ao đã đến lưu vực sông Hoàng hà, quyết định không lùi bước thêm nữa. Mùa hè năm 1962, Mao thoát khỏi tình thế đơn độc. Trong những tháng tới, ông muốn triệu tập hai cuộc họp đảng quan trọng, tôi biết, tại các cuộc họp đó ông sẽ phản công. Nhưng tôi không rõ ai sẽ là nạn nhân đầu tiên.
Cuộc họp đảng đầu tiên, một cuộc họp tương đối nhỏ, gồm bí thư thứ nhất của các tỉnh, cán bộ cấp bộ trưởng trở lên diễn ra vào ngày 6-8 tại Bắc Đới Hà. Trong cuộc họp, Mao đọc một bài diễn văn: “Giai cấp, thực tiễn và mâu thuẫn”.
Ông đã tốn khá nhiều thời gian biện hộ cho việc dùng lý luận chủ nghĩa Marx công kích chính đảng của ông. Tuy chưa đủ uy lực để ông có thể dễ dàng thanh trừng những chính trị gia cao cấp bất đồng chính kiến. Cũng như tất cả các nhà lãnh đạo Trung Quốc khác, ông phải giành cho được những lý luận chủ nghĩa Marx đứng về phía ông. Bởi vì chỉ có như vậy, mới có thể vận động được quần chúng chống lại những thành viên đáng ghét trong ban lãnh đạo đảng.
Cuộc công kích lần này được đưa ra là sự tồn tại các giai cấp không biến mất một cách đơn thuần chỉ thông qua việc áp dụng chủ nghĩa xã hội. Thậm chí, sau khi quốc hữu hoá tài sản, các giai cấp vẫn tồn tại và cuộc đấu tranh giai cấp vẫn còn tiếp diễn. Theo ông, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, giữa đường lối tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại.
Trong hội nghị lần thứ mười của Uỷ ban Trung ương đảng khoá VIII diễn ra vào mấy tháng sau, Mao tiếp tục triển khai lý luận của mình, ông diễn giải rằng, không những các giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tồn tại, mà cuộc đấu tranh gay gắt giữa tư sản và vô sản sẽ còn kéo dài. “Trong tiến trình lịch sử, từ cuộc cách mạng vô sản đi đến chuyên chính vô sản và trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa cộng sản, thời kỳ này có thể kéo dài hàng thập kỷ hay lâu hơn nữa, cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, giữa đường lối tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiếp diễn”. Nguy cơ phục hồi chủ nghĩa tư bản vẫn đang đe doạ Trung Quốc, vì vậy, người ta vẫn phải tiếp tục tiến hành một cuộc đấu tranh giai cấp không mệt mỏi chống lại nguy cơ này.
Thậm chí, sau đó Mao còn tuyên bố ngay cả bộ máy đảng cũng trở thành nơi ẩn nấp cho bọn tư bản và những thành viên của giai cấp tư sản đã trà trộn vào hàng ngũ của đảng. Cả hai bài phát biểu mang đầy tính thoá mạ, ông công kích mọi phía. Ông đã giáng một đòn chí tử vào tầng lớp trí thức, đòi xét lại thái độ cầu an của Chu Ân Lai và Trần Nghị. Một liên minh giữa những người lao động và trí thức đã quá sớm. Ông nói:
- Đảng ta vẫn chưa giáo dục giới trí thức một cách đúng đắn. Bóng ma tư sản vẫn lẩn quẩn trên đầu, họ vẫn còn ngả nghiêng, chưa kiên định.
Bành Đức Hoài lại bị chỉ trích. Bành đã trình một lá đơn dài xin phục hồi danh dự. Ông bày tỏ sự ủng hộ đối với các công xã nhân dân, quả quyết không hề thành lập một phe phái chống đảng và cũng chưa bao giờ có quan hệ mờ ám với Liên Xô.
Thay vì chấp nhận lá đơn của Bành, Mao lại còn buộc tội ông nặng nề hơn. Lúc này Mao không chỉ buộc tội Bành Đức Hoài đã hợp tác với Liên Xô, thậm chí còn kết tội Bành đã hợp tác với tất cả các lực lượng phản cách mạng trên thế giới trong đó có Mỹ. Theo sự trình bày của Mao, Bành đã âm mưu thành lập một liên minh phản cách mạng, chống cộng toàn cầu. Những bản án đối với Bành Đức Hoài và đồng bọn sẽ không được bãi bỏ. Không lẽ gì lại tha bổng cho kẻ thù.
Tiếp đó, Mao quay sang tấn công Panchen Lama của Tây Tạng, quy kết là “kẻ thù giai cấp”. Dalai Lama, người đứng đầu phần hồn và tôn giáo ở Tây Tạng, đã phải chạy sang Ấn Độ từ năm 1959 sau cuộc thương thuyết không có kết quả giữa chính phủ Trung Quốc và những người đứng đầu Tây Tạng, trong một cuộc nổi dậy đã nổ ra ở Tây Tạng. Cuộc nổi dậy bị đàn áp và Panchen Lama, chỉ nhắc lại những lời nói của các chính trị gia ở Bắc Kinh, trở nên lo sợ, bởi vì theo ông, cái gọi là “cải tổ dân chủ” của Bắc Kinh mang tính chất cực tả. Ông hy vọng, khuynh hướng cực tả ở Tày Tạng có thể sửa đổi được.
Sau đó tới Lý Vệ Hán, Chủ nhiệm Mặt trận thống nhất của đảng, trở thành mục tiêu của Mao. Lý Vệ Hán đã ủng hộ quan điểm của Panchen Lama. Mao chì chiết Lý Vệ Hán là “kẻ đầu hàng”, quì mọp lạy lục lãnh chúa Tây Tạng. Mao còn phê phán Lý Vệ Hán, đã khuyến khích những người lao động và giới trí thức liên minh với nhau. Khi Lý Vệ Hán bị cách chức. Tuy Panchen Lama thoát nạn, nhưng trong thời kỳ Cách mạng văn hoá, ông bị quản thúc tại gia gần 10 năm.
Vương Kính Tiên, Chủ nhiệm Văn phòng đối ngoại của đảng, đề nghị củng cố mối quan hệ với Liên Xô và Đông Âu, đồng thời cắt giảm trợ giúp tài chính cho các đảng cộng sản đang đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh. Mao đánh giá Vương “xét lại”, tước bớt quyền hạn. Tuy Vương vẫn giữ nguyên chức vụ, nhưng quyền hành quan trọng nhất đã được Triệu Nghị Minh thay thế đảm nhiệm.
Dưới con mắt của Mao, thành phần kinh tế tư nhân là một đặc trưng điển hình của chủ nghĩa tư bản vẫn đang thịnh hành ở Trung Quốc, ông chỉ thị phải loại bỏ ngay thành phần kinh tế này. Theo ông, những người ủng hộ thành phần kinh tế tư nhân là bọn tư bản, chúng phải bị đào thải. Ông công kích Đặng Tử Huy và Liêu Lộc Nhuận, hai người chịu trách nhiệm chính sách nông nghiệp. Khi tôi bắt đầu làm việc ở Nhóm Một vào giữa những năm 50. Đặng Tử Huy, Chủ nhiệm Uỷ ban nông nghiệp của đảng, thường được coi người có thái độ ôn hoà nhất trong các chính sách nông nghiệp. Bây giờ ông lại bị vu hữu khuynh, đi ngược lại quyền lại của đảng từ hàng chục năm nay. Liêu Lộc Nhuận bộ trưởng Bộ Nông nghiệp bị đóng dấu “xét lại” khi ông thẳng thắn nói, sự thất bại của Đại nhảy vọt do sai lầm về đường lối, chính sách chứ không phải do thiên tai.
Tăng Huy Sinh, bí thư tỉnh An Huy, cán bộ địa phương đầu tiên mất chức sau cuộc hội nghị. Thế là những thử nghiệm thành công về chính sách nông nghiệp của tỉnh này cũng bị đình chỉ luôn, sản lượng nông nghiệp của cái vùng vốn xơ xác nay càng giảm xuống một cách thảm hại.
Cấp Mẫn - bí thư đảng huyện Linh Hạ thuộc tỉnh Cam Túc, một tỉnh đang tranh giành với An Huy “danh hiệu” tỉnh nghèo nhất Trung Quốc - là người kế tiếp trong danh sách của Mao. Ông đã áp dụng thành công cơ chế kinh tế cá thể và thu hoạch nông nghiệp của tỉnh tăng lên. Vương Phong, bí thư đảng tỉnh Cam Túc cho rằng tình trạng nghèo đói ở Cam Túc do công xã nhân dân và ông hết lòng ủng hộ những thử nghiệm của Cấp Mẫn. Mao buộc tội cả hai đang đi chệch sang con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng chỉ có Cấp Mẫn bị cách chức vào năm 1962. Còn Vương Phong mãi đến tháng 8 năm 1966 mới bị mất chức. Trong thời kỳ đầu của Cách mạng văn hoá. Vương Phong, một trong những người đầu tiên bị Mao quy “xét lại - phản cách mạng”, ông bị đấu tố tàn nhẫn, cuối cùng ông đã phẫn chí quyên sinh.
Mùa thu năm 1962, đánh dấu một bước ngoặt quyết định đối với Mao và đảng cộng sản. Việc Mao cứ khăng khăng trong chủ nghĩa xã hội cũng tồn tại các giai cấp rốt cuộc đã bịt đi những lời nói phải và sự phê bình chính trực. Tinh thần thẳng thắn, lòng can đảm của Hội nghị Bảy nghìn cán bộ giờ đây bỗng biến mất. Những chính trị gia thực lòng vì sự phồn vinh của đất nước, những người từng cho rằng, tốt nhất là trả lại việc tổ chức sản xuất nông nghiệp từ tay cán bộ và hợp tác xã cho nông dân, không dám nói ra ý kiến của mình nữa. Những lập luận của Mao về đấu tranh giai cấp, về mặt lý thuyết đã tạo ra cớ cho mọi cuộc thanh trừng sắp tới mà đỉnh cao là Cách mạng văn hoá năm 1966. Kẻ nào cãi lại lời Chủ tịch, kẻ đó là phản cách mạng, “chạy theo con đường tư bản chủ nghĩa”. Đối với Mao, không có tội nào nặng hơn thế.
***
Tháng 9-1962, sau Hội nghị lần thứ 10 của Uỷ ban trung ương đảng khoá VIII, các cuộc thanh trừng vẫn tiếp diễn, Mao uỷ nhiệm cho Khang Sinh thực hiện việc thanh trừng này.
Khang Sinh đã theo Mao từ hồi còn ở Diên An. Thậm chí người ta còn xì xào, Khang Sinh đã đưa Giang Thanh gia nhập đảng, bố trí cho Giang Thanh ở lại Diên An, nơi bà gặp rồi kết hôn với Mao. Giang Thanh và Khang Sinh đều là người Sơn Đông, quen thân nhau từ trước cách mạng 1949.
Năm 1958, tôi gặp Khang Sinh lần đầu. Sau năm 1949, ông rút khỏi những hoạt động chính trị. Khi đảng cộng sản nắm chính quyền, ông được đưa vào bệnh viện. Mấy năm sau ông ra viện khi kế hoạch Đại nhảy vọt bắt đầu, ông là một trong những người cổ vũ mạnh mẽ cho kế hoạch này. Bạn tôi, bác sĩ từng điều trị cho ông ở bệnh viện Bắc Kinh cho hay, Khang mắc bệnh tâm thần phân lập, nhưng vì sao ông được xuất viện tôi không rõ. Tôi ít quan hệ, cũng chẳng thân thiết, thỉnh thoảng thấy ông đến gặp Mao bàn những chuyện kín đáo. Khang Sinh chẳng vui vẻ, cởi mở, thân thiện như những người lãnh đạo khác thỉnh thoảng đến gặp Chủ tịch.
Trong thời kỳ Cách mạng văn hoá năm 1966, Khang Sinh và Giang Thanh đặc biệt thân thiết, đôi khi họ mời cả tôi cùng đi xem những bộ phim của Mỹ mà Giang Thanh ưa thích. Bà vợ của Mao ngày càng quấn quít với Khang Sinh hơn. Bà hỏi ý kiến, cầu xin những lời khuyên chân thành của ông. Bà gọi ông một cách kính trọng nhất theo lối xưng hô ở Trung Quốc, “Già Khang”. Khang Sinh, người đầu tiên được bà ban cho niềm vinh hạnh ấy.
Tôi thường tìm cách tránh mặt Khang Sinh, bởi vì khi gần ông, cảm thấy có mối đe doạ mà tôi không thể giải thích được. Dáng dấp con người ông thể hiện một kẻ đầy mưu mô xảo quyệt, giả dối. Chỉ cần quan sát ông trong ảnh, người ta cũng cảm nhận được cái gì đó chẳng tốt lành toát ra. Đối với tôi, ông đại diện cho “mặt tối” của đảng, sẵn sàng làm tất cả những việc bẩn thỉu người ta sai khiến. Tôi không muốn dính vào những việc đó và Mao chẳng cần đến tôi. Cho nên, có nhiều vụ việc tôi không hề hay biết.
Sau hội nghị lần thứ 10, Khang Sinh tích cực hoạt động chính trị. Hồi đó Mao công kích cả phó thủ tướng Tập Trọng Huân, người đã ủng hộ những nỗ lực phục hồi của Cao Cương, kẻ có thái độ thù địch với đảng. Thế rồi Khang Sinh được giao trách nhiệm điều tra “âm mưu chống đảng của Tập Trọng Huân”. Cuộc điều tra của Khang Sinh đã động chạm đến hơn 300 cán bộ đảng viên trong chính phủ và quân đội, trong sổ đó có cả Giả Thác Phủ, Uỷ viên trung ương đảng, Mã Văn Nhuệ, bộ trưởng Bộ Lao động và Bái Kiến, thứ trưởng thứ nhất Bộ công nghiệp và xây dựng.
Tôi quen Tập Trọng Huân, hiểu rằng những lời buộc tội ông và những người ủng hộ ông chỉ là bịa đặt. Nhưng nhiệm vụ Khang Sinh phải loại bỏ, tiêu diệt các đồng chí của mình. Những cuộc “điều tra” cán bộ lãnh đạo triền miên của Khang Sinh trong thời gian đầu thập kỷ 60 đã dọn đường cho cuộc Cách mạng văn hoá sau này. Ngay sau hội nghị lần thứ 10 ít lâu, các cuộc điều tra đã tìm được những nạn nhân đầu tiên. Trước tiên là phó thủ tướng Tập Trọng Huân bị đày đi Hà Nam, sau đó bị quản thúc tại gia. Mãi đến năm 1980 ông mới được phục hồi danh dự. Rất nhiều người trong số hơn 300 cán bộ bị kết án oan và cũng phải chịu những số phận tương tự.
***
Sau hội nghị lần thứ 10, Mao tìm cách thiết lập lại sự kiểm soát các vùng nông thôn bằng cách ngăn chặn, chấm dứt xu hướng kinh tế cá thể, ông cho đó là sự hồi sinh của chủ nghĩa tư bản. Quá trình này tiến triển rất chật vật, chậm chạp, câu hỏi tại sao Đại nhảy vọt thất bại đã chìm vào quên lãng. Mãi đến tháng 5 năm 1963, trong một cuộc họp Bộ chính trị và các bí thư đảng địa phương ở Hàng Châu, Mao mới dứt điểm được. Trong cuộc họp, “Nghị quyết về các vấn đề nông nghiệp hiện nay” được thảo luận và ban hành. Trong nghị quyết có nói, những thế lực phong kiến và tư bản đang tìm cách trở lại ở nông thôn. Việc này sẽ dẫn đến một cuộc đấu tranh giai cấp khốc liệt. Để giải quyết vấn đề, Mao đề nghị phát động một “chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa” ở nông thôn. Phải tìm ra kẻ thù giai cấp, đưa ra luận tội, cán bộ đảng viên địa phương và nông dân phải được giáo dục, rèn luyện về chủ nghĩa xã hội và đấu tranh giai cấp.
Do sự cách biệt trong cái kén của Nhóm Một, ngoài sự thật Đại nhảy vọt đã gây ra những hậu quả lại hại và chỉ khắc phục được nạn đói một cách chậm chạp ra, tôi chẳng biết gì nhiều về tình hình ở nông thôn. Tôi cũng chẳng hiểu ý nghĩa của chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa của Mao. Sau cuộc họp ở Hàng Châu vào tháng 5 năm 19ó3. khi chúng tôi lại ngồi trên đoàn tàu đặc biệt, tôi hỏi Uông Đông Hưng và Lâm Khắc - người mà chỉ một thời gian sau vĩnh viên phải rời khỏi Nhóm Một - về cách làm này của Mao. Vừa mới cải tổ thành công các công xã nhân dân và nông dân trở về với việc phân chia lao động hợp lý hơn, bây giờ Mao lại muốn làm đảo lộn tất cả. Ông kêu gọi cán bộ ở thành phố xuống làng xã để kiểm tra tình hình kinh tế, tài chính của các công xã nhân dân. Người ta ngờ rằng, trong thời gian đói kém nhiều cán bộ địa phương đã ăn hối lộ. Cán bộ ở thành phố về nông thôn, một mặt để có thể cảm thông với điều kiện sống khắc nghiệt. Mặt khác, với tư cách những thanh tra từ nơi khác đến, họ có thể phát hiện ra những thủ thuật gian trá trong công tác kế toán, phân phối lương thực, phân chia sở hữu và trả lương cho các thành viên của công xã.
Lý Liên được cử đi trong một đoàn công tác đầu tiên về nông thôn. Vì thế, lập tức chiến dịch này ảnh hưởng trực tiếp đến tôi. Sau khi Lý Liên đi, còn lại mình tôi với hai thằng con, John đang học lớp sơ-trung, Erchong lớp mẫu giáo. Một mình tôi không thể nào chăm sóc được hai đứa bé, bởi vì lúc nào tôi cũng phải túc trực bên Mao. Nếu Mao quyết định đi công du, không biết sẽ ra sao đây?
Việc người ta cử Lý Liên, con gái của địa chủ, về nông thôn để “giáo dục xã hội chủ nghĩa” liệu có hàm ý gì không? Cô không những không phải là đảng viên cộng sản mà gia đình cô còn bị coi là kẻ thù giai cấp. Có ích lợi gì khi cô đi thanh tra và giáo dục những kẻ thù giai cấp khác?
Vậy mà khi tôi tìm cách trì hoãn quyết định này, ông viện trưởng Viện nghiên cứu Tây Á và châu Phi thuộc Viện hàn lâm khoa học xã hội Trung Quốc, nơi Lý Liên làm việc với tư cách nghiên cứu sinh, đã giải thích với tôi rằng, Lý Liên được cử về nông thôn chính vì lý lịch gia đình “xấu”. Nếu cô được chứng kiến những người như cô bị giáo dục như thế nào, cô sẽ có thể tự sửa đổi được nhận thức của mình.
Cuối tháng 9-1963, Lý Liên đi công tác. Tôi phàn nàn với Uông Đông Hưng:
- Cấp trên đòi hỏi chúng tôi ngày đêm phải làm việc hết sức mình, nhưng họ chẳng màng đến những vấn đề cá nhân của chúng tôi. Đó đâu phải là cách đối xử của cấp trên đối với cấp dưới.
Uông Đông Hưng đã đề nghị với Ban y tế trung ương về việc này, ngầm cho thủ trưởng của Lý Liên biết, tôi là bác sĩ riêng của Mao. Lập tức Lý Liên được trở về.
Cả Lưu Thiếu Kỳ cũng gặp rắc rối với chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa. Ông đã tự sửa đổi nghị quyết về các vấn đề nông thôn của Mao, đưa ra những lý luận riêng với bản “Dự thảo phương hướng thực hiện một số biện pháp đặc biệt liên quan đến phong trào giáo dục xã hội chủ nghĩa ở nông thôn”. Trong hội nghị Trung ương đảng vào tháng 9 năm 1963, những đề nghị của Lưu được đưa ra thảo luận. Mao cảm thấy bị xúc phạm. Ông lên án Lưu đã phá hoại những nỗ lực phát động đấu tranh giai cấp của ông. Nhưng theo tôi, Mao khó chịu với nội dung của bản dự thảo được thảo luận trong tháng 9 của Lưu sau này được gọi là “Dự thảo 10 điểm thứ hai” thì ít, mà ông cảm thấy bất bình việc Lưu thường tung ra những đề nghị mới làm cho ông bực mình nhiều hơn. Lúc nào Mao cũng tự cho mình có lý.
Vượt lên tất cả các vấn đề, Mao cảm thấy bị súc phạm khi Lưu thành lập chính quyền riêng. Trong việc dám đánh giá giải pháp của Mao, một lần nữa chứng tỏ Lưu đã nắm quyền điều hành trung ương. Mao chỉ cho phép ông, một mình ông thôi, là trung tâm, là hạt nhân duy nhất. Không bao giờ có hai trung tâm.
Nỗi bực tức của Mao đối với Lưu Thiếu Kỳ tăng lên, khi Lưu cử vợ, Vương Quang Mỹ, phụ trách nhóm công tác về công xã “Vườn Đào” vào năm 1964 để xem xét tình hình ở đó. Việc Vương Quang Mỹ về nông thôn hoàn toàn không có gì khác với những cán bộ được điều từ Bắc Kinh. Tuy nhiên. về việc này Mao lại cáu bẳn, vì người ta đã đề cao chuyến đi của bà, rằng việc bà báo cáo những gì bà đã mắt thấy lại nghe trong một cuộc họp của các cán bộ cao cấp sau khi bà trở về, nhằm mục đích đưa đội công tác trở thành một hình mẫu cho các đội công tác sau này. Mao nghi ngờ Lưu đã chuyển giao quyền lực cho vợ. Mao không hề thấy dễ chịu khi hai người đã qua mặt. Lúc đó tôi có cảm giác, mục tiêu công kích của Mao nhằm vào những người như Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình. Tuy nhiên, Mao hiện đang tiếp tục công việc tảo thanh những cán bộ cấp dưới và tạm thời chưa động đến những cán bộ lãnh đạo cao cấp khác.
Trong khi Mao chỉ trích Lưu, đã dành cho vợ một vai trò chính trị tích cực, mỉa mai thay, Mao cũng giao cho Giang Thanh những nhiệm vụ chính trị mới quan trọng.