Bắc La Ni Tây Á.
Mùa thu vàng tháng mười, khí hậu khô ráo dễ chịu, mặc dù trong gió nhẹ thổi vào mặt đã mang theo một chút cái lạnh, khi vô tình phất qua khuôn mặt non mềm, sẽ làm gò má đỏ bừng kiều diễm, nhưng cái se lạnh đó không thôi đi được nhiệt hỏa trong lòng nhân dân, trên mặt đất vừa mới thu hoạch, khắp nơi đều là bóng người bận rộn, bọn họ tranh thủ từng giây từng phủ, đem tổn thất mang tới bởi chiến loạn bù đắp trở lại.
Xe ngựa sức chứa rộng rãi tốc độ đều đều đi trên đất đai bắc La Ni Tây Á, con đường mà nó đi qua, đang được vô số nhân dân lao dộng mở rộng, cư dân và di dân hai bên đường đều là do chính phủ địa phương tổ chức nên, sửa sang giao thông then chốt, thỉnh thoảng truyền tới tiếng thuốc nổ phát nổ, có thuốc nổ chất lượng cao, công tác phá núi đào đường nhẹ nhàng hơn nhiều, tốc độ thi công đường xá cũng tăng vọt.
Công nhân làm đường đều hiếu kỳ dò xét đội xe đang đi lên, mang theo ánh mắt kính úy nhìn vân viên cảnh vệ xung quanh đội xe, bọn họ không biết trong đội xe có nhân vật nào, nhưng ít nhất thân phận không thấp, bởi vì địa phương đội xe đi qua đều bố trí cảnh giới hết sức nghiêm mặt.
“Phong, trên cả đường đi tựa hồ càng đều có chút tâm tình nặng nề đó.” Trong khoang một cỗ xe ngựa nào đó, Khắc Lệ Tô Na lớn gan xưng hô với Dương Túc Phong giống như các tỷ muội khác, chẳng để ý thân phận đặc thù của mình. Trong mấy ngày vừa qua, cái tên của nàng và Dương Túc Phong đã liên hệ chặt chẽ với nhau, thậm chí ngay cả phụ mẫu của nàng cũng ngầm chấp nhận chuyện này, mặc cho cha mẹ nàng vì sự xuất hiện của Dương Túc Phong mà mất đi quyền lực vốn có.
“Không có gì.” Dương Túc Phong bình thản nói, vẫn cúi đầu xem văn kiện các nơi đưa tới.
“Những chuyện này, sao chàng biết được?” Khắc Lệ Tô Na cảm thấy hết sức hiếu kỳ với quền sách nhỏ trước này chưa từng rời khỏi người Dương Túc Phong, bởi vì bên trong đó tri thức có thể nói là hoàn toàn mở rộng tầm mắt của nàng, làm cho nàng từ tận đáy lòng không thể không sinh ra sự bội phục với Dương Túc Phong, trên quyển sách này rất nhiều thứ đều là chưa từng nghe thấy, nhưng Dương Túc Phong lại tựa hồ lại hiểu rõ những danh từ cổ quái đó như lòng bàn tay.
“Xã hội nhân loại chính là phát triển như thế đó.” Dương Túc Phong không muốn giải thích sâu thêm, cũng không thể giải thích rõ ràng, nhưng lại làm cho Khắc Lệ Tô Na càng thêm hoài nghi, thậm chí hoài nghi y rốt cuộc có phải thần tiên hạ phàm hay không, tới khi Dương Túc Phong khóc cười không xong phủ nhận hơn năm lần, nàng mới nửa tin ngửa ngờ không hỏi nữa, nhưng trong lòng nàng gần như đã nhận định là thế.
“Nhưng lúa nước tạp giao, cái danh từ này e là chính chàng phát minh ra chứ?” Khắc Lệ Tô Na vẫn bám sát không buông hỏi.
Xa đội mỗi khi qua một địa phương, Dương Túc Phong đều muốn cùng quan viện địa phương tìm hiều tình hình cẩn thận, tìm hiều tình hình chính trị kinh tế cùng với sinh hoạt nhân dân nơi đó, chuyến đi này của y, đem sản xuất nông nghiệp trở thành mục tiêu thị sát chủ yếu, trừ hỏi han quan viên và cấp kỹ thuật viên chỉ đạo toàn vẹn ra, Dương Túc Phong thậm chí còn tự mình đi tới ruộng cùng lão bách tính canh tác truyện trò, tìm hiểu tình hình thực tế của họ, đồng thời đưa ra một số kết luận có sức thuyết phục.
Cho tới tận bây giờ, sản lượng lương thực của địa khu Mỹ Ni Tư thủy chung không đủ, mang đến những rắc rối tương đối lớn cho nhân dân địa khu Mỹ Ni Tư. Trừ địa khu cá biệt, đại bộ phận cư dân Mỹ Ni Tư rất ít cơ hội được ăn no, đây là hạn chế của hoàn cảnh tự nhiên ở địa khu Mỹ Ni Tư. Cả địa khu Mỹ Ni Tư, tài nguyên khoáng sản đúng là hết sức phong phú, nhưng đất đai thích hợp cho canh tác lại không có nhiều, nguyên nhân chủ yếu bởi vì tài nguyên nước hiếm hoi và vô cùng mất cân bằng. Địa khu Mỹ Ni Tư đại bộ phận là đồi núi, trừ Tình xuyên đạo có có hai con sông Hương Diệp và Hương Thảo chảy qua, thủy lợi tưới tiêu khá phát triển ra, các địa khu khác căn bản không có đủ tài nguyên nước, khó có thể tiến hành canh tác nông nghiệp, rất nhiều cư dân đã quen phương thức canh tác nghe theo mệnh trời rồi.
Sau khi quân Lam Vũ thành lập, thủy chung đều bị thiếu lương thức làm khổ, cho dù khi lương thực đầy đủ nhất, Dương Túc Phong cũng không dám học người ta đem giá cả lương thực toàn bộ thả lỏng, mặc dù vẫn luôn ở tiền tuyến đánh trận, nhưng đối với sản xuất nông nghiệp Dương Túc Phong thủy chung không dám lơ là, cho dù dưới tình huống bận rộn nhất, cũng phải đảm bảo sản xuất nông nghiệp có được xúc tiến hữu hiệu, kinh tế của địa khu Mỹ Ni Tư đồng thời ở cao độ phát triển, sản xuất nông nghiệp cũng bắt đầu có biến hóa về chất.
Để tăng tốc phát triển sản xuất nông nghiệp có hiệu quả, quân Lam Vũ thành lập cục nông nghiệp chuyên môn, dưới cục nông nghiệp quản lý mấy sở nghiên cứu khoa học ngôn nghiệp ở lĩnh vực khác nhau, tập trung nhân lực vật lực trọng điểm giải quyết một số nan đề mang tính kỹ thuật, ví như gây trồng giống cây mới, gây trồng hạt giống chất lượng cao, kinh nghiệm thu hoạch luân canh, phòng ngừa sâu hại..v..v… Dương Túc Phong yêu cầu ban ngành chủ quản nông nghiệp địa phương phải tăng cường quản lý, nhân viên kỹ thuật phải trực tiếp chỉ đạo và huấn luyện người dân nắm vững kỹ thuật nông nghiệp, thâm nhập tuyến đầu sản xuất nông nghiệp phổ cập kỹ thuật thực dụng, đem kỹ thuật nông nghiệp mới nhất kịp thời đưa tới tay người dân trong khi điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp đương thời, kết hợp với các hạng công trình nông nghiệp trọng điểm, áp dụng với các hình thức báo cáo khoa học, cố vấn kỹ thuật, chỉ đạo ký thuật. Triển khải bồi huấn kỹ thuật nông nghiệp ứng dụng trong t hời gian ngắn, căn cứ nhu cầu khoa học và trình độ văn hóa của người dân, tổ chức hoạt động đem kỹ thuật ứng dụng tới cho người dân, để cho mỗi hộ gia đình nông dân ít nhất có một nhân viên khá am hiểu kỹ thuật nông nghiệp.
Vì để phổ cập tri thức phát triển nông nghiệp, Tài Tiêm Tiêm lãnh đạo ngành xuất bản còn chuyên môn xuất bản báo chí và tạp trí liên quan tới sản xuất nông nghiệp, miễn phí đưa tới tay người nông dân, đồng thời do nhân viên kỹ thuật khoa học nông nghiệp của địa phương lấy chuyên môn chỉ đạo. Dương Túc Phong nhấn mạnh ngành xuất bản phải thâm nhập cơ sở triển khai điều tra nghiên cứu, kết hợp nông nghiệp sản xuất thực tế, tìm hiểu nhu cầu của nông dân, lấy kiến thiết công trình trọng điểm đề cao nông nghiệp, giúp đỡ nông dân tăng sản tăng thu làm nguyên tắc, tổ chức sàng lọc một số sản xuất nông nghiệp cần thiết, kỹ thuật thực dụng thao tác cao, viết thành vấn đáp kỹ thuật quan trọng, kỹ thuật ứng dụng nông dân làm giàu, nuôi dưỡng động vật kinh tế đặc chủng cùng lợi dụng các sách vở phổ cập khoa học hàng loạt phương diện nông nghiệp, thiết thực giải quyết vấn đề đông đảo nông dân và đơn vị cơ bản chưa khó khăn trong việc học tập kỹ thuật nông nghiệp ứng dụng.
Trên lịch sử của thế giới này, đem kỹ thuật nông nghiệp phổ biến diện rộng tới tay người nông dân như thế, quân Lam Vũ chính là đầu tiên, mặc dù mỗi lần xuất bản sách báo chi phí đều không ít, nhưng Dương Túc Phong khi ký tên vào báo cáo chi tiêu chưa từng hối hận, bởi vì y hiểu rất rõ khi không có lương thực người dân sẽ làm ra chuyện gì, ngược lại, chỉ cần có lương thực đầy đủ, xã hội ổn định là chuyện không cần phải nói.
Đưa vào thị trường kinh tế tự do, thuế nông nghiệp được miễn trừ hoãn toàn, kích thích phát triển sản xuất nông nghiệp, tính tích cực của nông dân địa khu Mỹ Ni Tư được đề cao cực lớn, nguyên lai khi dưới sự thông trị của đế quốc, người thống trị căn bản không quan tâm sản xuất lương thực ở nơi này, trong con mắt chỉ có kim cương và phỉ thúy của nơi đây, nhưng Dương Túc Phong đem địa vị sản xuất nông nghiệp đề cao rất nhiều, hoàn toàn thay thế cho đào bới phỉ thúy và kim cương không có tổ chức, cắt đứt con đường lợi nhuận tự ý khai thác kim cương và phỉ thúy, đồng thời nghiêm trừng kẻ tự ý khai thác, đem nhân lực vật lực hướng về trong sản xuất nông nghiệp.
Căn cứ vào khí hậu và đặc điểm hình thế địa hình của địa khu Mỹ Ni Tư, quân Lam Vũ nhập gia tùy tục mở rộng diện tích trồng các loại cây chịu hạn như ngô, khoai lang, cao lương, khoai mỡ, đậu phộng, lúa mạch, lúa mạch đen, khoai tây …v..v… đồng thời chuyên tâm truyền thụ kỹ thuật trồng trọt. Trong khu vực quân Lam Vũ khống chế, địa khu tài nguyên nước khan hiếm, trọng điểm phổ biến ngô và khoai tây, còn ở phụ cận cảng Bà Châu kênh đào chằng chịt, thì thử nghiệm phổ biến kỹ thuật lúa nước tạp giao, đề cao sản lượng. Tại địa khu đất đai khá phì nhiêu, luân lưu canh tác, không gián đoạn phát huy năng lực của đất đai, không cho đất đai thời gian rảnh rỗi, đồng thời trong sản xuất nông nghiệp, sử dụng lượng lớn các loại phân chuồng, nâng cao độ phì của đất, đồng thời một số địa khu bắt đầu sử dụng phân hóa hoặc kích thích tăng trưởng của thực vật.
Địa khu Mỹ Ni Tư rất nhiều núi đồi, thích hợp phát triển kinh tế lâm nghiệp. Vì thế Dương Túc Phong kiến nghị cư dân trồng hàng loạt các loại cây có thể thu hoạch lợi ích kinh tế lớn như trà, dâu, ca cao. Sản lượng gỗ của địa khu Mỹ Ni Tư chủ yếu đều ở rặng núi Thiếp Bác Lạp Tác tới địa khu phía bắc, sản lượng gỗ không lớn, vì thế trông cậy vào trồng cây lấy gốc quy mô lớn cũng là không thực tế, ngược lại trà, cây dây các loại cây cối có tính kinh tế cao khá lời, có thể nhanh chóng vì cư dân đương địa mang tới thu nhập.
Ở một số địa khu khá hẻo lảnh, quân Lam Vũ ra sức phổ biến trồng trọt bạch đàn, ở phía bắc vương quốc Tháp Lâm, Dương Túc Phong thậm chí tự mình trồng hơn mưới gốc cây làm mẫu, loại cây giống tới từ bán đảo Hỏa Long này, có sức thích ứng rất mạnh, có thể sinh trưởng ở đất đai cằn cỗi và dưới điều kiện khí hậu khô hạn, rất thích hợp trồng ở địa khu Mỹ Ni Tư. Phía bắc vương quốc Tháp Lâm và bộ phận địa khu vương quốc Mai Lý Đạt đều trồng hàng loạt loại Bạch Đàn này, những địa khu đó đất rừng đều bỏ hoang, đất đai kém máu mỡ, đất màu bị rửa trôi nghiêm trọng, người trồng rừng không tìm được giống cây thích hợp, chỉ có Bạch Đàn mới có thể sinh trưởng thành tài trên vùng đất thoái hóa cằn cỗi đó.
Cây Bạch Đàn ngoài tộc độ sinh trưởng nhanh ra, giữa loại cây dễ dàng tạp giao tạo nên giống tạp giao vượt quá giống gốc, đồng t hời dễ trồng thành giống vô tính tiến hành sinh sản vô tình. Những loại giống tốt này đề cao nhiều tính đồng nhất và chất gỗ, dựa theo tốc độ nhanh, kỳ đốn chặt ngắn, dưới điều kiện chuyên sâu kinh doanh có thể thành sản lượng đề cao bội phần. Bạch Đàn sau khi được chặt, có thể nảy mầm tái sinh đợi hai. Cây tái sinh đời hai do có thể lợi dụng hệ rễ vốn có, sản lượng só với cây trồng đời một còn cao hơn, do không phải trồng mới, hạ thấp rất nhiều giá thành sản xuất, đồng thời cũng giảm bớt tần độ canh tác đất đai, có lợi bảo trì đất màu.
Bạch Đàn có phạm vi sử dụng lớn, có thể cung cấp rất nhiều sản phảm vật liệu gỗ và không phải vật liệu gốc, thích hợp tạo thuyền làm giấy, đây cũng là nguyên nhân được Dương Túc Phong ra sức phổ biến. Bất quá, Dương Túc Phong coi trọng nó nhất vẫn là tốc độ sinh trưởng nhanh, dễ trồng, sản lượng gỗ lớn, hiện giờ công nghiệp đóng tàu của quân Lam Vũ phát triển thần tốc, muốn dùng toàn bộ loại gỗ chất lượng cao như gỗ sồi, gỗ du là không thể. Trừ một số bộ phận trọng yếu ra, chất liệu gỗ ở các vị trí khác chỉ cẩn cơ bản đủ dùng là được, nếu không căn bản lấy đâu ra nhiều vật liệu gỗ như thế để sử dụng, tạm thời quân Lam Vũ còn có thể lấy được gỗ từ trong một số khu rừng nguyên thủy, nhưng mấy năm sau, vật liệu gỗ sợ là sẽ vô cùng thiếu hụt, sửa nhà trước khi mưa là chuyện phải làm.
Bất quá Khắc Lệ Tô Na hiển nhiên không thích loại cây mang mùi rất nặng này, cho nên khi Dương Túc Phong trồng cây, nàng trốn ra rất xa, khi nghe nói Dương Túc Phong tới trong gia đình nông dân tự mình tìm hiểu gia súc sinh sản, nàng dứt khoát ở luôn trên xe ngựa, không theo ra ngoài nữa, nhưng Dương Túc Phong tỏ ra hết sức hăng hái với cuộc thị sát này, thậm chí quên luôn cả thời gian ăn tối.
Dương Túc Phong hiểu rất rõ, muốn dân chúng đi theo mình, trừ yêu cầu cơ bản nhất là phải để bọn họ được ăn no ra, còn phải để trong tay họ có tiền dư, mà gia đình nông dân có tiền dư thì từ đâu mà tới, đại bộ phận đều là từ nghề chăn nuôi, dù sao để nghề chăn nuôi có được phát triển nhảy vọt, mới có khả năng làm dân chúng mở hầu bao. Địa khu Mỹ Ni Tư sản lượng lương thực không đủ, không thích hợp tiến hành công nghiệp nuôi trồng diện rộng, ví như nuôi lợn. Nhưng thích hợp nuôi trâu, ngựa, dê. Đây là một thời cơ rất lớn.
Do nhu cầu của chiến tranh dài hạn, nhân dân địa khu Mỹ Ni Tư thường coi trọng nuôi ngựa. Năm xưa chính phủ đế quốc cũng hướng dẫn như vậy, mỗi năm đầu có thể từ địa khu Mỹ Ni Tư vận chuyển vô số ngựa sử dụng làm ngựa chiến, mà xem nhẹ sản xuất trâu dê. Quân Lam Vũ xoay chuyển cục diện này, mặc dù Dương Túc Phong cũng hi vọng có lượng lớn ngựa trang bị cho bộ đội, nhưng so sánh với cuộc sống nhân dân mà nói, trong điểm nuôi dưỡng trâu dê lại càng là hành vi lí trí hơn, có thể mau chóng cung cấp lượng lớn thịt, tiêu hao ít, sản lượng lớn. Về phần nuôi dưỡng hàng loạt ngựa, thì đợi tới khi bình đình cao nguyên Huyết Sắc xong hãy nói.
Địa khu Mỹ Ni Tư còn rất thích hợp cho gia cẩm sinh sản và phát triển, hộ gia đinh nông nghiệp nơi đây cơ bản trước nhà sau nhà đều có vườn hoặc ruộng nương, có thể nuôi thả các loại gia cầm như gà cịt. Quân Lam Vũ cũng ra sức đề xướng phát triển nghề gia cầm, nỗ lực cải biến gia đình chăn nuôi quy mô nhỏ phân tán, cổ vũ chuyên sâu nuôi dưỡng quy mô lớn, mở rộng quy mô và hiệu quả lợi ích. Khi Dương Túc Phong tới thị sát, ở phụ cận Nạp Tư Lôi Đặc, đã có đại hộ nuôi dưỡng hơn sáu vạn con gà và ba vạn con vịt, thu nhập kinh tế lớn. Hộ nuôi dưỡng này được Dương Túc Phong hạ lệnh đăng lên (nhật báo quân Lam Vũ), làm tấm gương cho đông đảo nông hộ học tập.
Trừ nghề nông nghiệp nuôi trổng ra, quân Lam Vũ cũng không bỏ quên phát triển nghề phụ của nông thôn, ví như săn bắn, xay sát, làm mì, làm đường, cất rượu, ép dầu cho đến nghề dệt, nhuộm, nuôi ong v..v..v cổ vũ phát triển các loại thủ công nghiệp, cổ vũ người dân sáng tạo các loại kỹ thuật tiên tiến, cổ vũ bọn họ dùng hai tay làm nên thu nhập của mình. Quân Lam Vũ triệt để phế trừ khi đó của đế quốc đối với thủ công, đem thủ công nghiệp lên cùng vị trí với công nông thương, bất kỳ ai cũng không được kỳ thị, những thủ công nghiệp đó đúng là có chút đặc sắc, Dương Túc Phong còn cổ vũ bọn họ xin độc quyền kỹ thuật, đầu tư quy mô, chuyển hóa kỹ thuật công nghiệp thành thực tế.
Ở cảng Ni Tư của Cách Lai Mỹ, Dương Túc Phong trọng điểm khảo sát phát triển ngư nghiệp đương địa. Cảng ni tư là cửa càng buôn bán, cũng là cảng ngư nghiệp trọng yếu, mặt biển phụ cận cảng Ni Tư tài nguyên ngư nghiệp phong phú, mỗi năm lượng đánh bắt cả hải dương đều chiếm một phần ba toàn quốc Cách Lai Mỹ, Dương Túc Phong không vừa lòng với điều này, y ngỏ lời với với quan viên ngư nghiệp đương địa, trừ tiếp tục phát triển kỹ thuật đánh bắt, lấy cá từ ngoài biển ra, còn phải tự mình nuôi dưỡng.
Dương Túc Phong chỉ ra rõ ràng, ngư nghiệp phải cải biến cách làm thuần túy đánh bắt, phải tích cực phổ biển nhân công nuôi dưỡng, không những phải phổ biến nuôi dưỡng cá và tôm, thỏa mãn nhu cầu thị trường bình thường, còn phải tích cực phổ biến nuôi dưỡng các loại cá hiếm, thỏa mãn nhu cầu thị trường cấp cao. Loại cá phổ thông chủ yếu là cá mè xanh, trắm cỏ cho cuộc sống hàng ngỳa, còn các hiếm thì là cá hồi, cá ngừ, cá chim. Kỹ thuật đánh bắt xa biển không ngừng tiến bộ, ví như tủ lạnh đã sơ bộ đưa vào sử dụng, đích xác có thể tăng cường sản lượng, nhưng thủy chung không thể thỏa mãn nhu cầu ngày một tăng, hơn nữa sản lượng không ổn định, dễ bị hạn chế bởi thời tiết khí hậu, chỉ có nhân công nuôi dưỡng, mới là đáng tin nhất.
Trên đường tới phía đông, Dương Túc Phong cũng thuận tiện thị sát công tác thăm dò đường sắt của La Ni Tây Á, dựa theo yêu cầu của Dương Túc Phong, cục đường sắt mới thiếp lập phải ra lượng lớn nhân viên kỹ thuật tới liên bang La Ni Tây Á, liên hợp với nhân viên kỹ thuật đương địa, triển khai công tác thăm dò tuyến đường sắt vắt ngang cả liên bang La Ni Tây Á, tới tháng mười một, bọn họ đã cơ bản hoàn thành thăm dò sơ bộ, đưa ra kết luậtn tuyến đường sắt có thể kiến thiết. Cùng với tiền vốn theo kế hoạch của Tài Băng Tiêu đến đúng hạn, tuyến đường sắt này có hi vọng bắt đầu khơi công vào đầu năm 1729 thiên nguyên. Sơ bộ kiến thiến cần thời gian ba năm, nhưng dùng sách lược phân đoạn bao thầu, có thể có bộ phận khu vực thông xe trước, tuyến đường sắt này hoàn thành, sẽ làm mỗi quốc gia của cả liên bang La Ni Tây Á liên hệ chặt chẽ với nhau, không còn khả năng độc lập và phân chia nữa.
Làm Dương Túc Phong vui mừng là, tuyến đường sắt từ cảng Ni Tư tới Nạp Tư Lôi Đặc đã hoàn thành đường ray, còn thời gian hai ba tháng nữa vận thành thử là có thể thông xe rồi, tuyến đường sắt này được kiến tạo, thời gian thi công thực sự chỉ dùng chưa tới nửa năm, so với thuyến đường sắt từ cảng Bá Châu với Gia Lạp Tháp Sa Lôi nhanh hơn nhiều. Điều này nói rõ trình độ kỹ thuật bình quân của Cách Lai Mỹ đích xác so với địa khu Mỹ Ni Tư cao hơn một bặc. Thông qua kinh nghiệm tích lũy được từ lần xây dựng đường sắt này, người Cách Lai Mỹ đối với xây dựng đường sắt có được càng nhiều kinh nghiệm, càng nhiều kỹ thuật mới bắt đầu ứng dụng trong thực tế, cũng cổ vũ rất lớn cho nhiệt tình của bọn họ, rất nhiều tuyến đường sắt mới đang trong kế hoạch, rất nhiều kỹ thuật cũng bắt đầu đưa tới địa khu Mỹ Ni Tư.
Trong yến hội của cảng Ni Tư, ngọn nến sử dụng mấy nghìn năm chính thức rời xa trường hợp trang trọng nghiêm túc này, thay vào đó là đèn sợi đốt không có khói và mùi, vố số đèn sợi đốt đem cả chính sảnh cảng Ni Tư trang điểm huy hoàng rực rỡ, hướng tất cả đại biểu tham dự yên hội cao ngạo thể hiện tính ưu việt của điện lực. Ứng dụng kỹ thuật điện lực cũng trở thành đề tài được thảo luận nhiều nhất trên yến hội, rất nhiều đại thương nhân sung túc vốn liếng chú ý tới nhà máy điện, mà sự cổ vũ của Dương Túc Phong cũng làm bọn họ yên lòng. Yến hội kết thúc không lâu sau, chính phủ Cách Lai Mỹ liền thu được hơn hai mươi kế hoạch xây dựng nhà máy điện lớn.
Đương nhiên, Dương Túc Phong quan tâm nhất là kỹ thuật tạo thuyền. Quân Lam Vũ có thể quật khởi trên thế giới này hay không, hải quân chính là mấu chốt, mà ra sức phát triển hải quân, phải cần dốc sức phát triển kỹ thuật tạo thuyền, đề cao tốc độ và chất lượng tạo thuyền. Đám Ốc Nhĩ Đa Phu và Đường Kiệt Lạp Đức đều được Dưong Túc Phong điều tới địa phương tạm thời làm việc, thương lượng vấn đề liên quan tới kỹ thuật tạo thuyền. Xưởng thép của Ốc Nhĩ Đa Phu đã qua mấy lần mở rộng, hiện giờ sản lượng đã vượt qua sản lượng nửa đế quốc Đường Xuyên, vật liệu thép đặc chủ mà quân Lam Vũ cần rất nhiều tới từ trong xưởng thép của ông ta sản xuất ra. Ngay cả sống thuyền của chiến đấu hạm chất thép kiểu mới cũng không ngoại lệ. Ông ta cũng là người đầu tiên dám ăn cua, người đầu tiên áp dụng kỹ thuật điện lực luyện thép, vì phổ biến ứng dụng của điện lực làm ra cống hiến to lớn.
Căn cứ vào báo cáo của Đường Kiệt Lạp Đức, hiện giờ ở vương quốc Cách Lai Mỹ đã có sáu xưởng tạo thuyền cỡ lớn, đang ngày đêm sản xuất làm ra Long Nha chiến hạm của quân Lam Vũ, mỗi xưởng tạo thuyền đều có mười hai tới hai mươi ụ thuyền, đồng thời Long Nha chiến hạm đang được làm vượt quá một trăm bốn mươi chiếc, dựa tho kỳ hạn kiến tạo mỗi chiếc thuyền sáu tháng mà tính, mỗi tháng đều có ược chừng hai mươi chiếc Long Nha chiến hạm đưa vào sử dụng, do áp chế độ làm việc dùng dây chuyển sản xuất và tiêu chuẩn hóa đơn vị, cho nên chu kỳ kiến tạo Long Nha chiến hạm ngày một ngắn, có khả năng chỉ cần một trăm bốn mươi ngày là có thể hạ thủy.
Tiêu chuẩn hóa tác nghiệp là đề tài Dương Túc Phong và bọn họ thảo luận nhiều nhất, cũng là thử nghiệm của Dương Túc Phong. Xưởng tạo thuyền trước đây đều là bao quát, từ sống thuyền cỡ lớn cho tới cái ốc vít nhỏ nhất, nhưng Dương Túc Phong quyết tâm cải biến sách lược này. Đem kết cấu của Long Nha chiến hạm tháo thành mấy bộ phận, cuối cùng mới tạm thời lắp lại với nhau, như vậy có thể giàm thiểu khả năng tiết lộ kỹ thuật đi rất nhiều, cũng có thể giảm thiểu nhu cầu hiểu rõ các khâu của mỗi xưởng tạo thuyền, giảm bớt độ khó, từ đó đề cao tốc độ kiến tạo và chất lượng.
Trong quá trình kiến tạo Long Nha chiến hạm, các loại kỹ thuật mới cũng không ngừng bắt đầu ứng dụng, chủ yếu là vì sau này chiến hạm bằng thép cỡ lớn có được kinh nghiệm, ví như các loại kỹ thuật như tủ lạnh, dụng cu đo lường khoảng cách, thậm chí còn có công cụ thông tin cỡ lớn. Tây Môn Tử Mật Thi Đặc sau khi phát minh vô tuyến điện truyền tin sóng ngắn, lại phát minh truyền tin sóng dài, đối với thông tin của hạm đội viễn dương là cực kỳ quan trọng. Có thể ở ngoài hải vực vạn lý xa xôi cùng cảng mẹ có được liên hệ, hạng kỹ thuật này một khi thực sự đưa vào sử dụng, cho dù là A Phương Tác ở xa tận Sở La Môn cũng có thể cùng Dương Túc Phong trực tiếp thông tin.
Kỹ thuật chế tạo tàu bay được đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt nhất, đây là kỹ thuật sẽ dẫn tới chấn động cực lớn thậm chí là khủng hoảng. Trên thế giới này, từ Long Ưng trân quý của Vũ chân nhân ra, còn chưa có bất kỳ thứ gì có thể đưa con người lên không trung. Một khi tàu bay xuất hiện trên đỉnh đầu của kẻ địch, sự chấn động nó mang tới cho quân địch là không thể dùng lời mà miêu tả được.
Trong gian xưởng điện phân nước thu lấy hydrogen, Dương Túc Phong thận trọng hỏi: “Khi nào có thể lên trời?”
Tây Môn Tử Thi Mật Đặc đầy tự tin đáp: “Cho tôi thời gian nửa năm nữa, tôi nhất định đưa ngài lên trời.”
Dương Túc Phong hài lòng gật đầu.
Sau lưng đột nhiên truyền tới tiếng bước chân, thì ra là Tài Miểu Miểu tới.
“Đây là báo chí ngày 1 tháng 11, ngài xem xem trang nhất, bên trên đăng tải những gì.” Sắc mặt Tài Miểu Miểu có chút âm trầm, làm Dương Túc Phong trong trực giác cảm thấy tin tức không tốt, y cúi đầu xuống xem. Chỉ nhìn thấy trên trang nhất (Đế quốc nhật báo) có mấy chữ lớn đập thẳng vào mắt.
“ Quân Lam Vũ sắp đổ bộ”!