Đã hai năm qua, nay tôi chỉ nhớ về những giờ còn lại của ngày hôm ấy, đêm hôm ấy và ngày hôm sau như là một chuỗi người tấp nập ra vào không ngớt qua cổng nhà Gatsby – những viên cảnh sát, phóng viên nhiếp ảnh và nhà báo. Một sợi dây thừng được chăng ngang cổng, bên cạnh là một viên cảnh sát đứng chặn những kẻ tò mò, nhưng đám trẻ con chẳng mấy chốc phát hiện ra chúng có thể vào qua sân nhà tôi, cho nên lúc nào cũng có dăm ba đứa, miệng há hốc, đứng túm tụm quanh bể bơi. Một người dáng điệu tự tin, có lẽ là một thám tử, lúc cúi xuống trên xác Wilson chiều hôm ấy, đã thốt lên hai tiếng “thằng điên” và thẩm quyền ngẫu nhiên của lời nói ấy đã đề ra giọng điệu cho các bài tường thuật trên các báo sáng hôm sau.
Hầu hết những bài báo này là những cơn ác mộng, – kệch cỡm, doạ dẫm, hung hăng và sai. Khi Michaelis khai ra với nhân viên điều tra sự nghi ngờ của Wilson đối với vợ, tôi đã tưởng toàn bộ sự việc sẽ bị phơi bày ra thành một chuyện xấu xa li kì, nhưng Catherine, tưởng sẽ bạ gì nói nấy, ai ngờ lại không hé lộ một lời nào. Cô lại còn tỏ ra có một bản lĩnh đáng kinh ngạc: nhìn thẳng vào nhân viên điều tra với con mắt kiên nghị dưới hàng lông mày vẽ lại, cô thề rằng chị cô chưa hề bao giờ gặp Gatsby, rằng chị cô sống hoàn toàn hạnh phúc với chồng và không làm bất cứ điều gì sai trái. Cô đã tự làm cho mình tin vào những lời mình nói, tay cầm mùi soa bưng mặt khóc như thể chỉ nghĩ đến việc sai trái ấy cô đã không chịu nổi rồi. Thành ra Wilson chỉ là một kẻ “quẫn trí vì quá đau buồn” khiến cho vụ này có thể được thu hẹp lại ở cái dạng đơn giản nhất của nó. Và nó đã dừng lại ở cái dạng đó.
Nhưng tất cả phần ấy thật là xa xôi và không thiết yếu. Tôi ở lại bên cạnh Gatsby
– mỗi mình tôi. Kể từ khi tôi gọi điện thoại báo tin dữ này đến làng West Egg, mọi điều phỏng đoán về Gatsby và mọi vấn đề thực tế đều đến tay tôi. Thoạt tiên, tôi lấy làm bất ngờ và bối rối. Rồi sau, trong lúc Gatsby nằm dài trong toà biệt thự của anh, không động đậy, không thở, không nói, hết giờ này qua giờ khác, tôi dần dần nhận thấy tôi phải đứng ra đảm đương công việc vì không có một ai khác quan tâm đến – tôi muốn nói là quan tâm bằng mối quan hệ cá nhân thân thiết mà có lẽ mọi người hình như đều có quyền được hưởng vào lúc cuối của đời mình.
Tôi gọi điện thoại cho Daisy sau khi tìm được Gatsby chừng nửa giờ – tôi gọi cho nàng theo bản năng, không do dự. Nhưng Daisy và Tom đã ra đi từ đầu buổi
chiều, đem theo cả hành lí.
– Không để lại địa chỉ à?
– Không.
– Có dặn khi nào về không?
– Không.
– Liệu có đoán được họ ở đâu không? Tôi làm cách nào để gặp được họ?
– Tôi không biết. Tôi không biết nói thế nào.
Tôi muốn có người đến với anh. Tôi muốn vào phòng anh đang nằm và nói để anh yên tâm: “Tôi sẽ tìm ra người đến với anh, Gatsby ạ. Đừng lo, cứ tin ở tôi, tôi sẽ tìm ra người đến với anh”.
Meyer Wolfshiem không có tên trong quyển danh bạ điện thoại. Người hầu phòng cho tôi địa chỉ phòng làm việc của ông ta tại Broadway. Tôi gọi tổng đài, nhưng đến khi được nối đường dây thì đã quá năm giờ chiều từ lâu và không thấy ai trả lời.
– Nhờ chị quay số gọi cho lần nữa.
– Tôi đã gọi ba lần rồi.
– Việc rất cần chị ạ.
– Rất tiếc. Có lẽ không có ai bên máy.
Tôi trở lại phòng khách, tưởng rằng có khách khứa tình cờ đến chơi, nhưng lại chỉ là người của nhà chức trách kéo đến đầy nhà. Tuy họ có vén tấm khăn phủ lên và nhìn Gatsby với con mắt kinh sợ, nhưng lời khẩn khoản của anh vẫn tiếp tục giục giã trong óc tôi:
– “Này, người anh em, anh phải tìm ra ai đến với tôi chứ. Anh cố tìm đi. Tôi không thể ra đi đơn độc như thế này.”
Có người hỏi tôi, nhưng tôi gạt đi và bỏ lên gác, vội vã nhìn vào trong những ngăn kéo không khoá ở bàn giấy của Gatsby – anh chưa bao giờ nói rạch ròi với tôi là cha mẹ anh đã qua đời. Nhưng không có gì cả, chỉ có bức ảnh Dan Cody, tượng trưng cho một thời trôi nổi đã qua, từ trên tường nhìn xuống đăm đăm.
Sáng hôm sau, tôi cho người hầu phòng đi New York cầm một bức thư cho Wolfshiem, hỏi những tin tức cần thiết và yêu cầu ông ta đến ngay bằng chuyến tàu sớm nhất. Lúc viết thư, tôi nghĩ yêu cầu như vậy là thừa. Tôi tin rằng đọc được tin đăng trên báo là ông ta sẽ vội đến ngay, cũng như tôi tin rằng từ giờ đến trưa thể nào cũng nhận được điện tín của Daisy – nhưng cả bức điện lẫn Wolfshiem đều không thấy đâu. Không một ai đến, mà chỉ lại có thêm cảnh sát, phóng viên nhiếp ảnh và nhà báo. Khi người hầu phòng đem về bức thư trả lời của Wolfshiem thì tôi bắt đầu có một ý nghĩ thách thức, cảm thấy có một mối liên kết gắn bó Gatsby với tôi bằng lòng khinh bỉ tất cả bọn họ.
Ông Carraway thân mến,
Đây là một trong những sự việc choáng váng khủng khiếp nhất trong đời tôi, khó mà tin được là có thật. Hành động điên rồ của kẻ ấy thật phải làm tất cả chúng ta suy nghĩ. Tôi không thể đến trong lúc này vì đang vướng vào một việc hết sức quan trọng và do đó tôi không dính tay vào đây được. Nếu ít lâu nữa, có việc gì mà tôi có thể làm, xin ông báo cho tôi biết qua thư gửi cho Edga. Tôi sững sờ khi nghe nói về vụ này và tôi đúng là quỵ ngã, không gượng dậy nổi. Xin gửi ông lời chào thân mến,
Meyer Wolfshiem.
và dòng tái bút viết vội dưới đây:
Xin ông cho biết về lễ mai táng, vân vân. Không biết tí gì về gia đình ông ta.
Khi chuông điện thoại réo vang chiều hôm đó và điện thoại đường dài báo là Chicago gọi, tôi nghĩ cuối cùng đây chắc là Daisy. Nhưng lại là một giọng đàn ông rất nhỏ và xa tít:
– Slagle đây…
– Ai? – Tôi nghe tên không quen.
– Thư ấm ớ quá hả? Nhận được điện của tôi chưa?
– Không có điện nào cả.
– Thằng nhóc con Parke hỏng rồi. – Đầu dây đằng kia liến thoắng. – Nó đã bị tóm gáy khi trao tín phiếu tại quầy trả tiền. Bọn kia đã nhận được tin từ New York báo cho biết các số phiếu trước đó đúng năm phút. Ông tính sao đây? Không thể nào nói chắc được ở những thị trấn quê mùa này…
– Alô, – tôi hổn hển cắt ngang, – Đây không phải là Gatsby. Ông Gatsby chết rồi. Một lúc im lặng dài ở đầu dây đằng kia, tiếp theo sau là một tiếng cảm thán… rồi một tiếng “cạch” khô khốc khi ống nghe bị bỏ xuống.
*
* *
Hình như đến ngày thứ ba thì có một bức điện kí tên Henry C.Gatz gửi từ một thị trấn ở bang Minnesota đến. Bức điện chỉ nói là người gửi sẽ lên đường ngay tức khắc và yêu cầu hoãn việc mai táng cho đến khi người ấy tới.
Đó là bố đẻ của Gatsby, một cụ già vẻ nghiêm nghị, dáng điệu lúng ta lúng túng, hốt hoảng, co ro trong chiếc áo choàng rẻ tiền dài rộng lùng thùng giữa thời tiết ấm áp của một ngày tháng Chín. Những giọt nước mắt theo nhau ứa ra ở khoé mắt cụ và khi tôi đỡ lấy cái túi xách tay và cái ô của cụ thì tay cụ cứ giật giật liên hồi chòm râu xám xỉn thưa thớt làm tôi loay hoay mãi mới cởi được áo khoác cho cụ. Trông cụ có vẻ muốn khuỵu ngã, tôi vội dìu cụ sang phòng đàn, đỡ cụ ngồi xuống ghế và gọi người đem thức ăn lên. Nhưng cụ không ăn, và sữa trong cốc rớt cả ra ngoài trong bàn tay lẩy bẩy của cụ.
– Tôi đọc được trên tờ Chicago, – cụ nói, – Họ kể hết trên tờ Chicago. Tôi vội vã
đi ngay.
– Tôi không có cách nào báo tin cho cụ.
Đôi mắt cụ không ngừng ngơ ngác nhìn quanh gian phòng nhưng không thấy gì hết.
– Nó là một thằng điên phải không ông? – cụ hỏi. – Nó có điên mới thế.
– Cụ dùng chút cà phê nhé, – tôi khẩn khoản.
– Tôi không muốn ăn uống gì đâu. Tôi cảm thấy dễ chịu rồi. Ông là ông…?
– Carraway.
– Vâng, tôi thấy dễ chịu rồi. Jimmy nằm ở đâu hả ông?
Tôi đưa cụ vào phòng khách, chỗ đặt con trai cụ, và để cụ lại đấy. Có mấy đứa trẻ mon men đến tận các bậc thềm dòm vào trong nhà. Khi tôi bảo với chúng người khách mới đến là ai, chúng đành luyến tiếc bỏ đi.
Một lát sau, cụ Gatz mở cửa bước ra, miệng há hốc, mặt hơi đỏ, trong mắt lăn ra những giọt lệ lẻ loi và chậm trễ. Cụ đã tới tuổi mà cái chết không còn là sự bất ngờ ghê sợ nữa, và khi cụ lần đầu tiên nhìn ra xung quanh thấy gian tiền sảnh mênh mông tráng lệ, thấy các gian phòng lớn mở thông sang các gian phòng rộng lớn khác thì nỗi đau buồn của cụ pha đượm một niềm kiêu hãnh hãi hùng. Tôi đưa cụ lên một phòng ngủ trên gác. Trong khi cụ cởi áo, tôi nói với cụ là việc mai táng đã được hoãn lại chờ cụ.
– Tôi không biết cụ định liệu thế nào, thưa cụ Gatsby…
– Tên tôi là Gatz.
– … thưa cụ Gatz. Tôi nghĩ có thể cụ muốn đưa thi hài về miền Tây chăng? Cụ lắc đầu.
– Jimmy xưa nay vẫn thích miền Đông này hơn. Jimmy đã xây dựng được địa vị của mình ở miền Đông… Ông là bạn của con trai tôi phải không, ông…?
– Tôi với anh ấy là bạn thân.
– Tương lai của Jimmy thật xán lạn, ông biết đấy. Jimmy còn trẻ, nhưng sức mạnh tinh thần thì có nhiều ở đây này.
Cụ trịnh trọng chỉ vào đầu mình, và tôi gật đầu.
– Nếu còn sống, Jimmy sẽ phải là một con người vĩ đại. Một người như James J. Hill (1) ấy. Jimmy rồi sẽ giúp cho đất nước phồn thịnh.
– Thưa cụ, đúng vậy, – tôi ấp úng, ngại ngùng.
Cụ mân mê tấm khăn thêu trải giường định nhấc ra, sau lại lóng ngóng nằm xuống, duỗi thẳng người và ngủ thiếp đi ngay tức khắc.
Đêm ấy, có một người gọi điện thoại đến với giọng lộ rõ là hoảng hốt, hỏi tôi là ai đã rồi mới chịu xưng tên.
– Tôi là Carraway đây.
– A, – người kia thở phào nhẹ nhõm. – Tôi là Klipspringer.
Tôi cũng thấy nhẹ hẳn người vì có lẽ sẽ có mặt thêm một người bạn nữa bên nấm mồ của Gatsby. Tôi không muốn đăng cáo phó trên báo, vì như vậy sẽ chỉ thu hút một đám người tò mò vãn cảnh, mà tôi sẽ đích thân gọi điện thoại cho một vài người. Nhưng khó gặp được họ quá.
– Ngày mai thì đưa tang, – tôi nói. – Vào lúc ba giờ chiều tại đây, ở nhà này. Tôi mong ông sẽ báo lại với những ai có ý định đến đi đưa.
– Vâng, tôi sẽ báo, – hắn nói vội. – Tất nhiên không chắc tôi đã gặp ai, nhưng nếu gặp…
Giọng hắn làm tôi nghi hoặc.
– Còn ông, tất nhiên ông sẽ có mặt chứ?
– Vâng, nhất định tôi sẽ cố gắng. Tôi gọi điện thoại là vì…
– Khoan đã, – tôi ngắt lời hắn. – Ông cho biết có đến hay không?
– Vâng, quả thực là… tôi hiện đang ở nhà một vài người bạn tại Greenwich, có lẽ họ muốn có tôi ở chơi với họ ngày mai. Chẳng là họ định tổ chức một buổi cắm trại hay cái gì đó. Tất nhiên, tôi sẽ cố gắng tìm cách rút lui.
Tôi không nén được một tiếng “xì”, chắc hắn có nghe thấy vì hắn luống cuống nói tiếp:
– Tôi gọi điện thoại cốt để hỏi đôi giày của tôi bỏ quên đằng ấy. Liệu tôi có thể nhờ ông bảo người hầu phòng chuyển đến cho tôi được không. Một đôi giày đánh tennis, không có nó tôi thực không biết xoay xở ra làm sao. Địa chỉ của tôi là: “Gửi qua B.F…
Tôi không nghe hết tên và dập máy.
Sau đấy, tôi cảm thấy hơi nhục nhã cho Gatsby – một kẻ khi tiếp lời gọi điện thoại của tôi, nói bóng gió với tôi rằng Gatsby bị như thế là đáng đời lắm. Tuy nhiên, đó là lỗi ở tôi, vì gã này nằm trong số những kẻ thường lấy can đảm bằng hơi men của Gatsby để nhạo báng Gatsby cay độc nhất. Lẽ ra tôi phải hiểu người hơn để khỏi gọi cho gã.
Sáng hôm đưa tang, tôi lên New York gặp Meyer Wolfshiem. Tôi thấy không có cách nào khác để gặp ông ta. Theo lời chỉ dẫn của thằng nhỏ coi cầu thang máy, tôi đẩy cánh cửa bên ngoài đề chữ “Công ty Swastika” và lúc đầu tưởng không có ai trong nhà. Nhưng khi tôi gọi to vài tiếng vô ích thì nghe có tiếng xì xào đằng sau một vách gỗ và ít phút sau một phụ nữ Do Thái duyên dáng hiện ra ở khung cửa trong, nhìn tôi chằm chằm với đôi mắt đen ác cảm. Bà ta bảo:
– Không có ai ở nhà. Ông Wolfshiem đi Chicago rồi.
Phần đầu câu nói hiển nhiên là không đúng sự thật vì bên trong có ai bắt đầu huýt sáo lạc điệu bài “Vườn hồng”.
– Nhờ bà báo là có ông Carraway muốn gặp ông ấy.
Đúng lúc đó có tiếng người, đúng tiếng Wolfshiem không sai, ở sau cửa trong
gọi to: “Stella!”
– Ông để lại danh thiếp lên bàn kia, – bà ta nói vội, – tôi sẽ chuyển lại khi nào ông ấy về.
– Nhưng tôi biết ông Wolfshiem có nhà.
Bà ta bước lên một bước về phía tôi, đanh đá chống tay vào hai bên hông, sấn sổ:
– Bọn thanh niên các anh tưởng bất cứ lúc nào cũng xông được vào nhà người ta đấy à? Chúng tôi ngấy lắm rồi. Tôi đã bảo ông ấy đi Chicago là ông ấy đi Chicago rồi.
Tôi nói tên Gatsby.
– À! – bà ta lại nhìn tôi. – Thế ra ông chính là… Tên ông là gì?
Bà ta biến đi. Một lúc sau, Meyer Wolfshiem đứng trịnh trọng ở giữa khung cửa, chìa cả hai tay ra với tôi. Ông ta kéo tôi vào phòng làm việc của ông ta, nhận xét bằng một giọng cung kính rằng đây là lúc đau buồn đối với cả hai chúng tôi, và mời tôi một điếu xì gà.
– Tôi còn nhớ hôm đầu tiên gặp ông ấy, – Wolfshiem kể. – Một thiếu tá trẻ măng mới xuất ngũ ngực đầy mề đay giành được trong chiến tranh. Ông ấy túng thiếu đến nỗi vẫn cứ phải đánh bộ đồ quân nhân vì không đủ tiền mua một bộ thường phục. Lần đầu tiên tôi gặp là lúc ông ấy đến phòng bi-a Winebrenner ở phố Bốn mươi xin việc. Đã hai ngày, ông ta chưa được một miếng nào vào bụng. Tôi mới bảo: “Lại đây ăn trưa với tôi”. Ông ấy ngốn hết hơn bốn đô-la trong nửa giờ.
– Có phải ông đã đưa ông ấy vào nghề kinh doanh phải không? – Tôi hỏi.
– Đưa ông ấy vào thôi à? Tôi đã hoàn toàn gây dựng cho ông ta thì có.
– Ồ.
– Tôi đã đưa ông ta ngoi lên từ con số không, đúng là từ bùn rãnh ngoi lên. Tôi đã thấy ngay là ông ta có mẽ người, một chàng trai lịch sự. Đến khi ông ta kể là đã học ở Oxford thì tôi biết ngay tôi có thể dùng ông ta vào việc có ích. Tôi đã đưa ông ta vào Hội các cựu chiến binh và ông ta đã có một địa vị cao ở đấy. Ngay sau đó, ông ta đã làm được một số việc cho một khách hàng của tôi ở Albany. Chúng tôi bao giờ cũng làm ăn gắn bó với nhau như thế này, – ông ta giơ lên hai ngón tay chuối mắn, – bao giờ cũng có nhau.
Tôi không muốn biết mối quan hệ cộng tác này có gồm cả sự gian trá trong Giải vô địch bóng chày năm 1919 không.
– Bây giờ ông ấy chết rồi, – tôi nói sau một lúc, – ông là người bạn gần gũi nhất của ông ấy, vậy chắc ông sẽ muốn đến đưa tang ông ấy chiều nay.
– Tôi rất muốn.
– Vậy thì đến đi.
Túm lông trong mũi Wolfshiem hơi rung rung và ông ta vừa lắc đầu vừa nước
mắt chứa chan.
– Tôi không đến được, tôi không được dính vào chuyện đó.
– Không sợ có gì liên luỵ đâu. Mọi chuyện đâu vào đấy cả rồi.
– Khi có ai bị giết chết, tôi không bao giờ muốn dính vào bằng bất cứ cách nào. Tôi đứng ngoài. Hồi trẻ thì khác – nếu có một người bạn chết, bất kể chết như thế nào, tôi sẽ bám riết lấy bạn đến phút chót. Ông có thể cho như thế là đa cảm, nhưng đúng thế đấy – cho đến tận phút chót.
Tôi hiểu ra là vì một lí do riêng nào đấy, Wolfshiem đã nhất quyết không đến, vì vậy tôi đứng dậy.
– Ông đã qua đại học chưa? – Wolfshiem đột nhiên hỏi.
Tôi đã tưởng ông ta lại sắp giới thiệu tôi với một “đầu mối” nhưng ông ta chỉ gật gù cái đầu và bắt tay tôi, mồm khuyên nhủ.
– Ta hãy tìm cách bày tỏ tình cảm của mình với người khác khi họ còn sống chứ không phải khi họ đã chết. Ngoài ra phương châm xử thế của tôi là không dính dáng vào việc gì hết.
Lúc tôi rời phòng làm việc của Wolfshiem ra về thì trời đã tối, và tôi về đến West Egg dưới làn mưa phùn. Thay quần áo xong, tôi sang buồng bên và thấy cụ Gatz đang đi lại trong gian tiền sảnh, vẻ vô cùng xúc động. Niềm kiêu hãnh của cụ về người con trai cụ và tài sản của con trai cụ không ngừng tăng lên và bây giờ cụ có mấy thứ muốn khoe với tôi.
– Jimmy đã gửi cho tôi bức ảnh này, – cụ rút ví ra, tay run run. – Ông xem này. Bức ảnh chụp toà biệt thự, mép đã quăn và nhem nhuốc nhiều vết tay. Cụ hăm hở chỉ cho tôi xem từng chi tiết. “Ông xem này” rồi tìm sự khâm phục trong mắt tôi. Cụ khoe bức ảnh ấy đã quá nhiều lần đến nỗi tôi nghĩ rằng đối với cụ bây giờ nó có lẽ còn thật hơn chính toà nhà.
– Jimmy gửi cho tôi đấy. Tôi thấy bức ảnh thật là đẹp. Chụp rõ nét quá.
– Vâng, rõ nét lắm. Gần đây cụ có gặp anh ấy không?
– Jimmy về thăm tôi cách đây hai năm và mua cho tôi ngôi nhà hiện tôi đang ở. Tất nhiên gia đình chúng tôi đã gặp khó khăn khi Jimmy bỏ nhà đi, nhưng nay tôi hiểu nó đi là có lí do, Jimmy biết nó sẽ có một tương lai rất rạng rỡ. Và từ khi giàu có, nó đối xử với tôi rất rộng rãi.
Ý chừng cụ không muốn cất bức ảnh đi, cứ giở ra trước mắt tôi. Mãi sau, cụ mới cất ví đi và lôi từ trong túi áo ra một cuốn sách cũ rách nát nhan đề “Hopalong Cassidy”.
– Ông xem này, đây là một cuốn sách của Jimmy hồi còn nhỏ tí. Nó cho thấy Jimmy là người như thế nào.
Cụ mở tờ bìa sau và quay cuốn sách lại cho tôi xem. Trên tờ giấy trắng lót bìa cuối cùng có dòng chữ hoa “THỜI GIAN BIỂU” và đề ngày 12 tháng Chín năm
1906. Bên dưới ghi:
Dậy 6g sáng
Tập tạ và trèo tường 6g15-6g30
Học điện, v.v… 7g15-8g15
Làm việc 8g30-4g30 chiều
Chơi bóng chày và thể thao 4g30-5g00
Tập cách ăn nói và giữ tư thế đàng hoàng 5g00-6g00 Nghiên cứu những sáng kiến cần thiết 7g00-9g00 NHỮNG ĐIỀU QUYẾT TÂM CHUNG
Không phí phạm thời giờ tại nhà Shafters hoặc (ghi tên không rõ).
Không hút thuốc lá và ăn kẹo cao su nữa.
Hai ngày tắm một lần.
Mỗi tuần đọc một cuốn sách hoặc một tạp chí để nâng cao kiến thức
Mỗi tuần để dành 5,00 đô-la (xoá bỏ) 3 đô-la.
Cư xử tốt hơn với cha mẹ.
– Tình cờ tôi tìm thấy cuốn sách này, – ông cụ nói. – Nó cho thấy Jimmy là người như thế nào, có phải không ông.
– Thưa đúng ạ.
– Jimmy nhất định phải vươn được lên cao. Nó hay đề ra những điều quyết tâm như thế này hoặc đại loại như thế. Ông có để ý thấy Jimmy đã ghi như thế nào về khoản nâng cao kiến thức không? Nó chú trọng khoản đó lắm. Có lần nó bảo tôi là tôi ngu như bò, tôi mới đánh cho nó một trận nên thân.
Cụ không muốn gấp cuốn sách lại, cứ đọc to từng mục rồi háo hức nhìn tôi, áng chừng chờ đợi tôi cho chép lại những mục đó để bắt chước cũng nên.
Gần ba giờ thì ông mục sư giáo phái Lutheran từ Flushing đến. Tôi bất giác nhìn ra cửa sổ xem có chiếc xe nào khác không. Ông cụ thân sinh ra Gatsby cũng nhìn. Nhưng thời gian cứ trôi đi, và đến khi các gia nhân vào đứng cả ở tiền sảnh thì cụ bắt đầu chớp chớp mắt, vẻ lo lắng. Cụ nhắc đến trời mưa với giọng băn khoăn, lấp lửng. Ông mục sư xem đồng hồ đeo tay mấy lần. Tôi kéo ông ta ra một chỗ riêng yêu cầu chờ thêm nửa tiếng nữa. Nhưng vô ích. Không có ai đến.
*
* *
Khoảng năm giờ chiều, đoàn xe chúng tôi gồm ba mươi chiếc tới nghĩa trang, dừng lại bên cổng dưới làn mưa nặng hạt. Đi đầu là xe tang, đen ngòm và sũng nước rồi đến chiếc xe hòm chở cụ Gatz, ông mục sư và tôi, và cách xa một chút là chiếc xe “brích” (2) chở hàng của Gatsby trên có bốn, năm gia nhân và người đưa thư ở West Egg, tất cả đều quần áo lướt mướt. Khi chúng tôi bắt
đầu đi qua cổng nghĩa trang, tôi nghe thấy có một chiếc xe hơi xịch đến đỗ ở đằng sau rồi có một người ộp oạp bước theo chúng tôi trên lối đi đầy những vũng nước. Tôi ngoảnh lại nhìn. Đó là người đàn ông đeo đôi kính như mắt cú mà tôi đã thấy đứng sững sờ trước các giá sách trong thư viện của Gatsby vào một đêm cách đây ba tháng.
Suốt từ bấy đến nay tôi không gặp ông ta. Tôi không hiểu ông ta làm thế nào biết được ngày đưa đám, mà tôi cũng không biết cả đến tên ông ta nữa. Mưa nhoè nhoẹt trên đôi mắt kính dày, ông ta nhấc kính ra lau nước mưa để nhìn rõ tấm khăn phủ quan tài được rải xuống đáy huyệt.
Lúc ấy, tôi cố nghĩ về Gatsby một chút, nhưng anh đã quá xa rồi, và tôi chỉ có thể nhớ ra rằng, trong lòng không oán giận, Daisy đã không có lấy một bức điện hoặc một bông hoa nào gửi đến. Tôi thoáng nghe có ai lầm rầm: “Phúc đức cho kẻ qua đời được hạt mưa rơi” rồi người đàn ông mắt cú nói “Amen” bằng một giọng rắn rỏi.
Chúng tôi lại lộn xộn vội vã trở ra xe dưới làn mưa. Ông mắt cú nói với tôi bên cổng nghĩa trang:
– Tôi tiếc không lại nhà được.
– Những người khác cũng vậy.
– Ông nói gì? – ông ta giật mình. – Trời! Trước họ đến có hàng trăm. Ông ta nhấc kính ra, lại lau, cả mặt trong lẫn mặt ngoài, và nói:
– Khốn khổ, khốn nạn.
*
* *
Một trong những kỉ niệm sống động nhất của tôi là những lần từ trường dự bị đại học và sau đó là từ trường đại học trở về miền Tây nghỉ lễ Giáng sinh. Những sinh viên nào phải đi quá Chicago thì tập hợp tại nhà ga liên bang cổ lỗ tối om vào lúc sáu giờ tối một ngày tháng Chạp cùng với một vài người bạn Chicago vội vã ra tiễn họ. Tôi còn nhớ những chiếc áo lông của các cô gái vừa
ở các trường kí túc nữ sinh khác nhau ra, những hơi thở đọng sương và những bàn tay giơ lên quá đầu vẫy vẫy người quen, những lời mời mọc dồn dập: “Anh đến gia đình Ordway à? gia đình Hersey à? gia đình Schultze à?” và những tấm vé dài màu xanh nắm chặt trong những bàn tay đi găng của chúng tôi. Rồi cuối cùng là toa xe lửa âm u vàng khè của tuyến đường Chicago, Milwaukee và St. Paul, trông tươi vui như chính Noel, xuất hiện trên đường sắt chạy qua cạnh cổng.
Khi con tàu của chúng tôi lao vào giữa đêm đông, và tuyết – tuyết thật, tuyết của quê hương chúng tôi, bắt đầu trải dài hai bên đường và lấp lánh ngoài cửa sổ, và những ánh đèn leo lét trong các ga xép ở Wisconsin lướt qua nhanh, thì
không khí bỗng có một hương men găn gắt và hoang dã làm người khoan khoái lâng lâng. Chúng tôi hít những hơi dài bầu không khí đó khi chúng tôi đi từ toa ăn uống đi qua các chỗ đầu toa lùa gió lạnh trở về chỗ của mình, cảm thấy vô cùng sâu sắc sự gắn bó tha thiết giữa mình với mảnh đất này trong một giờ lạ lùng trước khi một lần nữa lại hoà lẫn hẳn vào với nó.
Đó là miền Trung Tây của tôi – không phải là lúa mì, hoặc những cánh đồng cỏ hay những thị trấn heo hút của những cư dân Thuỵ Điển, mà là những chuyến tàu trở về đầy xúc động thời thơ ấu của tôi, những ngọn đèn đường, những chùm chuông móc ở thành xe trượt tuyết trong đêm tối giá lạnh và những khung cửa sổ giăng đèn in bóng những vành hoa nhựa ruồi xuống mặt tuyết. Tôi là một phần của tất cả những cái ấy, hơi nghiêm trang vì cảm xúc do những mùa đông dài ấy để lại, hơi tự hào vì được lớn lên trong một ngôi nhà của dòng họ Carraway ở một thành phố mà các ngôi nhà qua bao thập kỉ vẫn còn được gọi bằng tên một dòng họ. Bây giờ tôi thấy rằng câu chuyện này xét cho cùng chính là một câu chuyện về miền Tây – Tom và Gatsby, Daisy và Jordan cùng với tôi đều là người miền Tây, và có lẽ chúng tôi mắc chung một nhược điểm nào đấy, nó làm cho chúng tôi không thể thích nghi được với cuộc sống miền Đông một cách khó nhận ra.
Ngay cả khi miền Đông làm tôi say mê nhất, ngay cả khi tôi nhận thức rõ nhất sự ưu việt của nó đối với những thành phố tẻ ngắt, vươn dài và phình to ở bên kia con sông Ohio với những cuộc điều tra liên miên chỉ chừa có trẻ con và người già – ngay cả khi ấy tôi vẫn thấy nó méo mó. Đặc biệt, West Egg còn hiện lên trong những giấc mộng thật là quái đản của tôi. Tôi thấy nó như một cảnh đêm của danh hoạ El Greco; một trăm nóc nhà, vừa khuôn sáo vừa kì cục, nép mình dưới một bầu trời u ám trĩu nặng và một vầng trăng mờ xỉn. Ở tiền cảnh, bốn người đàn ông nghiêm nghị mặc com-lê đi trên hè đường khiêng một cái cáng bên trên đặt nằm dài một người đàn bà say rượu mặc bộ đồ dạ hội trắng. Bàn tay người đàn bà buông thõng bên cạnh cáng lấp lánh những ánh lạnh lẽo của vàng bạc châu báu. Mấy người đàn ông kia nghiêm trang rẽ vào một ngôi nhà – không đúng ngôi nhà họ định tìm. Nhưng không ai biết tên người đàn bà, và họ cũng chẳng bận tâm làm gì.
Sau khi Gatsby chết, tôi thấy miền Đông cứ lởn vởn những bóng ma như vậy, nó bị méo mó đến mức mắt tôi không thể hiệu chỉnh lại nổi. Vì vậy khi làn khói lam từ đám lá khô giòn toả vào không trung và gió thổi thẳng băng mớ quần áo ướt treo trên dây phơi thì tôi quyết định trở về quê hương.
Còn một việc cần giải quyết trước khi ra đi, một việc khó xử và khó chịu, giá cứ bỏ mặc thì tốt hơn. Nhưng tôi muốn thu xếp mọi sự đâu ra đấy rồi hãy đi, chứ không hề trông mong ở ngọn sóng biển tốt bụng và dửng dưng kia quét sạch hộ
những rác rưởi của tôi. Tôi gặp Jordan Baker, nói chuyện lâu với cô ta về những gì đã xảy ra với cả hai chúng tôi và những gì đã xảy ra sau đấy với riêng tôi. Jordan ngồi thật yên trong một chiếc ghế bành lớn lắng tai nghe.
Cô ta mặc bộ đồ đánh gôn và tôi còn nhớ tôi đã nghĩ cô ta trông giống một bức ảnh quảng cáo chụp rất đạt, cằm hếch lên hơi nghịch ngợm, mái tóc ngả màu lá thu, nước da mặt rám nắng như màu chiếc găng tay không ngón đặt nơi đầu gối. Nghe tôi nói xong, Jordan nói thẳng với tôi không một chút quanh co là cô ta đã đính hôn với một người rồi. Tôi không tin, tuy rằng có nhiều người cô ta chỉ gật đầu là lấy được ngay, nhưng tôi vẫn giả vờ ngạc nhiên. Trong đúng một phút, tôi tự hỏi không biết mình có tính sai không, nhưng sau tôi bình tâm lại ngay và đứng dậy từ biệt.
– Dù sao, chính anh đã bỏ rơi em, – Jordan bỗng dưng nói. – Anh bỏ rơi em qua điện thoại. Bây giờ thì em không cần gì ở anh nữa, nhưng đấy là một điều chưa bao giờ xảy ra với em nên em hơi choáng váng mất một thời gian.
Chúng tôi bắt tay nhau.
– Mà này, anh còn nhớ không, – Jordan nói thêm – anh còn nhớ một câu chuyện giữa hai chúng ta về việc lái xe không?
– Không nhớ rõ lắm.
– Anh bảo là một người lái xe tồi chỉ an toàn chừng nào chưa gặp phải một người lái xe tồi khác, có phải không? Thế đấy, em đã gặp phải một người lái tồi thứ hai, có đúng không? Em muốn nói là em đã sơ ý đoán nhầm. Em những tưởng anh là một người khá trung thực, khá thẳng thắn. Em những tưởng đó là niềm tự hào thầm kín của anh.
– Tôi đã ba mươi tuổi rồi, – tôi nói. – Tôi đã quá năm năm cái tuổi tự dối mình rồi gọi đó là danh dự.
Jordan không trả lời. Cáu kỉnh và có lẽ hơi yêu cô ta cũng nên, với buồn tiếc vô cùng, tôi quay gót.
*
* *
Một buổi chiều cuối tháng Mười, tôi gặp Tom Buchanan trên Đại lộ Năm. Anh ta đang đi trước tôi, dáng nhanh nhẹn, hung hăng như muốn gây sự với ai, hai tay khuỳnh khuỳnh như muốn gạt những ai chạm vào mình, cái đầu lúc quay bên này lúc ngoái bên kia theo chiều con mắt không để yên một chỗ của anh ta. Đúng lúc tôi cố bước chậm để tránh đuổi kịp anh ta thì Tom đứng lại, cau mày nhìn vào tủ kính một cửa hiệu vàng bạc. Bất thần anh ta nhìn thấy tôi và quay lại, chìa tay ra với tôi.
– Sao, có chuyện gì, anh Nick? Anh không muốn bắt tay tôi à?
– Đúng. Anh biết tôi nghĩ gì về anh.
– Anh lẩn thẩn lắm, anh Nick, – Tom liến thoắng. – Lẩn thẩn quá lắm. Tôi không biết anh nghĩ thế nào.
– Tom, – tôi hỏi, – anh đã nói gì với Wilson chiều hôm ấy?
Tom nhìn tôi chằm chằm, nín thinh, và tôi biết là tôi đã đoán đúng về quãng thời gian mất vết tích của Wilson. Tôi quay gót toan bỏ đi, nhưng Tom bước lên một bước nắm lấy cánh tay tôi.
– Tôi đã nói với hắn sự thật, – Tom nói. – Hắn mò đến nhà tôi đúng lúc chúng tôi sắp sửa đi. Khi tôi cho người ra cửa bảo là chúng tôi không có nhà, hắn định xông lên gác. Hắn đã khá điên đến nỗi có thể giết chết tôi nếu tôi không nói cho hắn biết ai là người chủ chiếc xe. Tay hắn cứ nắm khư khư khẩu súng trong túi suốt lúc hắn ở trong nhà tôi. – Rồi Tom nói thẳng thừng với giọng thách thức. – Tôi đã nói toạc ra với hắn thì đã sao? Thằng cha kia bị như thế là đáng đời lắm. Nó đã tung hoả mù vào mắt anh như vào mắt Daisy vậy. Nó là một đứa đểu giả. Nó đã chẹt chết Myrtle như người ta chẹt chết một con chó mà không thèm đỗ lại.
Tôi không biết nói gì, trừ cái điều không thể nói ra là sự thật không phải thế.
– Anh tưởng tôi không chịu phần đau khổ đấy à? Anh nghe đây này. Khi tôi đến trả lại gian buồng ấy và nhìn thấy hộp bánh bích quy chó khốn khổ ấy trên tủ bát đĩa, tôi đã ngồi xuống khóc như con nít. Lạy Chúa, thật là kinh khủng…
Tôi không thể tha thứ cho anh ta mà cũng không thể có thiện cảm với anh ta được, nhưng tôi hiểu ra rằng đối với anh ta thì những việc anh ta làm là hoàn toàn chính đáng. Tất cả đầu đuôi chỉ là chuyện vô tâm và nhầm lẫn. Họ là những kẻ vô tâm – Tom và Daisy – họ đập phá tan tành mọi thứ, của cải lẫn con người, rồi rút về ẩn náu trong tiền bạc của họ hoặc trong sự dửng dưng mênh mông của họ, hay trong bất cứ cái gì gắn bó họ với nhau, và để mặc cho kẻ khác dọn dẹp cảnh hỗn độn mà họ gây ra…
Tôi bắt tay Tom. Tôi thấy nếu không bắt tay thì thực là dớ dẩn, vì tôi bỗng cảm thấy như đang nói chuyện với một đứa trẻ. Sau đó, Tom vào cửa hàng vàng bạc mua một chiếc vòng ngọc trai – hay có thể chỉ là một cặp khuy tay áo – và vĩnh viễn bứt xa được khỏi cái tính khe khắt tỉnh lẻ của tôi.
*
* *
Toà biệt thự của Gatsby vẫn còn hoang vắng khi tôi ra đi – cỏ ở vườn nhà anh đã mọc cao bằng cỏ nhà tôi. Trong đám lái xe tắc-xi ở West Egg có một người lần nào chở khách qua cổng nhà anh cũng dừng lại một chút giơ tay chỉ trỏ vào bên trong. Có lẽ anh ta chính là người đã chở Daisy và Gatsby từ West Egg về East Egg tối hôm xảy ra tai nạn, và có lẽ anh ta đã hoàn toàn tự mình bịa ra một câu chuyện từ đầu chí cuối để kể cho khách. Tôi không muốn nghe câu
chuyện ấy nên tôi tránh mặt anh ta hôm tôi ra tàu.
Các tối thứ bảy tôi thường ở lại New York vì những cuộc vui xa hoa và rực rỡ của Gatsby hãy còn hiện lên trong óc tôi tươi rói đến nỗi tôi vẫn còn có thể nghe thấy tiếng nhạc và tiếng cười văng vẳng không ngớt từ vườn nhà anh vọng sang, cả tiếng xe hơi ra vào các lối đi trong vườn nữa. Một đêm, tôi nghe thấy có tiếng xe hơi thật ở bên đó và nhìn thấy đèn xe đỗ lại trước các bậc thềm đằng trước. Nhưng tôi không ra xem sao. Có lẽ đó là một trong những người khách cuối cùng nào đấy ở tít đầu kia quả đất không biết rằng cuộc vui đã tàn.
Đêm cuối cùng, hành lí đã đóng gói xong xuôi và chiếc xe đã nhượng lại cho người chủ hiệu thực phẩm, tôi sang bên nhà anh để nhìn cái vật khổng lồ, rời rạc, không ra nhà kia, một lần nữa. Trên bậc đá trắng, một câu tục tĩu, do một đứa trẻ con nào đó viết bằng gạch, hiện rõ dưới ánh trăng. Tôi xoá nó đi, bằng cách di giày ken két trên mặt đá. Sau đó tôi đi thơ thẩn xuống bãi biển và nằm dài trên cát.
Hầu hết các nhà nghỉ mát ven bờ nước nay đã đóng cửa, không còn mấy ánh đèn trừ ánh đèn lù mù di động của một chiếc phà đang qua eo biển. Trăng lên cao làm cho những ngôi nhà vô dụng kia mỗi lúc một mờ đi, chìm đi, cho đến khi tôi dần dần cảm thấy như mình đang đứng trên hòn đảo thời xa xưa ở nơi đây, hòn đảo đã có thời xoè nở trước con mắt các thuỷ thủ Hà Lan khác nào bộ ngực tươi mát xanh rờn của thế giới. Những bụi cây khi ấy, những bụi cây nay đã nhường chỗ cho ngôi nhà của Gatsby, đã có thời, bằng những tiếng thì thào, khơi dậy lên giấc mơ cuối cùng và to lớn nhất của con người. Trong một phút giây ngỡ ngàng ngắn ngủi, con người đã phải nín thở trước sự xuất hiện của lục địa này, lặng người đi trong một sự chiêm ngưỡng thẩm mĩ mà mình không hiểu nổi và cũng không mong ước khi lần cuối cùng trong lịch sử đối diện với một đối tượng khơi gợi được hết khả năng kinh ngạc của mình.
Và trong lúc tôi ngồi đó ngẫm nghĩ về cái thế giới xưa chưa biết, tôi nghĩ đến nỗi kinh ngạc của Gatsby khi anh lần đầu tiên phát hiện ra cái đốm sáng xanh ở cuối bến thuyền nhà Daisy. Anh đã phải đi một chặng đường dài mới tới được thảm cỏ xanh rờn này, và điều mơ ước của anh tưởng như đã ở gần đến nỗi hầu như giơ tay ra là thể nào anh cũng với tới nó. Anh đâu biết rằng nó đã rớt lại đằng sau anh rồi, ở một chỗ nào đó trong khoảng tối mênh mông bên kia thành phố, nơi những cánh đồng sẫm đen của nước cộng hoà trải ra trong đêm tối.
Gatsby gửi niềm tin của mình vào cái đốm sáng xanh, cái tương lai làm đê mê lòng người mỗi năm một lùi ra xa chúng ta hơn. Nó đã tuột khỏi tay chúng ta rồi, nhưng có sao! – ngày mai chúng ta sẽ dấn bước nhanh hơn, sẽ vươn tay ra dài hơn… Và một buổi sáng đẹp trời…
Chúng ta cứ thế cố dấn lên, như những chiếc thuyền cố đi ngược dòng nước
không ngừng bị đẩy về dĩ vãng.
Chú thích:
(1) James Jerome Hill (1836-1916): vua đường sắt miền Tây Bắc Mỹ đầu thế kỉ 20.
(2) Xe hơi chở người có hai hàng ghế và khoang rộng chở hàng ở đằng sau.
Hết