Mao muốn trở lại Moskova. Chiến dịch chống hữu khuynh vẫn diễn biến tốt đẹp, Chủ tịch rất phấn khởi. Toàn dân tỏ ra đoàn kết một lòng, lạc quan chưa từng thấy. Chủ nghĩa xã hội đang được triển khai cả nông thôn lẫn thành thị, cuộc cách mạng tiến triển thuận lợi. Mao có thể tới Moskova với danh nghĩa một người thắng cuộc, một người nước ngoài với tư cách một nhà lãnh đạo lâu năm nhất của thành trì cộng sản, người dẫn đầu một đoàn đại biểu khổng lồ, một đối thủ và là một người tuyên chiến đối đầu với Khrushchev.
Theo kế hoạch, chúng tôi lên đường vào ngày 2-11-1957.
Tôi lo chuẩn bị mọi mặt về y tế cho chuyến đi. Phó ban y tế trung ương đảm nhận việc chăm lo sức khoẻ thành viên trong đoàn đại biểu, trong khi đó tôi đến Moscow với tư cách bác sĩ riêng của Chủ tịch.
Giang Thanh đề nghị cho cả Lưu Huệ Mẫn đi theo, người đã điều trị cho Mao ở Thanh Đảo. Như thế đây là dịp đền đáp sự phục vụ trước đây của ông, ngoài ra sự có mặt của ông ở Moscow cũng chứng tỏ Chủ tịch, một người khuyến khích nền y học cổ truyền Trung Quốc. Sự cảm kích lúc đầu của bác sĩ Lưu nhanh chóng chuyển thành lo ngại. Ông rất sợ cái lạnh của Moscow, trong khi tôi không dám cam đoan khu nhà ở có đủ ấm hay không. Tuy bác sĩ Lưu ít hơn Mao vài tuổi nhưng sức khỏe kém, giống như các ông già khác, ông sẽ bị mất mặt nếu bị cảm lạnh ở Moscow. Thật là nhục nếu Chủ tịch ốm và ngay cả bác sĩ điều trị cho Chủ tịch cũng ốm luôn. Bác sĩ Lưu cũng sợ những chiếc áo bành-tô đồng phục nhồi bông phát cho mọi thành viên trong đoàn đại biểu sẽ không đủ ấm, ông muốn có một áo bành-tô lông, một cái mũ lông. Lưu đã cảm thấy nhẹ nhõm ra mặt khi Diệp Tử Long, người phụ trách hậu cần đã đáp ứng yêu cầu của ông.
Thế rồi, ông Lưu bắt đầu nghĩ đến cách chăm sóc sức khỏe cho Mao. Ông yêu cầu phải được trang bị đầy đủ dụng cụ và thuốc đề phòng tất cả những trường hợp có thể xảy ra, vì ở Liên Xô không có những loại thảo dược Lưu cần khi Chủ tịch ốm. Thảo dược của ông chất đầy ba cái thùng lớn, nhiều đến mức tuy đã được niêm phong ấy thế mùi hăng hắc của thảo dược vẫn bốc ra. Không những thế, bác sĩ Lưu lại nhất quyết yêu cầu đòi mang những thùng đó lên máy bay.
Chúng tôi phải điều đình và thoả thuận với nhau, bác sĩ Lưu chỉ mang theo lên máy bay một lượng thảo dược đủ dùng cho một tuần, còn ba chiếc thùng cũng như chiếc nồi đất để sắc thuốc sẽ được gửi sang Moscow trước trong một chuyến tàu hoả chở đầy tặng phẩm.
Chúng tôi cần một y tá để chăm sóc Mao trong trường hợp khẩn cấp. Tôi chọn Ngô Tự Tuấn – vợ Hứa Đạo – y tá trưởng giàu kinh nghiệm nhất mà tôi biết. Tuy nhiên Diệp Tử Long muốn cử một trong những y tá mà năm ngoái đã đưa Giang Thanh sang Moscow. Như vậy sẽ tiết kiệm được, vì đảng phải cung cấp quần áo mùa đông cho các thành viên trong đoàn, còn người y tá hộ tống Giang Thanh trước đây đã có sẵn quần áo. Nhưng ngược lại, cô ta không được đào tạo về y khoa. Lần này Giang Thanh ủng hộ tôi một cách bất thường, nói: “Một y tá giỏi cho Mao chủ tịch quan trọng hơn nhiều so với việc tiết kiệm một chút tiền bạc”. Thế là Ngô Tự Tuấn được bổ nhiệm vào nhiệm vụ này.
Liên Xô cũng cử một bác sĩ để chăm sóc sức khoẻ Chủ tịch trên đường tới Moskova. Tôi phải tiếp đãi ông khách này trong thời gian ngắn ngùi ông lưu lại ở Bắc Kinh. Y tá trưởng, tôi và Lại Chu Liệt, phụ trách tài khoản đặc biệt của Trung Nam Hải đã dẫn ông ta tới Tư Đắc Quán, nhà hàng nổi tiếng món vịt Bắc Kinh quen thuộc. Vị bác sĩ này tỏ ra rất thích những món ăn Trung Hoa cùng rượu mạnh Mao Đài. Lúc đưa ông về sứ quán Liên Xô, tuy đã chếnh choáng, nhưng cũng rất mừng rỡ khi tôi tặng thêm cho ông một chai Mao Đài nữa.
Liên Xô dành cho chuyến bay chúng tôi hai chiếc máy bay Tu-104. Mao, Tống Khánh Linh, ông bác sĩ người Nga và tôi đi trên một chiếc, những người còn lại trong phái đoàn đại biểu khổng lồ của Trung Quốc đi chiếc thứ hai. Các chiêu đãi viên hàng không mang tới cho chúng tôi món trứng cá muối caviar, cá, khoai tây rán và sandwiches trong các chặng nghỉ để tiếp nhiên liệu giữa đường có quầy buffets nhiều món ăn cho đoàn. Mao chẳng giấu giếm mối ác cảm đối với những món ăn của người Nga, ông bảo: “Tôi chẳng thích món nào cả”. Ngay lúc mới khởi hành, ông bác sĩ Nga đã uống rất nhiều vodka, ông nói về tác hại của hút thuốc và lợi ích của uống rượu. Chặng đường còn lại của chuyến bay ông dành cho giấc ngủ để tỉnh rượu.
Nikita Khrushchev đón chúng tôi ở sân bay. Cùng đi với ông có Nikolai Bulganin, một người có bộ râu xồm đáng kính, có vẻ mặt u sầu và người bạn cũ của tôi, Anastas Mikoyan. Mikoyan chào đón tôi rất nồng nhiệt bằng tiếng Nga, vì không có phiên dịch nên tôi chẳng hiểu gì cả. Hình như ông ta nói gì đó về phương pháp điều trị bằng châm cứu mà tôi đã giới thiệu cho ông trước đây. Người phụ nữ duy nhất của Ban tiếp tân, bà Bộ trưởng Bộ văn hoá Yekaterina Furtseva, một phụ nữ trông rất khả ái, trạc 50 tuổi. Tôi không hiểu vì sao bà đi đi lại lại có vẻ tất bật như vậy.
Phái đoàn Trung Quốc, phái đoàn quan trọng nhất trong 64 đoàn đại biểu. Khrushchev tiếp Mao rất thân mật, đầy vẻ kính trọng. Ông đích thân đưa Mao vào nơi làm việc của mình trong điện Kremlin, mời Mao sau hội nghị có thể đi nghỉ lại ở một nhà nghỉ tại Moscow, hoặc đến bãi tắm Sochi bên bờ Biển Đen. Mao từ chối và ngay từ đầu đã tỏ ra thận trọng và lạnh lùng đối với Khrushchev. Ông vẫn còn tức việc Khrushchev đã phê phán Stalin. Gần như ngay sau khi chúng tôi đặt chân đến Moscow, Mao đã bắt đầu châm chọc người lãnh đạo đảng cộng sản Nga này. Khi chúng tôi đi từ sân bay vào thành phố, cũng giống như tôi, Mao nhận thấy dân chúng trên đường phố có vẻ chán chường, thiếu thiện cảm. Ngược hẳn với ở Trung Quốc, nơi mà lòng nhiệt tình cách mạng vẫn hừng hực dâng cao. Mao nói:
- Với chiến dịch chống Stalin, Khrushchev đã đánh mất đi sự ủng hộ của dân chúng. Chẳng có gì lạ khi người dân ở đây đã mất hết nhiệt tình.
Người ta chuẩn bị cho Mao và những người tuỳ tùng của ông cực kỳ kỹ lưỡng. Đó là một lâu đài, nơi ở của hoàng hậu Katharina trước đây với những hành lang tạo thành những mê cung rộng lớn và những căn phòng gọn gàng, được trang trí bằng những đồ cổ cực quí. Dưới sàn là những tấm thảm nhung dày, trên trần cao có treo những chùm đèn sáng lấp lánh, còn những bức tường được trang trí bằng những bức tranh chân dung. Mao ở trong căn phòng lộng lẫy nhất là phòng ngủ của hoàng hậu Yekaterina. Căn phòng đó khá rộng và được bày biện tuyệt đẹp. Lần này, tuy không mang theo chiếc giường gỗ riêng của ông, nhưng vẫn khăng khăng dùng chiếc bô riêng, mặc dù đã có cầu tiêu xả nước ngay bên cạnh phòng tắm.
Diệp Tử Long, Vương Kính Tiên, Lâm Khắc, Lý Ẩm Kiều, vệ sĩ Tiểu Trương, hai người dầu bếp và tôi cùng ở với Mao trong lâu đài. Những thành viên còn lại trong đoàn đại biểu, trong đó có nhiều vị lãnh đạo đảng và chính phủ như Tống Khánh Linh, Đặng Tiểu Bình. Bành Chân, Bành Đức Hoài, Lỗ Đình Nghị, Dương Thượng Côn, Trần Bá Đạt, Hồ Kiều Mục cũng như những người hộ tống khác ở các khách sạn hoặc chia nhau ở trong sứ quán Trung Quốc. Tôi hầu như chẳng gặp họ. Lâm Khắc và tôi cùng ở trong một căn phòng thuộc một phần lâu đài. Tuy căn phòng này không lộng lẫy như phòng của Mao, nhưng cũng rất sang trọng. Người ta luôn luôn mang tới cho chúng tôi nào táo, cam, sô-cô-la, nước cam, nước khoáng và thuốc lá. Rất nhiều rượu, đủ các loại, còn món ăn thật tuyệt vời.
Mao rất phấn khích, sôi nổi, vui vẻ. Tuy chẳng thèm để ý đến sự xa hoa bao quanh, nhưng lại rất lưu tâm đến thái độ ân cần người ta dành cho ông và các đại biểu Trung Quốc. Ông so sánh rất sắc xảo với những gì đã chứng kiến vào năm 1949, khi ông sang hội đàm với Stalin. Ông châm biếm với nụ cười khinh bỉ:
- Các đồng chí thấy, bây giờ người ta tiếp đãi mình như thế đấy. Ngay tại đất nước cộng sản này, người ta cũng phân biệt rõ, ai là người có thế lực và ai là người yếu hèn. Đúng là bọn trưởng giả học làm sang!
Một lời nhận xét thật chua cay, tôi không thể tin được Mao có thể nặng lời như vậy.
Chúng tôi viếng lăng Lenin, đặt vòng hoa trước quan tài kính của Lenin và Stalin, một cảm giác bâng khuâng ập đến tôi. Thi hài của hai nhà lãnh đạo Liên Xô trông nhăn nhúm và khô khốc. Sau này tôi được biết chân tay của họ đã bị thối rữa, thay thế bằng sáp. Hồi đó tôi không thể ngờ rằng 20 năm sau tôi phải điều hành một nhóm bác sĩ bảo quản thi hài Mao.
Mao tỏ ra ít để tâm đến phong tục tập quán văn hoá Nga. Ông ngồi ăn một mình, thậm chí còn tách ra khỏi các thành viên trong đoàn đại biểu Trung Quốc. Trong mỗi bữa ăn. Ông có thể thoải mái chọn các món ăn từ vô số các món ăn Nga và Trung Quốc. Người ta đã điều cho ông hai đầu bếp Nga và một trong hai đầu bếp riêng của ông cũng rất thành thạo nghệ thuật nấu ăn phương Tây. Tuy vậy, Mao vẫn chỉ ăn những món ăn của Hồ Nam quê hương, do người đầu bếp mà ông ưa thích nấu. Tôi cũng hiểu được sự ưu ái ông dành cho các món ăn Trung Quốc, bởi vì chúng tôi cũng không thấy ngon miệng khi phải ăn những món ăn nặng nề của Nga. Bởi vậy, khi ông mời tôi đến ăn cơm vào buổi tối, tôi đã ăn rất thích thú, mặc dù tôi mới vừa ăn các món ăn Nga. Mao trêu tôi: “Tôi không nghĩ đồng chí vừa mới ăn xong”.
Một lần Mao đã vô tình động chạm vào đời sống văn hoá Nga một cách đáng xấu hổ trong chuyến viếng thăm này. Khrushchev đưa ông đi xem buổi trình diễn vũ ba-lê vở Hồ thiên nga. Tôi cũng đi theo và ngồi với hai chính trị gia này ở lô riêng của Khrushchev. Chúng tôi đến muộn, khi hồi thứ hai bắt đầu mở màn, Mao đã tỏ ra chán ngán. Từ trước tới nay Mao chưa bao giờ xem múa ba-lê của phương Tây và chưa ai chuẩn bị trước cho Mao, cho nên ngay từ đầu buổi diễn ông đã ngán ngẩm. Ông nói với Khrushchev:
- Tôi chịu không nhảy được như vậy? Toàn bằng đầu ngón chân. Thế còn đồng chí?
Nhà lãnh đạo Liên Xô cũng quả quyết là ông không thể nào nhảy bằng đầu các ngón chân như thế được. Hết hồi thứ hai Mao nói ông muốn về.
Mao quay sang hỏi tôi:
- Tại sao trong khi nhảy họ lại nhún trên các đầu ngón chân nhỉ? Thật là nực cười. Sao họ không nhảy như những người bình thường?
Tôi đoán rằng, Mao cố tình không đánh giá cao nền văn hoá Nga. Ông khoái chí khi chê được Khrushchev và những khiếm khuyết của Liên Xô.
Tới khi chúng tôi đến thăm lưu học sinh Trung Quốc đang học tại trường Đại học tổng hợp quốc gia Moskova mang tên Lomonosov, mới thấy Mao có vẻ quan tâm đôi chút. Bữa ăn trong các nhà ăn sinh viên ở đây khá hơn nhiều so với cơm rau đạm bạc bình thường của sinh viên ở trong nước. Các cư xá sinh viên ở Moscow cũng đầy đủ tiện nghi hơn hẳn ở Trung Quốc. Ở đây cứ hai sinh viên ở trong một phòng. Còn ở Trung Quốc, căn phòng này đủ cho tám người ở. Mao nói: “Chúng ta không thể so bì được”.
Thường thường, ban ngày ông tham gia các cuộc gặp mặt. Tối đến ông ở trong phòng một mình. Vì vậy, các thành viên trong ban tham mưu của ông có rất nhiều thời gian rảnh rỗi. Có lần, tôi và Lâm Khắc đi xem chương trình ca nhạc dành cho các đoàn đại biểu nước ngoài chúng tôi rất ưa thích. Những buổi tối, chúng tôi thường vào rạp chiếu phim trong lâu đài xem phim của Mỹ nói về cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Bộ phim chúng tôi thích là The Great Waltz. Hán Tự, nhân viên bộ ngoại giao, sau này làm đại sứ ở Hoa Kỳ, sợ việc chúng tôi chỉ thích xem phim Mỹ sẽ xúc phạm nước chủ nhà. Do đó, chúng tôi không xem phim Mỹ nữa, xem phim Liên Xô. Tôi xem bộ phim mới công chiếu dựa theo tiểu thuyết Sông Đông Ếm Đềm của Sholokhov nói về thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh Thế giới thứ nhất và cuộc Cách mạng tháng Mười. Bộ phim chẳng có phụ đề chữ Trung cũng như chữ Anh, tôi lại chẳng hiểu tiếng Nga, nên nản chí không đủ kiên nhẫn xem tiếp.
Toàn đoàn được chủ nhà đặc biệt quí trọng. Chúng tôi mang theo rất nhiều tặng phẩm: một chiếc tàu chạm bằng ngà voi quí hiếm, những bình hoa bằng gốm, những lá cờ của quốc tế cộng sản làm bằng vàng lá dành cho các cán bộ cao cấp và một số lượng lớn thuốc lá Trung Quốc và rượu Mao Đài dành cho các nhân viên. Ngay sau khi đến nơi. chúng tôi bắt đầu phân phát tặng phẩm. Rồi người ta gõ cửa phòng chúng tôi vào ban đêm để xin thêm quà. Những tặng phẩm quí đã làm cho người ta ngộ nhận rằng, các bác sĩ Trung Quốc rất có uy tín và thu nhập rất cao. Có lẽ đó cũng là nguyên nhân khiến một cô hầu phòng đã có tình ý với tôi. Lâm Khắc thấy người cô gái này đặc biệt cẩn thận khi dọn giường cho tôi. Sau đó thông qua anh phiên dịch Nhan Minh Phục, cô biết muốn cặp bồ với tôi và thậm chí còn sẵn sàng theo tôi về Trung Quốc. Nhan Minh Phục thay mặt tôi đã từ chối và đoàn chúng tôi được một trận cười vui vẻ.
Khi thời gian ở Moskova sắp hết, Lại Chu Liệt, trưởng phòng chi tiêu đặc biệt đề nghị tôi cùng với một phiên dịch của sứ quán Trung Quốc đến cảm tạ ông bác sĩ đã tháp tùng Mao đến Moskova. Ông bác sĩ này có một căn hộ trải thảm rộng rãi, bày biện đồ gỗ khá đẹp.
Ông mừng rỡ khi chúng tôi tới thăm và tiếp đãi rất ân cần. Khi chúng tôi trao quà tặng cho ông gồm hai chai Mao Đài và một số thứ lặt vặt, ông có vẻ bối rối, đi tới đi lui. Cuối cùng, ông rút ra ba tờ một trăm rúp đưa cho chúng tôi mỗi người một tờ. Tôi ngượng quá, không muốn nhận, nhưng Lại giật tiền từ tay tôi và nhét vào túi. Trên đường về Lại giải thích, tất cả những tặng phẩm dành cho phái đoàn Trung Quốc là sở hữu của nhà nước.
Ngày 7-11-1957 có cuộc diễu hành nhân dịp 40 năm ngày Cách mạng tháng Mười. Tất cả chúng tôi đều tham dự. Mao đứng với Khrushchev trên lễ đài cao của lăng Lenin. Tôi đứng ngay cạnh lăng, cạnh tôi là Tổng bí thư đảng cộng sản Estonia. Ông đã ở Anh vài năm, nói tiếng Anh tuyệt vời. Ông nói rằng, hy vọng sẽ có ngày ông được đến Trung Quốc, một đất nước xa xôi, huyền bí.
Các cuộc diễu hành của chúng tôi vào ngày 1 tháng 5 và ngày 1 tháng 10 cũng dập khuôn Liên Xô. Trong khi đó, tôi đã thấm mệt không thể nán lại xem các cuộc duyệt binh tốn kém, lãng phí. Ngay Quảng trường Đỏ có con đường lát đá, với những tháp đường và các cung điện cũng chẳng khuyến rũ tôi. Hai năm sau, quảng trường Thiên An Môn được mở rộng nhân dịp kỷ niệm 10 năm Cách mạng Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng Trung Quốc đang chạy đua với Liên Xô xây dựng một quảng trường lớn nhất thế giới.
Mặc dù bất đồng với Khrushchev, sự kiện Hội nghị Moskova và Bản tuyên bố chung cũng tác động tới Mao. Mao nói:
- Năm 1848 Marx và Engels ra bản Tuyên ngôn Cộng sản và phát động phong trào cộng sản toàn cầu. Bây giờ, hơn 100 năm sau, bản Tuyên bố chung ở Moskova đã đúc kết những kinh nghiệm của phong trào, vạch ra những triển vọng cho tương lai.
Mao lạc quan nhìn về tương lai và cũng tự cảm thấy phấn khởi qua những tiên đoán trong bài phát biểu của mình. Trước đông đảo các đại biểu. Mao tiên đoán rằng, trong vòng 15 năm tới, Liên Xô sẽ vượt Mỹ về công nghiệp luyện kim và những ngành công nghiệp quan trọng khác. Cũng trong thời gian đó, Trung Quốc sẽ vượt Anh. Mao quả quyết trong vòng 15 năm tới, hệ thống kinh tế cộng sản sẽ vượt hết các nước tư bản và tình hình thế giới sẽ chín muồi cho một cuộc cách mạng cộng sản.
Mao coi ngành luyện kim là chủ đạo, quyết định việc phát triển kinh tế và cho rằng Trung Quốc cần phải tăng sản lượng thép. Ông chấp nhận cuộc chiến tranh lạnh, chính sách hiếu chiến của bộ trưởng ngoại giao Mỹ Dulles và những căng thẳng quốc tế: “Những căng thẳng quốc tế chỉ có lợi cho chúng ta, đất nước chúng ta càng chóng thống nhất. Chừng nào những kẻ khác còn mài kiếm, chừng ấy tôi chưa thể yên tâm”.
Sau này, qua hồi ký của Khrushchev tôi biết rằng, ông ta rất lo ngại trước bài phát biểu vô trách nhiệm của Mao vào tháng 11-1957 ở Moscow. Mao nhìn thế giới như ếch ngồi đáy giếng. Việc ông quả quyết trong vòng 15 năm tới các nước cộng sản sẽ vượt các nước tư bản là hoàn toàn thiếu cơ sở. Và việc tán thành tiếp tục duy trì tình hình căng thẳng trên thế giới trong thời đại nguyên tử là một sự mạo hiểm. Bài phát biểu của Mao cũng chẳng hơn gì những câu chuyện phiếm rỗng tuếch trong các cuộc tán gẫu ban đêm của chúng tôi. Ông đang ôm ấp một chiến lược mới. Sáng kiến “Đại nhảy vọt” – một chiến dịch mang tính chất chính trị bất hạnh nhất của Mao đã ra đời.