ược sự ủng hộ của Mao, đám sinh viên nổi loạn trở lên điên cuồng bỏ trường, xuống đường tìm kiếm nhà những người bị tình nghi có khuynh hướng “tư sản”. Khi Hồng vệ binh bắt đầu đổ xô vào những nhà riêng, tra hỏi chủ nhà, cố tìm tòi lục soát tìm bằng chứng “ghét chế độ xã hội chủ nghĩa” thì cuộc sống yên lành của tôi ở đường Quảng Xương cũng bị đạp vỡ.
Ngay từ lúc bắt đầu, mục đích chính của Cách mạng văn hoá đánh vào tầng lớp trên của hệ thống y tế. Các nhà lãnh đạo của Bộ Y tế bị đấu tố liên tục. Trong khu nhà tôi có ba gia đình thứ trưởng. Sau khi Hồng vệ binh và nhân viên phe phái Giang Thanh trong Tiểu tổ Cách mạngg văn hoá nguỵ trang giả làm Hồng vệ binh đi quấy rối, xông vào khám xét, chúng đóng chiếm luôn khu chúng tôi ở, lôi thốc các thứ trưởng ra đường, vào lục soát, khám xét nhà của họ. Tôi chưa phải là mục tiêu nhưng khu tôi trở nên hỗn loạn, từng đoàn thanh niên trẻ tuổi đi khắp nơi, tung tin cáo buộc vô cớ, mọi người đều bị nghi ngờ. Tôi nơm nớp lo sợ bị lôi đi hỏi cung, đấu tố. Lý Liên yêu cầu tôi đừng về nhà, hãy tạm lánh sống trong Trung Nam Hải. Chừng nào tôi ở gần Mao, bọn sinh viên không thể thọc tay kéo tôi ra được.
Mao cho phép tôi ở lại, ông giao cho tôi và y tá trưởng Ngô Tự Tuấn nhiệm vụ mới. Chúng tôi cần phải đọc tất cả các báo cáo từ khắp nơi chuyển tới tư dinh ông, sàng lọc tin tức, ghi chép, báo cáo những tin chú ý và quan trọng nhất. Khi bùng nổ các hoạt động chính trị trong nước, số lượng thông tin, thư từ chuyển về nhiều đến mức tất cả nhân viên của Mao chắc chắn đọc không xuể, không đủ sức đọc hết.
Tôi vui vẻ đồng ý tham gia. Tất cả các dạng tin tức, nhiều thứ trước đây bí mật, bỗng nhiên lại thành công khai. Thậm chí những tài liệu và văn kiện giải quyết của chính quyền trung ương được các sinh viên - Hồng vệ binh xuất bản. Trong đó chứa những báo cáo từ các cuộc họp ở đó các quan chức hàng cao cấp nhất bị đấu tố.
Đọc các báo cáo về diễn biến phong trào tôi không tham gia, dính líu. Sống ở Trung Nam Hải, hiếm khi có mặt ở nhà, tôi nén chịu, dù rằng chỉ tạm thời, để tránh khỏi nguy hiểm. Tôi đau lòng vì vẻ đẹp của Quảng Xương đã bị phá huỷ nhiều đến thế, nhưng tôi cảm ơn số phận đã mang tôi vào Trung Nam Hải.
Chẳng bao lâu, Trung Nam Hải cũng không còn là nơi an toàn. Mọi người làm việc ở đây đều bị nghi ngờ. Thậm chí Chu Ân Lai cũng không an toàn, bị Giang Thanh và những người đồng loã với bà buộc tội xét lại. Về điều này, tờ Văn Báo đã đăng, trong một bài báo do Ngô Hảo viết, đã giả mạo sử dụng bí danh của Chu, bóng gió ông ly khai Đảng cộng sản. Tôi đi dạo bể bơi trong nhà, Chu đến để thảo luận tình hình đang phát sinh với Mao, đem theo tờ báo có bài đăng về ông. Bài báo được kẻ thù của ông trong Quốc dân đảng viết. Chu vạch ra rằng, trong khi bài được đăng tải ông đã rời Thượng Hải, vì thế không có lý do gì ông là tác giả bài viết. Chủ tịch chưa bao giờ kể với tôi sự kiện bê bối này, nhưng tôi biết, Chu Ân Lai không quên bài báo này đến tận khi chết. Mao hoàn toàn nhất trí với báo cáo của Chu, nhưng nổi giận vì cách làm vô trách nhiệm của các cộng sự vợ ông, Vương Lý và Quan Phương.
Cái chết của Điền Gia Anh gây ra sự đánh giá trái ngược. Nhiều người ở Trung Nam Hải kính trọng, quý mến ông, cái chết của ông làm đau buồn, gây xúc động cho bạn bè. Nhưng Điền chính thức bị dán nhãn kẻ phản bội, tất cả những ai có quan hệ thân thiết với ông đều bị tình nghi. Chu Ân Lai vẫn giữ lòng trung thành với Mao, ông lo ngại ở Trung Nam Hải có thể còn những kẻ phản bội khác giấu mặt, ai đó trong số nhân viên của Điền Gia Anh chuẩn bị phản bội Chủ tịch. Ông chỉ thị Uông Đông Hưng tăng cường các biện pháp an ninh, tiến hành một đợt kiểm tra mới tất cả các cán bộ, nhân viên để đảm bảo độ tin cậy. Uông trao nhiệm vụ cho thuộc hạ của mình, Dư Quan, một người tốt bụng, thông minh. Tất cả những ai có lý do nghi ngờ về sự tin cậy, được đưa vào diện “tầng lớp điều tra”.
Chúng tôi, làm việc ở Trung Nam Hải, được kêu gọi đánh giá thái độ chính trị của mình, phải tố cáo những người có nghi ngờ về Mao chủ tịch, đảng, chủ nghĩa xã hội. Với sự chú ý đặc biệt, người ta để ý tới những người bạn và đồng nghiệp của Điền Gia Anh. Tôi cũng nằm trong số này.
Sau vài tuần, Đổng Bằng, vợ goá của Điền, bị kết tội. Là vợ của kẻ phản bội, người ta liệt bà vào “tầng lớp điều tra”. Nhưng Đổng Bằng tuyên bố, một lòng một dạ trung thành với Mao chủ tịch, giờ đây đảng lại ghép tội, xếp vào “tầng lớp điều tra”. Bà “muốn vạch rõ ranh giới” giữa mình và người chồng “phản bội” Điền Gia Anh, bà một lòng một dạ trung thành với đảng nhưng bị nghi ngờ vì chồng. Chỉ khi nào chứng minh được điều đó, Đổng Bằng mới có thể xoá bỏ được cái nhãn “vợ của kẻ phản bội”. Bà ta xoay ra tố cáo tôi, cách bà ta muốn đổi lại, chứng minh lòng trung thành, sùng kính đảng của bà.
Lời tố cáo của Đổng Bằng mạnh về logic, nhưng yếu về bằng chứng. Bà tố cáo, tôi và Điền Gia Anh rất thân thiết với nhau, thường xuyên trao đổi mọi công việc, nhưng lại không tìm ra bằng chứng cụ thể nào về thái độ, hành vi chống đảng của tôi. Nhưng bà lý luận, nếu Điền Gia Anh là phần tử chống đảng, thì tôi, bạn thân của Điền cũng phải như thế.
Lại một người nữa, Bằng Thanh Thuỷ, thư ký của Điền cũng buộc tội tôi. Khác với Đổng Bằng, anh ta chẳng có chứng cớ gì cả. Anh ta tố cáo về cuộc họp giữa tôi, Uông Đông Hưng và Lâm Khắc, thư ký trước đây của Mao năm 1963, trong thời gian đi công tác trên tầu hoả với Mao, tôi không đồng ý với chính sách đấu tranh giai cấp của Chủ tịch. Tôi không thích chiến dịch “cải tạo xã hội chủ nghĩa” mới. Bằng Thanh Thuỷ thậm chí lại còn trích dẫn lời tôi: “Chủ tịch chẳng muốn nhân dân một ngày được thanh bình. Chúng ta vừa mới bắt đầu sản xuất một lượng đủ nông phẩm để nuôi nhân dân, quyết định của Chủ tịch lại làm đảo lộn mọi chuyện”. Bằng Thanh Thuỷ buộc tội tôi đả kích tính cách Mao, gọi Mao là kẻ đa tình, tán tỉnh ve vãn các cô gái trẻ.
Chính Bằng Thanh Thuỷ chẳng nghe thấy tôi nói những vụ việc như thế bao giờ. Thế nhưng người ta tin lời tố cáo của Bằng. Lâm Khắc, người hay kể các cuộc nói chuyện của chúng tôi với Điền và Bằng. Trong bầu không khí khủng bố chính trị của Cách mạng văn hoá, những lời phát biểu như thế coi như sự thể hiện phản cách mạng. Nếu Giang Thanh hoặc đồng sự của bà biết điều này, tôi chắc là khó thoát khỏi bị tống giam.
Nhưng Uông Đông Hưng bảo vệ tôi. Ông không có cách nào khác. Chính Uông cũng nằm dưới sự nghi vấn chẳng nhẹ chút nào, Hồng vệ binh theo dõi ông và Ban an ninh Trung ương từng cử chỉ, từng hành động. Tôi là phần đầu trong mắt xích dẫn tới ông ta. Uông thường giới thiệu tôi là bác sĩ riêng của Mao, nếu tôi trở thành kẻ phản động, Uông cũng là kẻ phản động. Hơn nữa, Uông có mặt khi tôi nói những điều phản động, tại sao Uông không tố cáo, như thế Uông có dấu hiệu đồng tình và cộng thêm với những lý do khác, cũng sẽ bị kết tội phản động. Nếu tôi bị bắt, người ta sẽ buộc tôi phải thú tội đã tâm sự với các nhân viên của Mao, dĩ nhiên, sẽ truy ra người khác. Tôi sẽ làm luỵ đến Uông, bởi vì chính Uông cũng nói rất nhiều điểm xấu về đời tư của Mao.
Uông không hoảng hốt, bình tĩnh, nói:
- Trường hợp xấu nhất, chúng ta cùng nhau ngồi tù. Trong nhà tù được ăn, sống tự do, chẳng lo gì đến công việc. Việc gì mà phải sợ?
Nhưng giờ đây quyền lực của Uông đối với tôi rất lớn. Cả hai bức thư tố cáo họ giao cho ông. Nếu ông ghét tôi, chuyển thư này cho Giang Thanh hay đồng minh của bà, chắc chắn tôi bị bắt.
Uông không thể đốt nó đi được, người ta theo dõi rất kỹ, nếu đốt thư tố cáo, một bằng chứng khuất tất mà ông dấu kín. Ông giữ thư ở nhà riêng, chỗ thật kín đáo. Uông nói Dư Quan, người chịu trách nhiệm các cuộc điều tra ở Trung Nam Hải, cảnh cáo Bằng Thanh Thuỷ để anh chàng này ngừng mưu đồ tố cáo ngầm.
Đến ngày 7-5-1967, thành lập Trường Cán bộ, hàng triệu cán bộ cộng sản bị dán nhãn “tầng lớp điều tra” được đẩy đến đi lao động khổ sai ở vùng sâu vùng xa, trong số những người Uông đẩy đi có cả Bằng Thanh Thuỷ. Anh ta ở lại đó hơn thập niên, đến năm 1978.
Một vài tháng sau khi tố cáo tôi, Hồng vệ binh thuộc Ban An ninh Trung ương do Uông Đông Hưng lãnh đạo đã hằn học tấn công vào Uông. Bài báo chữ to của nhân viên dưới quyền ông, xuất hiện ở Trung Nam Hải, yêu cầu phải bỏ Uông Đông Hưng vào vạc dầu, hoặc thiêu sống. Đặc biệt dữ dội là bích trương của Trương Trí Thanh, lái xe của Chủ tịch. Nhà của Uông không còn là nơi an toàn nữa. Hồng vệ binh bất kỳ lúc nào cũng có thể xông vào khám xét. Uông cần phải vứt bỏ các tài liệu.
Uông Đông Hưng mang những bức thư, buộc tội chúng tôi, đến nộp Chu Ân Lai, người có thể trở thành mắt xích tiếp theo trong chuỗi xích, và yêu cầu cất giữ chúng.
Chu sợ hãi. Giữ các bức thư như thế này có thể xem như thể cầm than hồng trong tay. Nhưng vị thế của thủ tướng cũng đang lung lay, buộc phải cần sự ủng hộ, bảo vệ Uông Đông Hưng. Chu Ân Lai đã giấu các bức thư trong két sắt, khoá lại. Các bức thư ấy nằm lại ở đó cho tới lúc Chu Ân Lai qua đời vào tháng giêng 1976. Chỉ khi đó Uông Đông Hưng mới lấy lại chúng và đốt đi.
Cuộc tấn công vào Uông Đông Hưng kết thúc nhanh chóng vì Mao yêu cầu phải chấm dứt. Mao nói với tôi: “Hệ thống an ninh không được phép phá huỷ”. Mao lệnh cho Chu Ân Lai, nay đến lượt Chu, yêu cầu không một ai làm việc quanh Chủ tịch được tham gia cuộc Cách mạng văn hoá. Ông cảnh cáo người lái xe, Trương Trí Thanh, phải biết vị trí công tác của Uông Đông Hưng, không ai được làm tổn hại đến người chịu trách nhiệm bảo vệ sinh mạng của Chủ tịch. Mao ra lệnh cho Trương:
- Hãy thông báo chỉ thị của tôi với tất cả nhân viên khác.
Uông nhân cơ hội sử dụng lệnh của Chủ tịch củng cố thêm vị thế trong Ban An ninh trung ương. Tất cả Hồng vệ binh trong cuộc đấu tố kẻ phản quốc đều được gửi vào “Trường Cán bộ 7 tháng 5” ở Giang Tây. Cơ quan Ban An ninh của Uông Đông Hưng là cơ sở duy nhất ở Trung Quốc, không những sống sót qua Cách mạng văn hoá, không bị thiệt hại, mà còn mạnh hơn. Điều này được thấy rõ trong cái nền hỗn loạn chung. Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương đảng không làm việc, nhiều nhà lãnh đạo phải rời khỏi chỗ của mình và bị đàn áp. Sự lộn xộn không trừ cả Quốc vụ viện, do Chu Ân Lai đứng đầu.
Để làm dịu tình, Mao thành lập một Uỷ ban chính trị đặc biệt. Trong Uỷ ban này có sự tham gia của các thành viên bao gồm “Tiểu Tổ Trung ương Cách mạng văn hoá”, cả Chu Ân Lai, Bộ trưởng công an Tạ Phú Trị, Diệp Quần - vợ Lâm Bưu, và Uông Đông Hưng.
Chương 63
Mao cần Uông Đông Hưng, người phụ trách an ninh bảo vệ Chủ tịch, thiếu Uông, Mao không yên tâm. Càng muốn tóm hết kẻ thù, ông càng cảm thấy không an toàn. Sau khi phát hiện khu Hương Cúc, tư dinh trong Trung Nam Hải bị gài “bọ” nghe lén, Mao giờ đây nghi ngờ tới cả nơi ở của mình, sợ rằng khi vắng mặt, lại có thêm “bọ” mới.
Chẳng bao lâu Mao chuyển sang biệt thự thuộc Building I, đồi Châu Xuân ngoài Bắc Kinh. Tôi sống cùng ông, nhưng một vài ngày sau Mao cho rằng chỗ này nhiễm chất độc, yêu cầu chuyển sang nơi khác.
Chúng tôi vào Đào Dư Thái, một khu nhà rộng, nơi chính phủ tiếp khách quốc tế, phía tây Trung Nam Hải., nơi vua chúa ngày xưa thường câu cá. Bây giờ ở đó là cả một quần thể biệt thự, được xây dựng hài hoà trong hàng cây và hồ thả cá. “Tiểu Tổ Cách mạng văn hoá Trung ương” đặt bộ chỉ huy trong khu nhà đó. Giang Thanh, Trần Bá Đạt và một số thành viên khác cũng chiếm vài biệt thự quanh đấy. Mao dọn vào biệt thự số 10. Giang Thanh ở biệt thự số 11.
Tuy nhiên chẳng mấy chốc ở Đào Dư Thái, Mao cũng cảm thấy không an toàn. Ông cho khắp chốn đều nguy hiểm, quyết định quay về phòng 118 trong toà nhà Quốc vụ viện, nơi trong số nhân viên phục vụ có nhiều phụ nữ trẻ, sống tạm ở đó vài tháng. Đến cuối năm 1966, lại quay về Trung Nam Hải, nhưng không về khu Hương Cúc, mà về building nơi ông ở từ năm 1950, nơi có bể bơi trong nhà. Những căn phòng mới xây hiện đại, rộng hơn những căn hộ trước đây, Chủ tịch sống ở đây cho đến trước khi qua đời mấy tuần.
Ngay sau khi quay về Bắc Kinh tháng 7, Mao lại bận rộn với đám phụ nữ, cho phục hồi các buổi dạ vũ, hoà nhạc mà cuộc Cách mạng văn hoá làm gián đoạn. Một tháng sau, Giang Thanh từ Thượng Hải quay về cũng vào khu này sống.
Ông vui vẻ cùng các cô gái thưởng thức những buổi hoà nhạc và vở kinh kịch “Hoàng Đế quyến rũ nữ tỳ”, nhưng Hồng vệ binh xác định đó là kinh kịch phản cách mạng bị cấm. Giờ đây, Giang Thanh nắm quyền điều khiển văn hoá, bà đã thay đổi hoàn toàn. Tôi hoảng lên vì phong cách và trang phục của bà. Giang Thanh mặc bộ quần áo rộng hết cỡ to đến nỗi Mao có thể mặc vừa, đi đôi giầy da cứng, dành cho đàn ông, đế thấp. Giang Thanh trở nên kiêu ngạo theo kiểu nhà độc tài. Trong tay bà là số phận của hàng triệu con người, bà ra những sắc lệnh cứng nhắc, thái quá. Điều lệnh mới, bà không cho phép tổ chức những buổi dạ vũ hội, đến cuối tháng 8, khuyên Mao không tham dự và đuổi bọn đàn bà đi.
- Tôi trở thành sư mất - Mao phàn nàn với tôi ngay sau sự kiện này.
Nhưng sau vài tuần, đám phụ nữ quay về. Phòng 118 lại trở thành tụ điểm vui chơi, giải trí của các cô gái trẻ sống trong các phòng Phúc Kiến, phòng Giang Tây (mỗi tỉnh của Trung Quốc đều có 1 phòng mang tên 1 tỉnh trong khu Đại lễ đường Nhân dân, trang trí theo phong cách địa phương) đến mua vui cho Mao. Ngay cả khi Cách mạng văn hoá đạt tới đỉnh cao và quảng trường Thiên An Môn chìm ngập trong tiếng hò reo, trên đường phố Hồng vệ binh đi tuần suốt đêm, Mao tiếp tục cuộc sống đế vương, vui vầy với đám bạn gái trong cung Hội trường đại biểu toàn quốc, được bao bọc bởi bức tường xung quanh Trung Nam Hải.
***
Những phụ nữ, người trước đây từng gần gũi với Mao, trong thời gian Cách mạng văn hoá bị rơi vào tai hoạ và giờ đây tìm Mao che chở.
Trương Ngọc Phượng là người đầu tiên. Đầu tháng 11-1966, cô đến cổng bảo vệ Trung Nam Hải, mang theo quà biếu Mao, một chai rượu “Mao Đài” và hộp chocolate. Từ lâu Trương không trực tiếp phục vụ Chủ tịch, không có giấy phép ra vào, cô đành gọi y tá của Mao, Ngô Tự Tuấn giúp. Tuy vậy, Trương vẫn thuộc biên chế phục vụ trên đoàn tàu đặc biệt của Chủ tịch. Nhưng từ khi về Bắc Kinh, họ chưa gặp nhau vài tháng. Trương Ngọc Phượng - khi đó mới ngoài hai mươi - đã đi lấy chồng, giờ đây đang rơi vào tai hoạ.
Hồng vệ binh ở bộ phận phục vụ chuyến tầu đặc biệt, lật đổ bí thư đảng cũ, tiếm quyền bí thư. Trương Ngọc Phượng, đảng viên, cô trung thành với bí thư cũ, ủng hộ ông từ lâu nên cũng vào tầm ngắm. Trương mang chút quà lấy cớ đến thăm, mong sao được Mao che chở.
Khi Ngô Tự Tuấn báo cáo về Trương Ngọc Phượng, Mao không những gặp người tình cũ của mình, còn đồng ý giúp đỡ. Mối quan hệ đặc biệt giữa ông và cô nhân viên phục vụ tầu đặc biệt ai cũng biết, nên chẳng ai nghi ngờ khi cô ta quay về kể lại cuộc gặp với Chủ tịch. Khi cô nói với các bạn đồng nghiệp, chính Chủ tịch nói, bí thư đảng uỷ cũ không bị phế truất, người ta phục hồi công tác cho Trương Ngọc Phượng, chẳng ai dám động đến cô nữa.
Lưu, một trong số bạn gái của Mao, làm việc trong Đoàn văn công Không quân, là người tiếp theo đề nghị ông che chở, cũng lại nhờ qua Ngô Tự Tuấn. Lưu đi cùng hai bạn gái. Khi gặp Ngô Tự Tuấn, ba cô gái khóc như mưa. Lưu kể, tổ Cách mạng văn hoá thâu tóm lực lượng không quân. Đơn vị các cô làm ở đó chia thành hai phái: phái nổi loạn, muốn loại bỏ sự lãnh đạo hiện thời của đảng và “phái bảo hoàng”, cương quyết giữ lại sự tồn tại cũ của nó. Trong số thành viên của phái bảo hoàng, có những phụ nữ trẻ này. Tất cả các bạn gái Mao trong thời gian trước đã được kiểm tra cẩn thận về lý lịch cũng như sự trung thành tuyệt đối với đảng.
Khi Hồng vệ binh chiếm lĩnh, nắm quyền kiểm soát, họ quẳng các cô gái ra lề đường không thương tiếc. Gặp Ngô Tự Tuấn, họ đã bị tống khứ ra đường đã 2 ngày nay.
Mao vui vẻ cho gặp cả 3 người, ông bảo:
- Nếu họ không muốn đồng chí, có thể ở lại với tôi. Họ nói đồng chí bảo vệ Hoàng đế phải không? Tốt lắm, Hoàng đế là tôi đây.
Mối quan hệ trước đây với Chủ tịch giúp Lưu rất nhiều. Mao trao đổi với Diệp Quần, trưởng ban Cách mạng văn hoá trong Quân uỷ đừng động đến cô gái này và bạn cô ta. Diệp Quần còn đi xa hơn. Theo gợi ý của bà, Tư lệnh không quân Vương Phú Thắng bổ nhiệm Lưu làm lãnh đạo Uỷ ban cách mạng văn hoá trong đoàn văn công. Từ một cô gái đã bị ném ra hè đường Lưu đã nhanh chóng biến thành người hoạt động nổi tiếng của cuộc Cách mạng văn hoá.
Lưu và các bạn cô từ sau đó thường xuyên viếng thăm Mao. Mao thường một vài ngày tách ra về Đào Dư Thái để thư giãn với họ. Một lần Giang Thanh về Đào Dư Thái không báo trước, làm các cô một bữa lo sợ. Rất may, y tá trường đã kịp báo, họ nhanh chóng tẩu thoát, trước khi vợ Chủ tịch xộc vào phòng ông.
Ngay sau khi xảy ra sự việc, Mao gọi Ngô Tự Tuấn.
- Trong khi lãnh đạo cao cấp muốn gặp tôi, tất cả phải được sự đồng ý của tôi. Vì sao Giang Thanh lại dược ngoại trừ? Nói cho Uông Đông Hưng, ra chỉ thị cho bảo vệ, không cho bất cứ ai vào, khi tôi chưa cho phép.
Từ lúc đó đến khi Mao qua đời, Giang Thanh phải xin phép mỗi khi muốn thăm chồng.
Tình bạn giữa những cô gái này và Diệp Quần phát triển tốt đẹp. Năm 1969, khi Lưu mang thai, Diệp Quần cho là con Mao, thu xếp cho Lưu một buồng dành cho lãnh đạo cao cấp trong bệnh viện đa khoa của không quân, hàng ngày gửi đồ ăn ngon cho Lưu. Khi đứa bé được ra đời, Diệp Quần đến tỏ vẻ thích thú “Thật là tin đáng mừng!” Vợ Lâm Bưu reo lên. “Chủ tịch có một vài con trai, nhưng một số đã chết, còn số đang sống lại bị bệnh tật. Đây mới đích thực thằng bé tiếp tục nối dõi tông đường”. Nhiều người đã tin rằng đứa bé giống Mao như lột.
Tôi và Ngô Tự Tuấn thăm Lưu trong bệnh viện. Cương vị của tôi ở chỗ Mao đòi hỏi tôi phải để ý sức khoẻ cả bạn gái ông. Lưu nghĩ rằng tôi, cũng như Diệp Quần, tin Mao là cha đẻ của đứa bé. Nhưng tôi không kể cho ai biết rằng Mao bị vô sinh, không có khả năng sinh con.