Liệu có hợp lý không khi nhóm đa số, những người lên tiếng phản bác chức năng cai quản của chính quyền, phải phục tùng thiểu số những người tự do? Không nghi ngờ gì rằng giữa hai trưởng hợp (i) thiểu số tự do nắm quyền lực và, chẳng mất mát gì cả, thúc ép số đông kia giữ lấy tự do của chính họ, và (ii) đa số nắm quyền lực và bắt thiểu số làm nô lệ nhằm thỏa mãn niềm vui hạ đẳng của mình, thì trường hợp đầu sẽ hợp lý hơn. Những người không tìm kiếm gì ngoài tự do chính đáng của chính họ sẽ luôn có quyền bảo vệ nó mỗi khi họ có đủ sức mạnh dù số người phản đối có đông đến mức nào.
Thế hệ chúng ta thường hãnh diện là họ ít quan tâm đến các vấn đề kinh tế hơn các thế hệ cha ông. “Sự cáo chung của con người kinh tế” hứa hẹn trở thành huyền thoại quan trọng nhất của thời đại chúng ta. Trước khi chấp nhận lời khẳng định này hay coi sự thay đổi như thế là có ý nghĩa ta phải kiểm tra một chút xem nó đúng đến mức nào. Khi xem xét những lời kêu gọi về việc tái thiết xã hội đang vang lên mạnh mẽ khắp nơi, chúng ta đều thấy rằng tất cả đều có tính chất kinh tế: chúng ta đã thấy rằng việc “giải thích lại theo thuật ngữ kinh tế” các lí tưởng chính trị của quá khứ như tự do, bình đẳng, và an ninh là một trong những đòi hỏi cơ bản của chính những người vừa tuyên bố về sự cáo chung của con người kinh tế. Không còn nghi ngờ gì rằng hơn lúc nào hết, niềm tin và khát vọng của con người hiện nay được dẫn đạo bởi các học thuyết kinh tế, bởi niềm tin được cổ động một cách rộng rãi rằng hệ thống kinh tế của chúng ta là một hệ thống phi lí, bởi những lời khẳng định sai lầm về “sự sung túc tiềm tàng”, bởi những lí thuyết rởm (pseudotheories) về tính tất yếu của độc quyền và bởi ấn tượng về những sự cố được làm rùm beng như việc phá hủy các kho nguyên liệu hay việc ngăn chặn các sáng chế mà người ta quy cho là tại vì cạnh tranh, nhưng đây là những việc không thể xảy ra trong nền kinh tế cạnh tranh, chúng chỉ có thể xảy ra trong nền kinh tế độc quyền và thường là nền kinh tế độc quyền được chính phủ bảo trợ[1].
Ở một khía cạnh khác, khác với các thế hệ trước, chúng ta đúng là thường không chịu chú ý đến các ràng buộc kinh tế. Chúng ta dứt khoát không chịu hi sinh bất kì nhu cầu nào khi điều kiện kinh tế đòi hỏi phải làm như thế; chúng ta không chịu chấp nhận những tác nhân hạn chế các tham vọng trực tiếp của mình và không chịu khuất phục trước các nhu cầu về mặt kinh tế. Không phải là thái độ coi thường sự thịnh vượng về mặt kinh tế hay thậm chí không cần cả sự thịnh vượng mà ngược lại, là thái độ không chấp nhận sự tồn tại của bất kì chướng ngại nào, bất kì sự xung đột nào với các mục tiêu khác, cản trở việc thực hiện các ước mơ của mình, đấy chính là đặc điểm chủ yếu của thế hệ chúng ta. Để mô tả thái độ này thì có lẽ thuật ngữ “bài bác kinh tế” (economophobia) sẽ chính xác hơn là “sự cáo chung của con người kinh tế”, một thuật ngữ sai đến hai lần vì nó gợi ý một sự dịch chuyển từ trạng thái chưa bao giờ tồn tại sang hướng mà chúng ta sẽ không bao giờ đi theo, Con người trước đây từng thuần phục những lực lượng vô nhân xưng, dù là chúng thường xuyên làm hỏng những cố gắng của anh ta, thì nay bắt đầu căm thù và nổi dậy chống lại chúng.
Cuộc nổi dậy này là thí dụ về một hiện tượng rộng lớn hơn: thái độ bất tuân những quy tắc hay nhu cầu tất yếu mà tạm thời người ta chưa hiểu được tính hữu lí của chúng. Ta thấy hiện tượng này trong nhiều lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là trong lĩnh vực đạo đức và thường có những kết quả tích cực. Nhưng có những lĩnh vực mà trí tuệ chưa thể hiểu biết hết được, đồng thời việc không tuân phục tất cả những gì ta chưa hiểu chắc chắn sẽ dẫn đến sự hủy hoại nền văn minh của chúng ta. Hoàn toàn tự nhiên là thế giới quanh ta càng ngày càng trở nên phức tạp hơn, sự chống đối của chúng ta với những lực lượng mà chúng ta không hiểu nhưng thường xuyên can thiệp vào các kế hoạch và kì vọng của chúng ta cũng ngày một gia tăng, chính trong hoàn cảnh như thế mà càng ngày những lực lượng này càng trở nên khó hiểu hơn. Nền văn minh phức tạp như của chúng ta phải dựa trên sự tự điều chỉnh của cá nhân cho phù hợp với những biến đổi mà anh ta không thể nào hiểu được nguyên nhân cũng như bản chất của chúng: tại sao thu nhập của anh ta lại tăng hay giảm, tại sao anh ta phải chuyển sang vị trí công tác khác, tại sao một số thứ lại khó kiếm hơn một số thứ khác. Các vấn đề này đều liên quan đến một loạt hoàn cảnh mà không một đầu óc đơn lẻ nào có thể hiểu được, chẳng những thế, những người bị tác động thường gán tất cả tội lỗi cho những nguyên nhân trực tiếp, những nguyên nhân có thể nhận ra ngay, trong khi sự thay đổi lại được quyết định bởi những mối quan hệ phức tạp không thể nắm bắt được. Ngay cả nếu người cầm đầu một xã hội được kế hoạch hóa một cách hoàn hảo muốn giải thích cho một nhân viên nào đó vì sao anh ta phải chuyển sang vị trí công tác khác hay vì sao lương của anh ta lại thay đổi thì ông ta phải giải thích và trình bày toàn bộ kế hoạch của mình. Như thế nghĩa là số người nhận được lời giải thích sẽ chẳng đáng là bao.
Trong quá khứ, chính sự phục tùng các lực lượng vô nhân xưng của thị trường đã tạo điều kiện cho sự phát triển của nền văn minh, không có sự phục tùng như thế thì nền văn minh không thể phát triển được.
Nhờ sự phục tùng như thế mà hằng ngày chúng ta mới có thể đóng góp một phần sức lực của mình để xây dựng nên những chuyện thần kì mà không một người nào trong chúng ta có thể hiểu hết được. Trong quá khứ có thể người ta đã phục tùng vì những quan niệm mà nay có thể bị coi là mê tín: sự khiêm nhường mang tính tôn giáo hay sự tôn trọng quá đáng đối với các lí thuyết thô thiển của các nhà kinh tế học xa xưa, đấy không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là giải thích một cách duy lí sự cần thiết phải phục tùng các lực lượng mà cơ chế hoạt động của nó ta không nắm được một cách cụ thể là việc cực kì khó, khó hơn rất nhiều việc phục tùng chúng, dù đấy là do lòng kính sợ mang tính tôn giáo hay sự tôn trọng các học thuyết kinh tế. Nếu mỗi người đều không làm bất cứ việc gì khi anh ta chưa hiểu hết được sự cần thiết của nó thì chỉ để duy trì nền văn minh phức tạp hiện nay mỗi người đều cần một trí thông minh mà hiện nay không người nào có. Thái độ không chịu phục tùng những lực lượng mà ta không hiểu hoặc không nhận ra được vì chúng không giống những thứ do một bộ óc thông minh nào đó tạo ra là sản phẩm của một thứ chủ nghĩa duy lí chưa hoàn hảo và sai lầm. Chưa hoàn hảo bởi vì không nhận thức được rằng làm công tác phối hợp những cố gắng của những cá nhân khác nhau trong một xã hội phức tạp thì phải tính đến các sự kiện mà không một cá nhân nào có thể hiểu được một cách đầy đủ. Sai lầm bởi vì không nhìn thấy rằng nếu ta không muốn phá hủy xã hội này thì ta chỉ có một cách, đấy là phục tùng các lực lượng vô nhân xưng, mà thoạt nhìn có vẻ phi lí, nhằm tránh phải phục tùng quyền lực cũng không thể kiểm soát nổi và vì vậy là quyền lực độc đoán của người khác. Khát khao giải thoát khỏi những trói buộc mà con người đã nhận thức được song người ta lại không hiểu rằng những trói buộc của hệ thống chuyên chế mà họ sẽ tự giác khoác lên mình còn nặng nề và đau khổ hơn nhiều.
Một số người khẳng định rằng chúng ta đã học được cách làm chủ các lực lượng tự nhiên nhưng chưa biết cách phối hợp các hoạt động xã hội. Hoàn toàn đúng, nếu chỉ nói như thế. Nhưng sẽ là sai khi người ta so sánh tiếp và khẳng định rằng chúng ta cũng phải học để có thể làm chủ các lực lượng xã hội giống như chúng ta đã học được cách làm chủ các lực lượng tự nhiên vậy. Đây không chỉ là con đường dẫn tới chế độ toàn trị mà còn là con đường dẫn tới sự hủy diệt nền văn minh của chúng ta và chắc chắn sẽ chặn đứng sự tiến bộ trong tương lai. Những người kêu gọi như thế chỉ chứng tỏ rằng họ không hiểu một điều là muốn giữ những thành tựu mà chúng ta đạt được cho đến nay thì chúng ta phải tìm cách phối hợp những cố gắng của cá nhân bằng những lực lượng vô nhân xưng.
Bây giờ chúng ta phải quay lại để nói một chút về ý tưởng then chốt là tự do cá nhân không thể hòa hợp với quyền uy tuyệt đối của một mục đích duy nhất mà cả xã hội phải phục tùng một cách toàn diện và vĩnh viễn. Ngoại lệ duy nhất đối với quy tắc cho rằng xã hội tự do không thể khuất phục một mục đích duy nhất là tình trạng chiến tranh hay những thảm họa tạm thời khác, khi mà hầu như tất cả đều phải phục vụ cho nhu cầu bức bách trước mắt, đấy chính là cái giá chúng ta phải trả trong ngắn hạn nhằm bảo vệ sự tự do của chúng ta trong dài hạn. Điều đó giải thích tại sao nhiều câu nói thịnh hành hiện nay rằng trong thời bình chúng ta cũng sẽ làm những việc như chúng ta đã học làm trong thời chiến là những câu nói hoàn toàn sai: có thể tạm thời hi sinh tự do để trong tương lai tự do càng vững chắc hơn, nhưng không thể nói như thế được nếu hệ thống phi tự do như thế trở thành vĩnh cửu.
Nguyên tắc là trong thời bình không mục tiêu nào được tuyệt đối đứng trên các mục tiêu khác còn áp dụng được cho cả nhiệm vụ mà bây giờ mọi người đều coi là khẩn thiết: đấu tranh chống nạn thất nghiệp. Không nghi ngờ gì rằng đây là mục tiêu mà chúng ta phải cố gắng hết sức, nhưng như thế cũng không có nghĩa là nó sẽ lấn át tất cả các mục tiêu khác hay như người ta vẫn nói là phải giải quyết “bằng mọi giá”. Sự thật là, trong lĩnh vực này, tính hấp dẫn của những phát ngôn mị dân, mơ hồ như “ai cũng có việc làm” có thể dẫn tới những biện pháp cực kì thiển cận, hay những đòi hỏi quyết liệt và thiếu trách nhiệm như “phải làm bằng mọi giá” của những người lí tưởng hóa chắc chắn sẽ mang lại nhiều tác hại to lớn.
Điều quan trọng là chúng ta phải tỉnh táo khi tiếp cận với những nhiệm vụ mà chúng ta sẽ gặp trong lĩnh vực này thời hậu chiến và chúng ta phải nhận thức rõ chúng ta có thể kì vọng vào những mục tiêu nào. Một trong những đặc điểm quan trọng của thời hậu chiến là hàng trăm ngàn người, cả đàn ông và đàn bà, do nhu cầu chiến tranh đã được đưa vào làm những công việc đặc biệt trong thời chiến và có thu nhập tương đối cao. Trong thời bình khả năng sử dụng một số lượng người lớn đến như thế sẽ không còn. Sẽ phải chuyển ngay rất nhiều người sang các công việc khác và nhiều người sẽ thấy rằng công việc mà họ có thể làm được trả ít lương hơn là công việc họ đã làm thời chiến. Việc tái đào tạo, chắc chắn sẽ được thực hiện trên quy mô to lớn, cũng không thể giải quyết được toàn bộ vấn đề. Bất kì hệ thống nào thì cũng sẽ có rất nhiều người, những người được trả lương theo lao động tức là phù hợp với lợi ích mà họ mang lại cho xã hội, sẽ buộc phải chấp nhận sự sụt giảm thu nhập so với những người khác.
Nếu công đoàn chiến thắng trong cuộc đấu tranh chống lại bất kì sự giảm lương nào cho những nhóm cá biệt mà ta nói đến ở đây thì sẽ chỉ còn một trong hai lựa chọn: sử dụng biện pháp ép buộc (một số người sẽ bị buộc phải chuyển sang những công việc có mức lương thấp hơn) hoặc những người đã từng nhận lương cao trong thời chiến sẽ phải thất nghiệp cho đến khi họ chấp nhận những công việc với mức lương thấp hơn. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa vấn đề này cũng xuất hiện hệt như các xã hội khác: đa số người lao động sẽ phản đối việc giữ mãi mức lương ngất ngưởng cho những người được đưa vào làm những công việc được trả lương cao do nhu cầu của chiến tranh. Trong trường hợp này chế độ xã hội chủ nghĩa chắc chắn sẽ sử dụng hình thức cưỡng bức. Điều quan trọng đối với chúng ta là nếu chúng ta không chấp nhận thất nghiệp “bằng mọi giá” và nếu chúng ta không sử dụng các biện pháp cưỡng bức thì có lẽ chúng ta sẽ phải sử dụng các thủ đoạn liều lĩnh, những biện pháp như thế chỉ có thể giải quyết vấn đề trong ngắn hạn và sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả sử dụng các nguồn lực của chúng ta. cần phải nhấn mạnh rằng chính sách tiền tệ cũng không giúp giải quyết được khó khăn ngoại trừ việc nó sẽ đưa đến lạm phát đáng kể trong toàn xã hội, một mức độ lạm phát đủ để nâng mức lương và giá cao bằng với mức lương của những người mà ta không thể hạ xuống được. Nhưng điều này chỉ tạo ra kết quả đáng mong muốn khi việc giảm lương thực tế được che giấu và thực hiện trong vòng kiểm soát. Hơn nữa, việc nâng lương và thu nhập của tất cả mọi người cho ngang bằng với nhóm người mà ta đang nói tới ở đây có thể đưa đến lạm phát ở quy mô mà sự xáo trộn, đau khổ và bất công lớn hơn nhiều những bất công mà ta định uốn nắn lúc ban đầu.
Vấn đề này sẽ đặc biệt gay gắt sau chiến tranh và sẽ thường xuyên xuất hiện mỗi khi hệ thống kinh tế phải tự điều chỉnh để thích nghi với các thay đổi. Luôn luôn có thể tạo ra số lượng việc làm tối đa trong ngắn hạn, bằng cách giữ lại tất cả những người đã làm những công việc cũ và phát hành thêm tiền mặt. Nhưng việc đó sẽ chỉ dẫn tới lạm phát lũy tiến và cản trở việc tái phân phối sức lao động giữa các ngành công nghiệp, điều cần thiết phải làm khi tình hình thay đổi; khi người lao động được tự do lựa chọn việc làm thì quá trình tái phân phối sức lao động sẽ diễn ra một cách chậm chạp và vì vậy sẽ gây ra thất nghiệp: nhắm đến mục tiêu là tạo ra nhiều chỗ làm việc nhất bằng phương tiện tiền tệ là chính sách chắc chắn cuối cùng sẽ dẫn đến những kết quả trái ngược với mục đích ban đầu của nó. Nó sẽ làm cho năng suất lao động giảm và vì thế sẽ làm gia tăng tỉ lệ những người làm việc mà lương bổng của họ được giữ nguyên chỉ nhờ các biện pháp nhân tạo.
Không nghi ngờ gì rằng sau chiến tranh sự khôn ngoan trong quản lí kinh tế còn quan trọng hơn cả trước kia và số phận của nền văn minh của chúng ta rốt cuộc sẽ phụ thuộc vào việc chúng ta sẽ giải quyết những vấn đề kinh tế như thế nào. Dù sao mặc lòng, nước Anh sẽ nghèo, rất nghèo, và việc phục hồi và cải thiện mức sống cũ đối với Anh là việc khó hơn nhiều nước khác. Nếu hành động một cách khôn khéo, bằng lao động cần cù và nỗ lực đại tu và đổi mới máy móc và tổ chức, thì trong vài năm nước Anh có thể trở lại thậm chí vượt qua mức sống mà họ đã đạt được trước đây. Nhưng đấy là với điều kiện người ta phải chấp nhận mức tiêu dùng khả dĩ không gây trở ngại cho quá trình tái thiết, phải chấp nhận không có những kì vọng quá đáng đòi phải đáp ứng ngay lập tức, và phải sử dụng các nguồn lực một cách tối ưu nhất và với mục đích đóng góp nhiều nhất cho sự thịnh vượng chứ không phải sử dụng tất cả các nguồn lực theo cách được chăng hay chớ[2]. Có lẽ cũng không kém phần quan trọng là không được khắc phục tình trạng nghèo đói bằng các biện pháp thiển cận như tái phân phối thay vì phải nâng cao thu nhập, làm như thế là đẩy nhiều nhóm xã hội đông người thành kẻ thù của trật tự hiện hành. Không được quên rằng tác nhân quyết định cho việc ngóc đầu dậy của chủ nghĩa toàn trị ở lục địa châu Âu, điều vẫn chưa xuất hiện ở Anh và Mỹ, là sự tồn tại của giai cấp trung lưu đông đảo vừa bị truất hữu tài sản.
Chúng ta có thể hi vọng tránh được cái số phận đáng buồn đang đe dọa chúng ta bằng cách thực hiện một sự tiến bộ vượt bậc về kinh tế, có thể đưa chúng ta đến những thành tựu mới dù điểm xuất phát của chúng ta có thấp đến mức nào. Điều kiện chính cho sự tiến bộ như thế là chúng ta phải sẵn sàng thích nghi với một thế giới đã thay đổi rất nhiều, không để cho những cân nhắc về tiêu chuẩn sống quen thuộc của những nhóm người đặc biệt gây trở ngại cho sự thích nghi như thế, và một lần nữa chúng ta phải học cách chuyển tất cả nguồn lực của chúng ta sang những ngành sẽ có đóng góp nhiều nhất để tất cả chúng ta càng ngày càng giàu có hơn. Nếu chúng ta muốn khôi phục và đạt được mức sống cao hơn thì chúng ta phải tiến hành những điều chỉnh lớn chưa từng có, và chỉ khi mỗi người chúng ta sẵn sàng tuân theo những nhu cầu tất yếu của quá trình tái điều chỉnh này thì chúng ta mới có thể vượt qua giai đoạn khó khăn như những người tự do, những người có quyền lựa chọn cách sống riêng của mình. Hãy tìm mọi cách để đảm bảo một mức sống tối thiểu đồng đều cho tất cả mọi người, nhưng đồng thời với việc bảo đảm một mức sống tối thiểu như thế rồi thì mọi đòi hỏi về ưu tiên ưu đãi cho những giai tầng đặc biệt phải bị bãi bỏ, mọi lí do cho phép thành lập những nhóm khép kín nhằm bảo đảm những tiêu chuẩn đặc biệt cho họ cũng sẽ phải bị bãi bỏ.
“Mặc xác kinh tế, chúng ta sẽ xây dựng một thế giới tử tế”, đấy là những lời kêu gọi nghe có vẻ cao thượng nhưng trên thực tế lại là những lời nói hoàn toàn vô trách nhiệm. Trong thế giới của chúng ta, khi ai cũng cho rằng điều kiện vật chất ở nơi này hay ở nơi khác cần phải được cải thiện, chúng ta chỉ có thể xây dựng được một thế giới tử tế nếu chúng ta có thể tiếp tục cải thiện được điều kiện sống cho tất cả mọi người. Điều duy nhất mà nền dân chủ hiện đại không thể chịu đựng, nó nhất định sẽ bị tổn thương, đấy là việc buộc phải giữ mức sống thấp trong thời bình hoặc sự giẫm chân tại chỗ của nền kinh tế trong một thời gian dài.
* * *
Những người cho rằng các xu hướng chính trị hiện nay đang gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với triển vọng kinh tế của chúng ta và thông qua hiệu ứng kinh tế đe dọa cả những giá trị cao hơn nhiều, lại tiếp tục tự lừa phỉnh mình rằng chúng ta đang hi sinh quyền lợi vật chất nhân danh những mục đích lí tưởng. Tuy thế, liệu năm mươi năm tiếp xúc với chủ nghĩa tập thể có nâng cao được tiêu chuẩn đạo đức của chúng ta hay sự thay đổi sẽ đi theo chiều ngược lại? Mặc dù chúng ta thường tỏ ra tự hào là nhạy cảm hơn với các bất công xã hội, nhưng hành động của mỗi người chúng ta thì lại chưa chứng tỏ được điều đó, về khía cạnh tiêu cực, thế hệ chúng ta có lẽ tỏ ra phẫn nộ hơn các thế hệ cha anh trước những bất bình đẳng của trật tự xã hội hiện hành. Nhưng ảnh hưởng của nó lên các tiêu chuẩn tích cực trong lĩnh vực đạo đức, trong các hành vi cá nhân và thái độ của chúng ta trong việc giữ vững các nguyên tắc đạo đức khi phải đối mặt với các thủ đoạn và đòi hỏi của bộ máy xã hội thì lại là vấn đề hoàn toàn khác.
Trong lĩnh vực này các vấn đề đã trở thành rối rắm đến mức cần phải bắt đầu từ căn đế. Thế hệ chúng ta có nguy cơ quên rằng các tiêu chuẩn đạo đức nhất định phải gắn bó mật thiết với các hành vi mang tính cá nhân cũng như chúng chỉ có hiệu lực khi cá nhân được tự do quyết định và tự nguyện hi sinh các quyền lợi cá nhân nhằm thực thi các quy tắc đạo đức. Bên ngoài lĩnh vực trách nhiệm cá nhân thì không còn khái niệm tốt xấu nữa, không còn cơ hội thể hiện các giá trị đạo đức cũng chẳng thể chứng minh được niềm tin của mình bằng cách hi sinh những ham muốn cá nhân cho những điều mà mình cho là đúng nữa. Chỉ khi chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyền lợi của mình và được tự do khi hi sinh các quyền lợi đó thì quyết định của chúng ta mới có giá trị đạo đức. Chúng ta sẽ chẳng thể được coi là vị tha khi hi sinh quyền lợi của người khác hoặc chẳng được vinh danh khi trở nên vị tha nếu như ta không có quyền lựa chọn. Những thành viên của một xã hội mà trong bất cứ lĩnh vực nào cũng buộc phải làm điều tốt thì cũng chẳng có gì phải ca ngợi. Như Milton đã nói: “Nếu mọi hành động của một người trưởng thành - dù tốt hay xấu - đều chỉ là do tiền thù lao, do quy định hay bị ép buộc thì đức hạnh chẳng phải chỉ còn là một danh từ trống rỗng đó sao? Việc tốt còn đáng ngợi ca nữa không? Tỉnh táo, công bằng và điều độ có đáng cám ơn nữa không?”
Tự do hành động ngay trong lĩnh vực mà hoàn cảnh vật chất buộc chúng ta phải lựa chọn và chịu trách nhiệm khi tổ chức cuộc sống phù hợp với lương tâm của mình chính là những điều kiện cần thiết để ý thức về đạo đức có thể phát triển và những giá trị đạo đức được tái tạo hằng ngày thông qua những quyết định tự do của từng cá nhân, Trách nhiệm không phải trước cấp trên mà trước lương tâm của mình, ý thức về trách nhiệm không phải do cưỡng bức mà có, cốt lõi của việc coi cái gì đó có giá trị là phải dám hy sinh những cái khác, và sẵn sàng chấp nhận hậu quả của những quyết định do mình đưa ra, tất cả những điều đó chính là bản chất của đức hạnh, theo nghĩa đúng đắn nhất của từ này.
Trong lĩnh vực hành vi cá nhân thì ảnh hưởng của chủ nghĩa tập thể chỉ mang tính phá hoại, đấy là điều chắc chắn và không thể nào phủ nhận được, phong trào hứa hẹn sẽ giải thoát con người ta khỏi trách nhiệm cá nhân[3] không thể không trở thành phong trào phi đạo đức trên thực tế dù lí tưởng ban đầu của nó có cao quý đến mức nào. Có thể có đủ lý do để nghi ngờ rằng cảm giác cá nhân của chúng ta trong việc khắc phục những bất công khi ta đủ sức làm việc đó sẽ yếu đi thay vì mạnh lên? Rằng cả tinh thần sẵn sàng chịu trách nhiệm lẫn ý thức rằng mình phải có trách nhiệm tìm hiểu để có thể chọn lựa đã bị suy yếu đi một cách rõ ràng? Đòi hỏi nhà cầm quyền cải thiện tình hình hoặc ngay cả sẵn sàng phục tùng miễn là những người khác cũng bị buộc phải làm như thế và tự mình sẵn sàng làm những việc mà mình cho là đúng ngay cả khi phải hi sinh những ước mơ riêng của mình và có thể phải hứng chịu những điều tiếng không hay là hai việc hoàn toàn khác nhau. Có nhiều sự kiện chứng tỏ rằng trên thực tế càng ngày chúng ta càng dễ bỏ qua những hành động bất lương cụ thế, càng ngày càng tỏ ra bàng quan đối với những bất công riêng lẻ trong khi đó lại chú mục vào cái hệ thống lí tưởng, trong đó nhà nước sẽ tổ chức mọi việc một cách hoàn hảo. Có thể, như đã nói bên trên, chính niềm say mê hành động tập thể là con đường đưa chúng ta chìm đắm vào thói ích kỉ tập thể, cái thói ích kỉ mà từng người chúng ta hiếm khi tự tiết chế được.
Những đức tính tốt như tự lập, tự lực cánh sinh, sẵn sàng mạo hiểm, sẵn sàng bảo vệ ý kiến của mình dù trái ngược với đa số và tinh thần sẵn sàng hợp tác với tha nhân là những đức tính tối quan trọng của xã hội cá nhân chủ nghĩa thì nay không còn được đánh giá cao và ít được thực hành hơn trước. Chủ nghĩa tập thể không thể thay thế được những đức tính đó và trong khi phá hủy chúng, chủ nghĩa tập thể đã để lại một chân không đạo đức được lấp đầy bằng yêu cầu duy nhất là phục tùng và sự cưỡng bức cá nhân phải làm điều mà tập thể quyết định là tốt. Sự lựa chọn mang tính đạo đức của cá nhân trước các cuộc bầu chọn định kì những người đại diện ngày một thu hẹp thêm; nó không còn là tình huống khi giá trị đạo đức của cá nhân bị thách thức, cũng không phải là nơi anh ta phải thường xuyên tái khẳng định và chứng tỏ thang giá trị đạo đức của mình, và chứng minh lòng chân thành của mình bằng cách hi sinh những giá trị mà anh ta cho là thấp hơn cho những giá trị mà anh ta đánh giá cao hơn.
Vì các quy tắc hành xử của cá nhân chính là cội nguồn đức hạnh của các hành động chính trị tập thể, cho nên quả là chuyện lạ nếu tiêu chuẩn đạo đức cá nhân giảm lại đi kèm với sự gia tăng các tiêu chuẩn của hành động xã hội. Những thay đổi to lớn trong lĩnh vực này là rất rõ ràng. Dĩ nhiên là các thế hệ sau sẽ coi một số giá trị là cao hơn, một số thấp hơn so với các thế hệ đi trước. Nhưng xin hãy tự hỏi: những mục tiêu nào đang bị coi là thấp và giá trị nào có thể phải hi sinh nếu chúng xung đột với các giá trị khác? Trong các họa phẩm vẽ về tương lai mà các văn sĩ và diễn giả đưa ra cho chúng ta thì những giá trị nào có vị trí mờ nhạt hơn so với những bức tranh từng hiện diện trong những giấc mơ và niềm hi vọng của cha ông chúng ta?
Chắc chắn là tiện nghi vật chất, nâng cao mức sống và bảo đảm một vị trí xã hội nhất định không thể chiếm các vị trí thấp trên thang giá trị của chúng ta. Liệu có văn sĩ hay diễn giả nào dám đề nghị quần chúng nhân danh những lí tưởng cao cả mà chấp nhận hi sinh các triển vọng vật chất của họ hay không? Có phải trên thực tế mọi việc đang diễn ra hoàn toàn ngược lại hay không? Chẳng phải là càng ngày chúng ta càng được dạy rằng tất cả các giá trị đạo đức như tự do và độc lập, sự thật và tính trung thực tri thức, hòa bình và dân chủ và sự tôn trọng cá nhân như là một con người chứ không phải chỉ là thành viên của một tổ chức, đều là “những ngộ nhận của thế kỉ XIX” hay sao?
Những giá trị nào được coi là trụ cột không thể xâm phạm, không một nhà cải cách nào dám động vào vì chúng được coi là những giá trị thiêng liêng trong bất cứ kế hoạch nào cho tương lai? Đấy không còn là quyền tự do cá nhân, không phải là quyền tự do đi lại và cũng không phải là quyền tự do ngôn luận nữa. Đấy là đặc quyền đặc lợi của nhóm người này hay nhóm người kia, đấy là “quyền” không cung cấp cho những người đồng bào của họ những thứ mà những người kia cần. Việc phân biệt đối xử với những thành viên và không phải thành viên của các nhóm khép kín, đấy là chưa nói tới những kiểu dân thuộc các quốc gia khác, càng ngày càng được coi là vấn đề đương nhiên. Những bất công do chính phủ gây ra cho các cá nhân khi nó hành động nhằm bảo vệ quyền lợi của một nhóm nào đó bị người ta lờ đi với thái độ bàng quan có thể sánh ngang với sự tàn nhẫn. Những vụ vi phạm trắng trợn quyền cơ bản của con người, thí dụ như ép buộc di dân hàng loạt được ngay cả những người tự nhận là theo trường phái tự do ủng hộ.
Tất cả những điều này chứng tỏ rằng ý thức đạo đức của chúng ta đã cùn mòn đi chứ không phải là sắc bén thêm. Khi chúng ta được nhắc nhở một cách thường xuyên rằng muốn có món trứng rán thì phải đập trứng, nhưng trứng ở đây lại thường là những giá trị mà mới cách đây một hai thế hệ vẫn được coi là cơ sở thiết yếu của đời sống văn minh. Có tội ác nào của chính quyền mà những người gọi là “tự do” của chúng ta, khi đã tỏ ra cảm tình với nguyên lí của nó, không sẵn sàng tha thứ?
* * *
Có một khía cạnh trong sự biến dịch các giá trị đạo đức, mà sự lấn tới của chủ nghĩa tập thể đã gây ra, rất đáng được suy ngẫm vào lúc này. Đấy là những đức tính càng ngày càng ít được coi trọng và vì vậy càng ngày càng trở thành hiếm hoi hơn, nhưng trước đây các đức tính này từng là niềm tự hào của người Anglo-Saxon và họ cũng được mọi người thừa nhận là xuất sắc về mặt đó. Những đức tính mà các dân tộc này sở hữu (ở mức độ cao hơn đa số các dân tộc khác, ngoại trừ một vài dân tộc nhỏ như Thụy Sĩ và Hà Lan) là tính độc lập và tự lực cánh sinh, sáng kiến cá nhân và trách nhiệm khu vực, biết dựa vào các hoạt động tình nguyện, không can thiệp vào công việc của tha nhân và khoan dung với những người khác mình cũng như những người kì quặc, tôn trọng tập quán và truyền thống, có thái độ nghi ngờ lành mạnh đối với chính quyền và nhà chức trách. Gần như tất cả các truyền thống và thiết chế, trong đó tinh thần đạo đức dân chủ được thể hiện một cách đặc trưng nhất và đến lượt nó, lại hun đúc nên tinh thần dân tộc và toàn bộ bầu không khí đạo đức của nước Anh và nước Mĩ lại đang bị chủ nghĩa tập thể và các xu hướng tập quyền gắn liền với nó phá hủy.
Người ngoại quốc đôi khi lại dễ nhận ra những hoàn cảnh góp phần hun đúc nên sở trường đặc biệt trong bầu không khí đạo đức của một dân tộc nào đó. Và nếu tôi, dù pháp luật có nói gì đi nữa, phải mãi mãi là một người ngoại quốc, có thể được phép phát biểu quan điểm của mình thì xin nói rằng việc chứng kiến cảnh người Anh coi thường những đóng góp có giá trị nhất của họ cho nhân loại là một trong những cảnh tượng đáng buồn nhất trong thời đại chúng ta. Người Anh khó mà biết được mức độ khác biệt của họ với phần lớn các dân tộc khác là ở chỗ tất cả họ, bất kể theo đảng phái nào, dù ít dù nhiều đều trung thành với những tư tưởng vẫn được gọi là chủ nghĩa tự do. Hai mươi năm trước, người Anh, nếu so với dân chúng phần lớn các nước khác, đều là những người theo trường phái tự do chủ nghĩa dù họ có khác chủ nghĩa tự do đảng phái đến mức nào. Ngay cả hiện nay, một người Anh, dù theo phái bảo thủ hay xã hội chủ nghĩa, đi ra nước ngoài thì anh ta sẽ thấy, chẳng khác gì một người theo phái tự do, rằng anh ta chẳng có gì chung với những nhóm người, bao gồm cả các đảng viên quốc xã và những người có tư tưởng toàn trị khác, đang đọc và đang đi theo các tư tưởng của Carlyle hay Disraeli, của ông bà Webb hay của G. H. Wells; nhưng nếu anh ta lạc vào một ốc đảo trí tuệ, nơi truyền thống do Macaulay và Galdston, J. S. Mill và John Morley để lại vẫn còn sống động thì anh ta sẽ tìm thấy những tâm hồn đồng điệu, những người “nói cùng một thứ tiếng với anh ta” dù lí tưởng của anh ta và lí tưởng mà những người kia đang bảo vệ có khác nhau đến mức nào.
Không ở đâu mà việc đánh mất niềm tin vào những giá trị đặc thù của nền văn minh Anh lại thể hiện rõ hơn và cũng không ở đâu nó lại làm tê liệt những cố gắng trong việc theo đuổi các mục đích vĩ đại trước mắt của chúng hơn là sự thiếu hiệu quả một cách ngu ngốc của hầu hết các cơ quan tuyên truyền Anh quốc. Muốn cho công tác tuyên truyền đối ngoại có hiệu quả thì điều kiện tiên quyết là phải công nhận một cách đầy tự hào những giá trị đặc thù, những tính cách đặc trưng của mình mà mình muốn giới thiệu cho các dân tộc khác. Công tác tuyên truyền của Anh kém hiệu quả là do những người lãnh đạo nó có vẻ như đã đánh mất niềm tin vào những giá trị đặc thù của nền văn minh Anh hoặc hoàn toàn không biết gì về những đặc điểm chính làm cho người Anh khác với các dân tộc khác. Trên thực tế, tầng lớp trí thức cánh Tả đã sùng bái những thần tượng ngoại quốc quá lâu cho nên đã không còn nhận thức được những điều tốt đẹp trong các truyền thống và thiết chế đặc thù của nước Anh nữa. Những người xã hội chủ nghĩa này dĩ nhiên là không bao giờ chịu công nhận rằng các giá trị đạo đức mà đa số họ vẫn lấy làm tự hào lại là sản phẩm của những thiết chế mà họ kêu gọi phá hủy. Đáng tiếc là thái độ này không chỉ giới hạn ở những người tự nhận là xã hội chủ nghĩa. Dù ai đó có quyền hi vọng rằng đa số người Anh có học, thầm lặng, không nghĩ như thế, nhưng nếu chỉ đánh giá thông qua các tư tưởng được trình bày trong các cuộc thảo luận chính trị và tuyên truyền hiện nay thì người ta có thể nghĩ rằng những người dân Anh, những người không chỉ nói “cái ngôn ngữ mà Shakespeare đã nói” mà còn “giữ lòng trung thực và đức hạnh mà Milton từng giữ” đã hầu như biến mất hoàn toàn rồi[4].
Thật là một sai lầm tai hại nếu tin rằng cách tuyên truyền như thế có thể tạo ra hiệu quả mong muốn đối với kẻ thù, đặc biệt là với người Đức. Người Đức có thể không hiểu rõ người Anh và Mĩ, nhưng cũng đủ để hiểu rằng các giá trị truyền thống đặc thù của nền dân chủ là gì và điều gì đã làm cho tâm trí của hai ba thế hệ gần đây, ở cả hai nước, càng ngày càng trở nên chia rẽ. Nếu chúng ta muốn thuyết phục họ rằng chúng ta không chỉ là những người chân thành mà còn muốn giới thiệu cho họ một sự lựa chọn thay cho con đường mà họ đang đi thì chúng ta không thể nhượng bộ cách tư duy của họ. Chúng ta không thể đánh lừa họ bằng cách lặp lại một cách chán ngắt các tư tưởng của cha ông họ mà chúng ta đã vay mượn như chủ nghĩa xã hội nhà nước, Realpolitik[5], “lập kế hoạch” một cách khoa học, hay chủ nghĩa nghiệp đoàn, Chúng ta sẽ không thể thuyết phục được họ nếu chúng ta tiếp tục lẽo đẽo theo họ trên con đường dẫn tới chế độ toàn trị. Nếu các nền dân chủ tự từ bỏ lí tưởng tối cao là tự do và hạnh phúc cá nhân, nếu họ chấp nhận rằng nền văn minh của họ không đáng được bảo vệ và không thấy có cách nào tốt hơn là đi theo con đường của người Đức thì họ sẽ chẳng có gì để mà giới thiệu cho những người khác. Đối với người Đức thì đây chính là lời thú nhận muộn màng rằng những người theo phái tự do đã hoàn toàn sai và họ đang là người dẫn đường đến thế giới mới, tốt đẹp hơn, dù giai đoạn chuyển tiếp có kinh khủng đến mức nào. Người Đức cũng biết rằng cái mà họ vẫn coi là truyền thống của Anh và Mĩ và những lí tưởng mới của họ là những quan điểm sống trái ngược và không thể dung hòa. Có thể thuyết phục họ là đã chọn sai đường, nhưng chẳng có gì thuyết phục được họ rằng người Anh hay người Mĩ sẽ là những người dẫn đường tốt hơn trên con đường mà nước Đức đã khai phá.
Cách tuyên truyền như thế sẽ chẳng hấp dẫn được những người Đức mà nhất định cuối cùng ta sẽ phải nhờ họ giúp đỡ trong việc tái thiết châu Âu vì các giá trị của họ rất gần với của chúng ta. Nhưng kinh nghiệm lại làm cho họ trở thành những người khôn ngoan hơn và chán nản hơn: họ đã hiểu rằng cả các ý định tốt đẹp lẫn tính hiệu quả của hệ thống đều chẳng thể bảo vệ được sự đúng đắn trong một hệ thống nơi mà tự do và trách nhiệm cá nhân đã không còn. Người Đức và người Ý, đấy là nói những người đã thấm nhuần bài học, muốn trước hết là sự bảo vệ chống lại nhà nước khổng lồ. Họ không cần những kế hoạch đại quy mô nhằm tổ chức lại toàn bộ xã hội, cái họ cần là cơ hội xây dựng lại thế giới nhỏ bé của mình một cách thanh bình và trong tự do. Chúng ta có thể hi vọng vào sự trợ giúp của những kiều dân của các nước từng là đối thủ của chúng ta không phải vì họ tin rằng bị người Anh hay người Mĩ sai bảo thì tốt hơn là bị người Đức sai bảo mà vì họ tin rằng trong cái thế giới, nơi các lí tưởng dân chủ đã chiến thắng, họ sẽ ít bị sai bảo hơn, sẽ được sống trong hòa bình và theo đuổi những mối quan tâm riêng của mình.
Muốn thắng trong cuộc đấu tranh tư tưởng và lôi kéo được những phần tử tử tế trong các quốc gia thù địch thì trước hết chúng ta phải giành lại lòng tin vào những giá trị truyền thống mà chúng ta từng bảo vệ trong quá khứ và phải có đủ dũng khí đạo đức để bảo vệ những lí tưởng mà đối thủ của chúng ta đang tấn công. Chúng ta sẽ giành được niềm tin và sự ủng hộ không phải bằng những lời xin lỗi đáng xấu hổ, không phải bằng những lời bảo đảm rằng chúng ta sẽ cải tổ một cách nhanh chóng, không phải bằng những lời giải thích rằng chúng ta đang đi tìm sự thỏa hiệp giữa các giá trị tự do truyền thống và những tư tưởng toàn trị mới. Không phải là những cải tiến các định chế mà chúng ta thực hiện gần đây, chúng có vai trò nhất định, nhưng vai trò đó thật là nhỏ bé so với sự khác biệt căn bản giữa hai cách sống trái ngược nhau, mà chính là niềm tin không hề lay chuyển của chúng ta vào những truyền thống đã làm cho nước Anh và nước Mĩ trở thành quốc gia của những con người tự do, ngay thẳng, khoan dung và độc lập mới là điều đáng quan tâm.
Chú thích:
[1] Người ta thường nói đến những vụ phá hủy lúa mì hay cà phê... như là lí lẽ chống lại cạnh tranh, nhưng điều này chỉ chứng tỏ sự thiếu trung thực về mặt trí tuệ của lí lẽ đó bởi vì trong nền kinh tế cạnh tranh việc phá hủy như thế chẳng mang lại lợi ích cho ai. Trường hợp ngăn chặn sáng chế phức tạp hơn và không thể thảo luận một cách đầy đủ trong một chú giải. Nhưng để giấu một sáng chế có ích cho xã hội thì cần phải có những điều kiện đặc biệt cho nên khó có thể tin rằng những trường hợp như thế có thể xảy ra.
[2] Có lẽ cần phải nhấn mạnh ở đây rằng dù chúng ta có muốn quay trở lại nền kinh tế tự do nhanh đến đâu, điều đó cũng không có nghĩa là phải dỡ bỏ ngay lập tức các hạn chế thời chiến. Không có gì có thể làm mất niềm tin vào hệ thống tự do kinh doanh hơn là sự mất ổn định gay gắt, dù là ngắn hạn, mà nỗ lực như thế có thể gây ra, vấn đề là chúng ta nhắm đến hệ thống nào trong quá trình khắc phục hậu quả chiến tranh chứ không phải là hệ thống thời chiến phải được chuyển hoá thành các hình thức ổn định lâu dài trong thời bình bằng một chính sách nới lỏng kiểm soát được cân nhắc kỹ lưỡng, điều có thể kéo dài vài năm.
[3] Khi chủ nghĩa xã hội tiến dần đến chủ nghĩa toàn trị thì điều này càng ngày càng trở nên rõ ràng hơn và ở Anh được tuyên bố rõ nhất trong cương lĩnh của chủ nghĩa xã hội mang hình thức mới nhất và toàn trị nhất gọi là phong trào Common-Wealth (Thịnh vượng Chung) do Sir Richard Acland cầm đầu. Đặc trưng chủ yếu của xã hội mới, theo lời hứa của ông này, là xã hội sẽ “nói với cá nhân ‘Đừng có lo chuyện kiếm sống nữa’”. Và hậu quả dĩ nhiên sẽ là “toàn thể xã hội sẽ phải cân nhắc các nguồn lực và quyết định một người có được thu nhận vào làm hay không, làm thế nào, khi nào và theo cách nào” và xã hội sẽ phải “lập ra các trại lao động cho bọn trốn việc với những điều kiện có thể chịu đựng được”. Liệu có ai lấy làm ngạc nhiên không khi tác giả phát hiện ra rằng Hitler chỉ “tình cờ bắt gặp (hay buộc phải sử dụng) một phần nhỏ hay nói cách khác, một khía cạnh của cái mà cuối cùng nhân loại sẽ buộc phải làm? (Sir Richard Acland. Bt., The Forward March (Tiến lên), 1941, trang 127, 126, 135 và 32).
[4] Trong chương này chúng ta đã mấy lần trích dẫn Milton rồi, nhưng thật khó tránh được sự cám dỗ để không đưa ra thêm ở đây một câu nữa, khá thông dụng nhưng bây giờ chỉ có người ngoại quốc mới dám nhắc tới mà thôi: “Làm sao để nước Anh đừng quên rằng đấy là nước đầu tiên đã dạy cho các dân tộc khác phải sống như thế nào”. Đáng chú ý là trong thế hệ chúng ta, cả ở Anh và ở Mĩ, đã có nhiều kẻ phỉ báng Milton, mà đầu sỏ là Ezra Pound, một người đã thực hiện những buổi phát sóng từ Ý trong suốt cuộc chiến tranh hiện nay!
[5] Chính sách chính trị và đối ngoại thực dụng - Tiếng Đức - ND.