Sau khi Mao quyết định trả đũa, ông đã nhanh chóng bình phục. Bệnh cảm đã khỏi hẳn, tinh thần và thể lực trở lại bình thường. Trên đường, Mao và Lâm Khắc đã dành nhiều thời gian trò chuyện với nhau. Những cuộc trò chuyện của hai người đã giúp tôi lấp những lỗ hổng thông tin của mình. Những cuộc nói chuyện ban đêm giữa tôi với Mao thường được Mao đúc kết lại một hoặc hai ngày sau đó.
Một lần ông nói với tôi:
- Tôi để cho đối thủ tấn công trước sau đó mới đánh trả. Tôi thực hiện ba nguyên tắc. Thứ nhất, làm theo vị hiền triết Lão Tử, tôi án binh bất động. Nếu bị tấn công, sẽ thoái lui, cố thủ và yên lặng. Kẻ thù tưởng đã chiếm ưu thế.
Mao bảo, nếu phản ứng ngay kẻ thù sẽ không dám lộ bộ mặt thật của chúng. Vì vậy chúng ta phải chờ cho tới lúc chúng lộ mặt.
- Chỉ khi nào kẻ thù xuất đầu lộ diện, lúc đó chúng ta mới báo thù. Chúng ta sẽ ăn miếng trả miếng. Đó là triết lý của Khổng Tử.
Thật ra, việc này chẳng liên quan gì tới giáo lý của Khổng Tử, chỉ là một chiến thuật riêng của Mao. Mao không chỉ sử dụng nó để chống những người hữu khuynh, ông còn dùng nó để đối phó với cả những đối thủ trong đảng.
- Lúc đầu, mọi người chẳng biết bọn hữu khuynh là ai, diện mạo của chúng như thế nào, vì thế khó giải thích cho mọi người hiểu. Nhưng bây giờ chúng ta đã có thể mô tả chúng chính xác. Đó là những tên phản cách mạng! Không, chúng ta hãy gọi chúng đơn giản, những “phần tử hữu khuynh”.
Nguyên tắc thứ hai của Mao, chỉ bỏ tù những đối thủ của ông một khi họ phạm những tội nghiêm trọng và chống lại nhân dân. Tại sao ta lại giam giữ để lãng phí sức sản xuất của họ? Nếu không thích hợp với công việc lãnh đạo, họ cũng có thể làm cái gì đó có ích cho xã hội chứ? Cách xử thế như vậy theo truyền thống lâu đời của Trung Quốc.
Nguyên tắc thứ ba: đối thủ phải được cải tạo ngay tại nơi làm việc của họ. Đồng nghiệp phải theo dõi những hành vi, phải nghe ngóng xem họ nói những gì. Mao nói: “Với những chuyện bọn hữu khuynh hành động sẽ cho chúng ta hiểu thế nào là xấu xa, sai trái”.
Theo Mao, ai cũng có thể cải tạo được, ai cũng có cơ hội để trở thành người tốt. Một con bò không tự đi cày hoặc cung cấp sữa cho người. Một con ngựa chưa thuần, người ta không thể cưỡi nó. Một tên phản cách mạng, hay tên gián điệp chẳng hạn, chắc chắn chúng phải có một biệt tài nào đó. Phải tự hỏi vì sao chúng lại trở thành một tên phản cách mạng, tên gián điệp hay kẻ hữu khuynh cơ chứ? Tại sao chúng ta lại không cải tạo, tận dụng những khả năng của chúng.
Mao tỏ ra nổi giận với Nhóm Dân chủ, nói: “Bọn chúng chẳng có đứa nào tử tế cả. Tuy giải tán nhưng chúng ta muốn lôi kéo, đoàn kết với họ, nhưng đảng cộng sản lại muốn cải tạo Nhóm Dân chủ và các đảng phái dân chủ khác. Mặc dầu đã bắt hàng trăm ngàn tên thiên hữu nhưng không tử hình một ai, vì nếu chỉ cần tử hình một tên thôi ta phải tử hình tất cả. Đó là điều luật trong đã từng làm trong thời kỳ thanh lọc đảng đầu thập niên 1940 ở Hồ Nam khi Vương Thực Vị mở chiến dịch tấn công đảng, xuất bản cuốn “Bông Huệ Dại”. Sau khi mở cuộc điều tra, chúng ta phát hiện Vương là phần tử Trotskist, một tên đặc vụ, nhưng tôi yêu cầu không tử hình hắn. Khi quân Quốc Dân đảng tấn công, chúng ta phải rút lui khỏi Hồ Nam, lực lượng an ninh đã xử tử, vì sợ Vương trốn, tôi đã phê bình khiển trách việc này”.
Nhà văn Vương Thực Vị trong cuốn sách của mình, đã chỉ trích cuộc sống xa hoa vương giả của các nhà lãnh đạo của đảng trong khi họ lại cứ giao giảng thuyết khổ hạnh và quân bình. Khi các lãnh tụ vui thú trong những đêm khiêu vũ thì người dân đang phải vật lộn chiến đấu chống quân Nhật xâm lăng. Họ quy tội Vương, một phần tử Trotskist, nhưng hoàn toàn không đúng. Tôi đọc Bông Huệ Dại sau khi nghe Mao kể, tôi thấy sự chỉ trích, phê phán của Vương hoàn toàn đúng sự thật. Không những thế, Vương còn vạch ra sự tham nhũng mà sau này làm việc ở Trung Nam Hải tôi đã thấy. Tôi được biết sự thoái hoá của các đảng viên rất sớm, từ những ngày ở Hồ Nam.
Đầu tiên chúng tôi tạm nghỉ ở Thái An, tỉnh Sơn Đông, sau đó tiếp tục đi Thượng Hải, đến thăm Thị trưởng Kha Thanh Thế, một đồ đệ trung thành hăng hái nhất của Mao. Kha Thanh Thế, cán bộ đảng duy nhất đã từng gặp Lenin. Trong thời gian học tập ở Trường Đại học Đông phương, Liên Xô, và làm việc ở một nhà máy, nơi Lenin có lần đến nói chuyện. Mao kể rằng, không bao giờ Kha quên được cảnh tượng ấy chính vì thế Kha trở thành một nhà cách mạng lớn.
- Qua đấy mới thấy ảnh hưởng của một lãnh tụ vĩ đại đối với nhân dàn lớn đến mức độ nào.
Mao kết luận như vậy sau khi kể chuyện với tôi.
Kha thu xếp cho Mao nghỉ trong một ngôi nhà lát đá cẩm thạch tráng lệ có mái bằng đồng. Nhà của một thương gia Do Thái, Silas Hardoon, người mà trong những năm 1910 đã bỏ một khoản tiền rất lớn xây ở Thượng Hải. Ngôi nhà ở ngay trung tâm thành phố, bao quanh là những bức tường cao bằng gạch nung. Khu vườn tạo ra một khung cảnh tuyệt vời, có đầm sen, hoa huệ, đầy ếch nhái và những cây cổ thụ mọc rải rác trên thảm cỏ thoai thoải. Trong sự sang trọng kiểu phương Tây này, Mao vẫn chẳng thấy thoải mái, bất chấp sự phản đối của Kha, ông muốn trở lại đoàn tàu.
Khác hẳn với những chuyến đi bí mật trước đây, chuyến viếng thăm Thượng Hải lần này là một sự kiện công khai đối với dư luận. Mao muốn cả nước biết rằng ông đang chỉ huy chiến dịch chống bọn hữu khuynh.
Chiến dịch chống thiên hữu ở Thượng Hải tiến triển rất tốt. Chúng tôi tới thăm một nhà máy, nơi công nhân đã dán những khẩu hiệu viết bằng chữ lớn kêu gọi chống bọn hữu khuynh. Mao đánh giá những khẩu hiệu dán trên tường là sự ủng hộ to lớn, ông phát biểu trước các cán bộ đảng ở địa phương, cán bộ quân đội, gặp gỡ những nghệ sĩ tả khuynh nối tiếng nhất của thành phố, như nhà văn Ba Kim, tài tử Triệu Đan cùng vợ Hoàng Tông Anh và tài tử Thanh Nghị.
Khi đấu tranh, lúc nào Mao cũng năng nổ. Chúng tôi rời thành phố Thượng Hải náo nhiệt, tới Hàng Châu yên tĩnh – thành phố đẹp nhất ở Trung Quốc, với Tây Hồ một địa danh nổi tiếng trên thế giới. Chưa bao giờ tôi thấy một ngôi nhà nào tráng lệ như Liễu Chương, nơi chúng tôi đã lưu lại. Trước đây. ngôi nhà thuộc về một đại gia buôn trà, bây giờ nó được tân trang lại cho Mao ở. Liễu Chương nằm trên một bán đảo hẻo lánh đây hoa cỏ, trải dài đến bờ biển phía tây, nhỏ hơn và hấp dẫn hơn so với cung Mùa hạ ở Bắc Kinh. Ngược lại, khu vườn của nó to hơn và đẹp hơn so với khu vườn tuyệt diệu của Tô Châu. Khu nhà xây theo lối cổ truyền, mái ngói nhiều tầng, chính giữa một chiếc hồ có dòng suối chảy róc rách nối liền bằng những chiếc cầu cong bằng đá cẩm bạch. Cá và hoa đầy hồ, thực đơn bữa nào cũng có món cá ngon tuyệt do nhà bếp đánh bắt chiêu đãi.
Phó thủ tướng Liên Xô Anastas Mikoyan có mặt ở Hàng Châu để thi hành một nhiệm vụ bí mật. Ông ta muốn trấn an Mao sau vụ Malenkov và Molotov bị phế truất. Ngoài ra còn có các cuộc đàm phán gay go về mục tiêu phát triển vũ khí nguyên tử ở Trung Quốc. Mao cho gọi tôi lên.
Mikoyan, một người mập mạp, dáng đi lom khom, trạc độ 60 tuổi. Ông mắc bệnh viêm khớp mạn ở lưng và chân. Ông hy vọng sẽ được chữa khỏi bằng châm cứu. Tôi liên hệ để ông gặp một chuyên gia châm cứu nổi tiếng nhất ở Bắc Kinh. Trong khi chúng tôi đang nói chuyện về sức khoẻ, ông mời tôi một ly vodka và chuyển sang nói về những nguy cơ của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Ông có vẻ bực bội về cuộc gặp gỡ với Mao, muốn thổ lộ điều đó với tôi. Ông lo ngại khi Mao chẳng hề bận tâm tới việc chết người hàng loạt.
Mao phân tích cho Mikoyan luận thuyết “hổ giấy”, quả quyết rằng Trung Quốc có thể chiến thắng trong một cuộc chiến tranh nguyên tử dù có phải hy sinh hàng triệu người. Mikoyan cố gắng mô tả cho tôi về sức tàn phá ghê gớm của một quả bom nguyên tử. Ông hy vọng Trung Quốc sẽ học kinh nghiệm của Liên Xô, không nên chế tạo bom này, một quả bom tốn kém triệu triệu rúp (ruble), tốn kém chỉ là một mặt thôi. Ông cũng kể cho tôi nghe một cán bộ cấp cao của Liên Xô đã phải chịu hậu quả tệ hại như thế nào, sau khi điều hành việc thử bom nguyên tử, đã chết vì bệnh máu trắng – căn bệnh mà tuỷ không còn khả năng sản xuất ra hồng cầu nữa.
Tôi đáp:
- Tôi là thầy thuốc, tôi không biết gì nhiều về bom nguyên tử. Theo quan điểm đạo đức của mình, tôi không chấp nhận nó, bởi vì nó cũng giết người như tất cả những loại vũ khí khác.
Tôi không có quyền trao đổi với một chính khách cao cấp nước ngoài về một đề tài quan trọng như vậy, tôi nghĩ, tốt hơn hết, phải báo cáo lại cho Mao về cuộc nói chuyện này. Đối với ông việc tàng trữ bom nguyên tử chỉ là vấn đề quyền lực chứ không phải là vấn đề sinh mạng con người. Mao rùng mình nói:
- Mikoyan đảm bảo với tôi, vũ khí nguyên tử của Liên có đủ cho cả hai nước dùng. Hệ thống phòng thủ hạt nhân của Liên Xô trùm lên tất cả chúng ta. Liên Xô muốn kiểm soát chúng ta, vì vậy họ ngăn cản việc Trung Quốc có bom nguyên tử. Họ sợ chúng ta có thể không nghe lời họ, chúng ta có thể khiêu khích Mỹ. Nhưng chúng ta không sợ xung đột với các nước khác. Bằng giá nào tôi cũng cho chế tạo bom nguyên tử. Đồng chí cứ yên tâm. Chúng ta sẽ không để cho kẻ nào cưỡi cổ chúng ta được.
Một khi Mao đã sẵn sàng hy sinh chừng ấy người Trung Quốc trong một cuộc chiến tranh nguyên tử, tại sao ông lại không dám để mặc cho hàng chục nghìn người thiên hữu bị giết hại. Tuy ông không trực tiếp hành hình họ nhưng ông cũng chẳng ngăn cản việc đó.
Ở Hàng Châu, Mao phát biểu trước công chúng thêm một lần nữa trước khi ông nghỉ ngơi mấy hôm. Lưu lại đó ít lâu, chúng tôi lên đường đi Nam Kinh, trú trong một ngôi biệt thự trước đây của một chính trị gia Quốc dân đảng. Ở Nam Kinh, tiết trời tháng 7 vô cùng nóng nực, nhiệt kế thường chỉ trên 40 độ C. Mao ít bị cái nóng quấy rầy hơn tôi. Hàng ngày, những người phục vụ của Mao mang vào phòng ông những thùng đựng đầy nước đá.
Trong khi ông phổ biến về chiến dịch chống hữu khuynh, nước đá tan chảy, còn tôi toát mồ hôi.
Chiến dịch này lan ra khắp đất nước như một cơn lốc. Mao khoan khoái đọc Bản tin Nội bộ kín mít những bài chỉ trích phái hữu khuynh. Vào thời gian này, chúng tôi thường hay chuyện trò ban đêm nhiều hơn. Sự thiếu ngủ hình như có tác dụng kích thích ông.
Lâm Khắc – trong thời gian tôi ở bệnh viện Bắc Kinh, vẫn liên lạc chặt chẽ với Mao – đã kể cho tôi những nhận định của ông ta về quan điểm chính trị hiện nay của Mao. Theo Lâm, Chủ tịch phải tạm thời thoả hiệp với những đối thủ trong đảng một cách miễn cưỡng để cùng nhau tìm cách chống lại phái hữu khuynh đang to mồm phê bình đảng. Đặng Tiểu Bình chịu trách nhiệm tổ chức chiến dịch chống hữu khuynh. Tuy Đặng đã làm Mao bực, nhưng không phải kẻ ngáng chân gợi ý Mao từ chức trong Đại hội đảng lần thứ VIII, Đặng thuộc vào hàng những cán bộ Mao rất tin tưởng trong việc chống thiên hữu. Mãi sau này tôi mới biết Đặng đã điều khiển chiến dịch kháng hữu một cách cuồng nhiệt, đã tấn công tàn bạo như thế nào đối với những kẻ đòi xét lại địa vị của đảng.
Trong bối cảnh hiện nay, tôi cho rằng những chiến dịch trong năm 1956 và 1957 của Mao giống như một cuộc Cách mạng văn hoá đầy sai lầm. Ngày nay chúng ta liên tưởng lại năm 1957 chủ yếu với chiến dịch chống hữu khuynh khủng khiếp, mặc dù đối thủ của Mao ban đầu không phải những người thiên hữu ngoài đảng, mà là các cán bộ lãnh đạo của đảng cộng sản, những người đã xúc phạm Mao, đòi bớt xén quyền lực, cảnh cáo trước những giấc mơ viễn tưởng của ông về chủ nghĩa xã hội. Mao muốn trả đũa đối thủ, nhưng không muốn người ta động chạm đến chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhất là không muốn vị trí lãnh đạo của bản thân ông bị lung lay. Vì vậy, ông miễn cưỡng tạm thời liên minh với các đối thủ trong đảng. Những người đã này theo ông hết lòng, vì địa vị lãnh đạo của chính họ cũng bị đe doạ.
Tuy nhiên, Mao cũng đã cho những nhà lãnh đạo đảng thấy, nếu cần, ông có thể dùng thế lực bên ngoài để tấn công, lời đe doạ này như một lưỡi gươm lơ lửng trên đầu tất cả những ai muốn lay chuyển địa vị của ông. Lúc đầu, đa số cán bộ đảng đứng về phía Mao. Lo sợ Mao tấn công, tầng lớp trí thức cũng như lòng tin vào những suy nghĩ ảo tưởng của Mao đã khiến họ ủng hộ phong trào Đại nhảy vọt sau này.
Chủ tịch có ý muốn triệu tập một hội nghị đảng để nhận định tình hình. Ở Nam Kinh quá nóng nên Giang Vệ Thanh, bí thư thứ nhất tỉnh Giang Tô, Nam Kinh trực thuộc tỉnh này, đã triệu tập các tỉnh uỷ viên tới để cùng tìm một nơi dễ chịu cho hội nghị của đảng.
Họ quyết định chọn Thanh Đảo. Một khu nghỉ mát bờ biển tỉnh Sơn Đông, trước đây do người Đức kiểm soát, khí hậu ở đó mát mẻ, rất thích hợp cho việc tắm biển. Nếu đi tàu hoả chủ tịch sẽ không chịu được nóng. Vì vậy chúng tôi đi bằng hai chiếc máy bay Il-14 do Liên Xô chế tạo và nghỉ giữa chặng bay tại Thái An. Tại đây, Mao đã sôi nổi phát biểu trước một nhóm cán bộ đảng, quân đội của tỉnh Sơn Đông về việc chống bọn hữu khuynh, nội dung tóm tắt của cuộc chuyện trò ban đêm của chúng tôi.
Với khí hậu, gió biển mát mẻ, Thanh Đảo, một nơi nghỉ lý tưởng sau khi chúng tôi rời lò lửa Nam Kinh. Thành phố có những quả đồi khiến người ta liên tưởng đến San Francisco xây dựng theo phong cách Đức. Giữa những hàng cây cao, những lùm cây um tùm, hai bên những dãy nhà gạch lợp ngói rất đẹp, được bao quanh bởi những bức tường. Mao ở cùng với vệ sĩ của ông nghỉ trong một lâu đài tráng lệ nằm trên một quả đồi, nơi ở của viên thống đốc người Đức trước đây. Từ trên đó nhìn xuống thành phố và biển hiện ra thật là đẹp.
Mao đi thăm những kỳ quan quan nổi tiếng nhất của thành phố được coi là đẹp nhất Trung Quốc, trường Đại học Sơn Đông, nơi Giang Thanh đã được nghe Lương Thế Kỳ – nhà nghiên cứu Shakespear nổi tiếng – giảng bài và một nhà máy sản xuất đầu máy xe lửa. Tại đó, sự có mặt của Mao làm tất cả mọi người trở nên phấn khích, mặc dù Mao chẳng phải phát biểu gì, chỉ đứng lẫn trong đám đông. Những biện pháp bảo vệ ở Thanh Đảo thật nghiêm ngặt. Trong thành phố, người ta đã phong toả nhiều con đường dành cho người và cho xe chạy.
Hội nghị các bí thư tỉnh uỷ và đảng uỷ các cấp bắt đầu vào ngày 17-7-1957, ngay sau khi chúng tôi đến, kéo dài nhiều ngày. Các cuộc thảo luận tập trung chủ yếu vào chiến dịch chống hữu khuynh và vấn đề cải tạo xã hội theo chủ nghĩa xã hội. Tờ Nhân dân Nhật báo đăng báo cáo của Mao trong hội nghị dưới nhan đế “Bối cảnh chính trị mùa hè 1957”. Trong đó, ông lại công kích những người hũu khuynh, bộc lộ rõ hơn viễn tưởng về xã hội chủ nghĩa, bức tranh một nhà nước công nông hiện đại được thiết lập bởi một đội ngũ đông đảo những nhà khoa học kỹ thuật xã hội chủ nghĩa. Mao nói về cặp mâu thuẫn, sự tập trung quyền lực và dân chủ; kỷ luật và tự do; Sự thống nhất tư tưởng và nguyện vọng của mỗi cá nhân. Nhiệm vụ đề ra là trong vòng 40-50 năm kể từ năm 1953 trở đi, phải vượt Mỹ về kinh tế và từ chủ nghĩa xã hội chuyển sang chủ nghĩa cộng sản. Đó là những ý trưởng trong mơ của Mao, thực tế chẳng có gì rõ nét.
Bị những vệ sĩ của Mao quây kín, lại ở nơi cách biệt với thế giới nghèo nàn bằng sự xa xỉ khôn tả, tôi không thể hiểu được nội dung thực của chiến dịch chống hữu khuynh, cách xử lý, cách giải quyết như thế nào và ra sao. Ngay cả trong những cuộc chuyện trò của tôi với Mao cũng có những điều không thực tế.
Ngoài ra ở Thanh Đảo, tôi rất bận, phải đối phó một vài vấn đề không liên quan gì tới chính trị.