỉ là một cái bướu nhỏ, không phải là ung thư. Đương đêm, ông tung mền dậy, chạy một mạch tới lâu đài của nữ Hầu tước, kéo chuông liên hồi, làm gia nhân hoảng hốt ra mở cửa. Ông sồng sộc chạy vô, hổn hển tới bên giường bà Hầu tước. Bà ta đương đọc sách, ngó lên, vẻ khinh bỉ. Ông tiến lại:
- Tôi xin lỗi Hầu tước!
- Sao vô lễ vậy?
- Một chút thôi ạ!
Ông khám lại cái mụn, đúng rồi, ông hớn hở thưa:
- Bẩm Hầu tước, về nhà tôi vẫn nghi ngờ. Lúc nãy nhớ lại, vội vàng lại đây thưa Hầu tước hay để Hầu tước khỏi lo. Không phải là ung thư, chỉ là một cái bướu thôi ạ!
- Được! Bác sĩ về đi!
Tới nhà ông mới hay mình vẫn đang mặc quần áo ngủ mà đi thăm bệnh.
Tin lại đồn vang cả Châu thành. Và từ đó, thân chủ vắng hoe. Ai mà còn muốn lại khám bệnh ở chỗ một bác sĩ “Rừng rú” tới bực đó? Semmelweis lại an phận sống trong cảnh nghèo.
o0o
Mới 36 tuổi mà tóc ông đã hoa râm. Bác sĩ Birly qua đời, ông được thay chân giáo sư sản khoa. Số chết ở phòng hộ sinh xuống tới 0,39%.
Ở Vienne, Klein chết, Carl Braun lên thế. Chắc các độc giả còn nhớ Braun, người đã đứng chờ ông ở cửa nhà thương Vienne để trả lại ông chai nước vôi pha Cơ lo. Số tử trở lại như xưa: 25 – 30%. Hébra không còn quản lý tờ Y Học Vienne nữa. Người thế chân cho đăng ngay một bài đả kích phương pháp phòng độc của Semmelweis, đoạn kết có câu:
“Chúng tôi nghĩ rằng thuyết khử độc bằng nước Chlorine đã chết từ lâu, chết hẳn rồi. … Chúng tôi khuyên độc giả đừng để cho ngụy thuyết đó làm lầm lạc nữa”
Hay những tin đó, ông chán nản. Trong lúc tinh thần đang xuống thì may mắn thay, ông gặp được một thiếu nữ, nàng Maria Weidenhofer. Nàng thì trẻ, con nhà giàu mà ông thì lớn tuổi, vẻ mặt khắc khổ, y phục lôi thôi. Nhưng lần đầu mới gặp nhau, họ đã thương nhau liền. Ông đòi theo nàng về nhà. Nàng bằng lòng; tới nơi, ông xin hỏi nàng liền. Song thân nàng rất ngạc nhiên, chưa có thiện cảm với ông nên còn do dự, hứa một năm sẽ cho cưới. Nhưng nhờ cô Maria năn nỉ cha mẹ, và nhờ tấm lòng thành khẩn của Semmelweis, hôn lễ chỉ ba tháng sau đã cử hành.
Cô Maria hiểu lòng ông, hiểu tính tình, nhất là hiểu lý tưởng của ông nên ông đã được sống nhiều năm sung sướng. Nhưng một nhà bác học, thấy lý thuyết của mình không được chấp thuận và những lời hô hào nhân đạo của mình chỉ là tiếng chuông trong sa mạc thì làm sao có thể hoàn toàn sung sướng được?
Cho nên, ngoài những giờ vui sướng với vợ con (Họ sanh được một trai, hai gái), ông vẫn như người mất hồn, cắm cổ làm việc cho hết ngày. Mà không như vậy, cũng không được vì ông không thể tin cậy bất kỳ ai trong dưỡng đường cả.
Một lần, bệnh lại phát lên dữ, làm chết nhiều sản phụ. Nhưng lạ lùng thay, các em bé đều khỏe mạnh cả. Ông suy nghĩ, cho rằng các sản phụ đã bị lây sau khi sanh. Như vậy, chỉ có thể do những tấm “Drap” dơ thôi. Nhưng drap vẫn thay đúng lệ mà? Ông phải điều tra mới tìm ra nguyên nhân: Drap tuy có thay mà không giặt! Không biết các thầy ký ở dưỡng đường có ăn hối lộ không, chỉ biết rằng người thầu giặt drap ôm những drap dơ về, chẳng giặt gì cả, ít bữa sau, đem trở lại, bảo là giặt rồi mà cũng chẳng ai kiểm soát! Ông giận dữ gói những tấm drap thành một bọc, ném lên bàn viên thư ký và mắng hắn là kẻ sát nhân.
Ông bỏ tiền túi ra mua một lúc 100 tấm drap, tặng dưỡng đường để có dư drap mà thay. Ông lại vận động với chính quyền, xin mở thêm một nhà hộ sinh nữa và soạn một cuốn sách về nguyên nhân và phương pháp trị bệnh sốt sản hậu.
Trong khi đó, các bác sĩ ở Đức vẫn bảo bệnh đó do khí độc và do sữa lên. Hàn Lâm Viện Y học ở Ba – Lê tuyên bố chỉ dùng Ký ninh là trị được?
Có bác sĩ lại nói vu vơ rằng bệnh đó gốc ở tử cung!
Bác sĩ Dubois lừng danh đương thời đăng đàn mạt sát ông là “Thằng Điên ở Pesth”, rồi kết luận rằng: Chỉ có mỗi một cách trị là đóng cửa tất cả những nhà hộ sinh.
Đọc những tin đó, Semmelweis nắm chặt tay lại, nghiến răng la lên:
- Không có trời ư? Trời không có mắt ư? Sao trời để cho họ tiếp tục giết người như vậy?
Ở bên Anh, người ta liệm hai cái thây lại chung một áo quan để thiên hạ không biết rằng chết nhiều đến bực nào!
Cô Maria lại an ủi chồng, ông gục đầu vào lòng vợ khóc nức nở.
Sách ông viết xong, rất đầy đủ và sáng sủa. Cũng chỉ có mỗi một tiếng vang nhỏ. Vài bác sĩ ở Greifswald, ở Helsingfors gởi thư về khen, hứa sẽ thí nghiệm phương pháp mới, nhưng kết quả thí nghiệm ra sao thì họ không cho biết! Một bức thư an ủi tác giả nhất được gởi từ Hanovre, của một thanh niên tên là Kugelman – Học trò của Michaelis.
Thư rằng:
“Xin giáo sư cho tôi được tỏ với giáo sư cái nỗi vui thiêng liêng của tôi khi đọc tác phẩm của giáo sư … Tôi đã không nhịn được mà phải bật ra lời này trước mặt một bạn đồng nghiệp:
- Người đó là một Jenner ° thứ nhì! (Jenner là một y sĩ Anh (1749 – 1823) đã phát minh ra phương pháp chủng đậu và viết nhiều sách về phương pháp đó).
Trong nhân loại, ít ai truyền bá được những ân huệ lớn lao và lâu bền … Và trừ vài lệ ngoại, loài người đã hành hạ những ân nhân của mình….
Tôi mong rằng giáo sư sẽ không nản chí mà tiếp tục cuộc chiến đấu vĩ đại và vẻ vang đó, cho tới lúc thành công. …”
Cùng với bức thư đó, Semmelweis nhận được một cuốn sách, trang đầu có đôi lời đề tặng này:
“Tôi trân trọng xin giáo sư nhận cuốn sách quý nhất và thân nhất của tôi này, gọi là để tỏ chút lòng biết ơn giáo sư!”
Ký tên: Kugel.Man.
Cuốn sách đó là của Jenner, xuất bản lần đầu và mang chữ ký của tác giả.
Nhưng chỉ một bức thư như vậy thì có biết bao bài báo cay độc.
Kẻ thì viết:
“Trừ Semmelweis ra, không ai nhận thấy một chút kết quả gì của phép khử độc và cái lối rửa tay kỳ dị đó! Bệnh sốt sản hậu do một nguyên nhân bí mật, chưa ai biết là gì.”
Kẻ thì nói giọng khinh bỉ:
“Dù giữ sạch sẽ đến cách nào nữa thì cũng vô hiệu, bệnh sốt sản hậu vẫn phát ra mạnh mẽ lạ lùng ở đây. Thuyết của Semmelweis phiến diện, hẹp hòi, sai lầm!”
Thì ra, từ trước tới sau, trừ mấy bạn thân ở Vienne: Skoda, Rokitansky, Hebra, một bạn thân ở Pesth là Makussovsky và vợ ông – Cô Maria, thì khắp Châu Âu, chỉ có hai người là tin chắc phương pháp của ông, tức là hai thầy trò Michaelis. Tiếc thay, Michaelis thì vì hối hận mà tự tử! Còn môn đệ ông ta thì quá trẻ, rút cục cũng chẳng giúp Semmelweis được chút gì!
o0o
Hét vào tai các bạn đồng nghiệp trong 20 năm mà vô hiệu – Họ điếc hết, điếc đặc! – Ông thay đổi chính sách.
Một buổi sáng, mới tỉnh dậy, ông nảy ra một ý, nhảy phắt xuống sàn, chạy sang phòng giấy. Ông phải đi qua phòng chung. Cô Maria hét lên:
- Mình!
Ông tươi cười quay lại. Cô hoảng hốt nhìn ông:
- Còn có các con!
Ông cúi xuống nhìn, thì ra ông quên chưa bận quần áo.
Hôm đó, ở nhà thương về, gặp một người đàn ông đứng tuổi, ông tiến lại lễ phép thưa:
- Xin lỗi ông, chắc ông chưa biết thuyết của tôi về bệnh sốt sản hậu chứ?
Người đó trố mắt nhìn ông rồi vội vàng lánh xa.
Thấy một cặp thanh niên khoác tay nhau, ông lại gần:
- Cô cậu sắp làm lễ cưới phải không? Tôi phải báo trước: Sẽ nguy hiểm lắm đấy! Khi nào sanh, phải bắt bác sĩ rửa tay thậy kỹ đi nhé! Nhớ đấy!
Không thuyết phục các y sĩ được thì ông phải đi cảnh cáo từng người dân thường một. Ông đã bắt đầu loạn óc.
Tháng sau, trong cuộc họp ở trường Đại học để giải quyết các vấn đề nội bộ, viên chủ tịch hỏi ý kiến ông, ông mở một tờ giấy ra đọc:
“Tôi thề với Thượng đế tối cao, tối đại, vạn trí, vạn năng, rằng không khi nào tôi hành hạ các con bệnh của tôi …”
Đó là lời thề của các cô đỡ. Cả phòng ngơ ngác và thương hại ông. Ông đọc xong lời thề, gục đầu xuống khóc. Các bạn đỡ ông về nhà, cho vợ ông hay, bàn thầm với cô phải đưa ông đi nhà thương điên ở Vienne. Cô Maria nức nở. Ông ngạc nhiên muốn lại an ủi bà, rồi bỗng nhiên hiểu hết, tự nhủ: “Mình điên rồi!”. Ông hoảng hốt, toát mồ hôi, vào nằm trong phòng riêng. Một lúc sau, ông mỉm cười một cách tinh quái.
Hôm sau, ông dậy sớm, lại nhà in đưa một tờ giấy nhỏ, bảo phải in gấp, 24 giờ sau lấy. Sáng hôm sau nữa, ông trở lại nhà in hỏi. Họ đưa ông một chồng giấy in chữ đậm những hàng này:
“Hỡi các bạn thanh niên nam và nữ!Nguy đến tính mạng các bạn đấy. Bệnh sốt sản hậu rình các bạn. Các bạn phải coi chừng các y sĩ vì họ sẽ giết các bạn! Các bạn nhớ kỹ: Khi sanh, TẤT CẢ những cái gì chạm tới thân thể bạn mà không được rửa xà bông thật kỹ rồi kỳ cọ trong nước Chlorine thì các bạn sẽ chết đấy, bạn và cả con bạn.
Tôi khuyên các y sĩ không được, nên phải khuyên bạn.
Bạn phải tự che chở lấy mình!
Bạn thân của các bạn: Ignace Philippe Semmelweis.”
Ông ôm giấy đó đi khắp các đường phố, gặp bất kỳ thanh niên nào cũng phân phát bắt buộc phải cầm lấy.
Xong việc, ông mỉm cười khoan khoái. Nhưng như vậy, chưa đủ cho người ta tin. Ông chạy tới nhà thương, xông vào phòng giải phẩu, gạt các sinh viên ra, nắm lấy một con dao, chém vào một tử thi vài ba nhát, cho dao dính đầy máu mủ, rồi đưa cao bàn tay trái, dùng ngay lưỡi dao đó, cắt một ngọn tay cho thành một vết thương khá sâu, sau cùng, nhúng ngón tay đang chảy máu vào đám mủ hôi thối của tử thi, ngoáy đi, ngoáy lại rồi mới thở dài bước ra. Cả phòng hoảng hốt. Ông nhất định tự tử, lấy cái chết của mình để làm gương cho thiên hạ, mở mắt cho thiên hạ, chứng tỏ cho thiên hạ rằng bệnh sản hậu do nhiễm độc mà sinh ra. Ôi chua xót! Ông hy sinh thân ông, hy sinh cả người vợ trẻ và hiền, cả ba đứa con nhỏ của ông nữa!
Một người nào đó đã nói: “Hễ còn cây thì còn Thánh giá!” – Đúng thay và đau đớn thay lời đó! Trong lịch sử Y Học, tôi chưa thấy một sự hy sinh nào ghê gớm tới như vậy!
Hôm sau, cô Maria, Markussovsky và vài bạn thân nữa đưa ông đến nhà thương điên ở Vienne.
Các bạn thân của ông ở Vienne ra đón ông ở ga, ông tươi cười chào họ.
Cô Maria phải ở ngoài, mấy lần xin vào nuôi chồng, thăm chồng mà không được phép.
Ông ở trong phòng mà cửa sổ đều có chấn song sắt. Ngón tay sưng vù lên. Cả cánh tay trái cũng sưng. Nửa thân trên nhức nhối. Tỏa cầu khuẩn (Streptocoque) đã phá phách tới bụng: Như có lưỡi dao ngoáy ở trong đó. Đồng thời với bệnh điên, ông mắc thêm bệnh sốt như sốt sản hậu.
Nửa đêm, ông tỉnh dậy. Phòng tối đen. Ông lồm cồm ngồi lên, bước xuống sàn, ra cửa, xoay quả nắm, cụng đầu vào cánh cửa la lên. Cửa mở, một người gác ngó vào hỏi:
- Chuyện gì vậy, bác sĩ?
- Khuya rồi, trễ rồi, tôi phải đi thăm con bệnh!
- Để đến sáng, bác sĩ!
- Không được! Con bệnh đang cần tôi, đợi tôi!
- Họ ngủ hết rồi, bác sĩ!
Semmelweis thoi người gác một cái rất mạnh:
- Có cho tao ra không? Quân sát nhân này! Tao phải đi chữa cho bệnh nhân của tao!
Người gác thoi lại ông mấy cái túi bụi, xô ông vô rồi khóa cửa phòng lại. Ông la hét, đập phá suốt đêm.
Ngày 13 tháng 08 năm 1865, ông nằm thoi thóp trong phòng bệnh, hai bên là bác sĩ Hebro và bác sĩ Reidel – Giám đốc bệnh viện. Ông mở mắt hỏi:
- Bác sĩ Hebro ngồi đó chứ? Tôi sẽ chiến đấu hoài, không ngừng đâu … Không khi nào!
Rồi ông tắt nghỉ mà không được thấy mặt vợ con.
Đau đớn hơn nữa là cái chết của ông kéo theo cái chết của cậu con trai tên là Bela. Cậu rất kính mến cha, ủ rủ trong mấy năm, thất vọng vì thuyết của cha không được xã hội công nhận, đã tự tử khi chỉ mới có 26 tuổi!
Ông mất được 14 năm, nhà bác học Pasteur mới kiếm ra được vi trùng Stretocoque trong máu bệnh nhân. Và lúc đó, ngưới ta mới nhận lời tiên tri của Semmelweis là đúng.
Nhưng rồi phải đợi thêm 11 năm nữa, nghĩa là vào khoảng 1890, lớp bác sĩ già, thủ cựu chết hết, lớp người trẻ có óc tân tiến lên thay, phương pháp phòng độc của Semmelweis mới lan dần, và được phổ biến.
Năm 1891, xứ Hung Gia Lợi bỗng nhiên nhận công lao của ông, hãnh diện đã sanh được một thiên tài vào hàng ân nhân của thế giới, xin bốc hài cốt của ông từ Vienne về Budapest để làm quốc táng. Nực cười nhất là cả Đức lẫn Áo đều phản đối kịch liệt, nhưng vô ích, viện cớ rằng ông là người Đức mà được đào tạo ở Áo.
Năm 1906, người ta dựng tượng cho ông và bây giờ nhân loại thoát hẳn cái kinh khủng của bệnh sốt sản hậu.
Mọi người đều nhận rằng công của ông ngang với công của ông Pasteur, rằng môn giải phẩu sở dĩ có kết quả, tấn phát mau là nhờ ông – Người đã làm một cuộc đại cách mạng trong ngành sản khoa, đã hy sinh cho chân lý mà suốt đời bị thiên hạ chê bai, khinh bỉ, có khi chưởi rủa nữa!
Ghi chú: ° Ngày nay, người ta biết rằng bệnh sốt sản hậu do những tỏa cầu khuẩn (Streptocoque) sinh ra. Chúng nẩy nở rất mau trong những da thịt thối nát, hoặc làm mủ. Hễ chúng vô được cơ thể, chẳng hạn qua vết thương ở ngoài da thì gây ra bệnh sốt, mê sảng, sưng màng óc, sưng phổi, sưng ruột … rất nguy cho tính mạng.