Hà Nội cử hai điệp viên vào Sài Gòn để huấn luyện Ẩn những điều cơ bản của công việc tình báo, nhưng chính công việc mới thực sự giúp Ẩn hoàn thiện kỹ năng. Ban đầu, Ẩn làm nhân viên kế toán và thủ quỹ cho Công ty dầu mỏ Caltex nhưng sau đó được giao nhiệm vụ vào làm thanh tra cho hải quan Pháp, từ đây cậu chuyển các báo cáo về tình hình chuyển quân của Pháp cũng như việc Mỹ viện trợ cho Pháp. Cậu cũng tìm cách nắm bắt mọi thứ liên quan tới các nhân vật tai to mặt lớn của Pháp và Mỹ tại Việt Nam. “Tôi theo dõi và sau đó viết báo cáo, cũng không nhiều lắm”, Ẩn kể.
Ẩn nhanh chóng tập trung sự chú ý vào các nỗ lực ngầm được tiến hành để xây dựng một bộ máy mới và huấn luyện lực lượng cho quân đội Nam Việt Nam.(24) Phái bộ Cố vấn Quân sự Mỹ (MAAG) tại Sài Gòn đã được thành lập vào năm 1950 để “giám sát việc triển khai chương trình hỗ trợ thiết bị quân sự cho lính lê dương Pháp chống lại Việt Minh trị giá 10 triệu đôla”.(25)
Trong một giai đoạn ngắn, MAAG còn được giao nhiệm vụ giúp nâng cao năng lực của các đơn vị Quân đội Nam Việt Nam càng nhanh càng tốt. Một nhóm cán bộ khung đã được thành lập với văn phòng trực thuộc MAAG để điều hành một tổ chức huấn luyện song phương với tên gọi là Chương trình Tư vấn và Huấn luyện Quân sự (TRIM). Một trong những nhiệm vụ của TRIM là hỗ trợ và tư vấn cho các cơ quan quân sự của Việt Nam về xây dựng lực lượng vũ trang. TRIM bao gồm 209 sĩ quan Pháp và 68 sĩ quan Mỹ (khi người Pháp ra đi thì có thêm 121 sĩ quan Mỹ nữa), không có ai trong số sĩ quan Mỹ nói được tiếng Việt và chỉ có chưa đầy mười người biết tiếng Pháp.(26)
Ẩn học tiếng Anh từ những nhà truyền giáo ở Cần Thơ trong thời kỳ Nhật chiếm đóng. Sau đó, ông làm bạn với ngài Webster ở Đại sứ quán Anh tại Sài Gòn, người mỗi lúc rảnh rỗi lại dành hàng giờ luyện tiếng Anh với ông. Rồi sau đó thì Ẩn làm việc chung với ông Newell nên đến thời điểm muốn đầu quân cho TRIM, ông đã là một trong những người Việt giỏi tiếng Anh nhất, khiến ông trở thành một tài sản quý giá đối với người Mỹ và Việt Nam, giúp ông thiết lập quan hệ với hàng chục người sau này sẽ trở thành tư lệnh quân đội Việt Nam Cộng hòa và những người Mỹ có nhiều ảnh hưởng.
Ẩn trở thành thành viên của Sư đoàn 25 Quân lực Việt Nam Cộng hòa vào tháng 2 năm 1956, hoạt động ở vùng Đồng bằng sông Mê Kông với nhiệm vụ chính là triệt phá cơ sở hạ tầng của Việt Minh. “Trên thực tế, tôi phục vụ cho ba quân đội”, ông Ẩn nói.
“Quân Pháp trong quá trình chuyển giao; là một hạ sĩ quan của Việt Nam Cộng hòa, nơi tôi giúp thiết lập sư đoàn bộ binh hạng nhẹ đầu tiên; và lực lượng vũ trang của Mặt trận Giải phóng”. (27) Khi Ẩn được thăng hàm lên tướng một sao (thiếu tướng) vào năm 1990, ông đã nói với các lãnh đạo Cộng sản, “tôi thân thiết với cả năm quân đội - quân Việt Minh, quân Pháp, quân Việt Cộng, quân Mỹ, và quân Việt Nam Cộng hòa - nên tôi đáng được năm sao. Tôi không nghĩ rằng họ hiểu ý hài hước của tôi”. (28)
Ẩn nhớ về hai cố vấn người Mỹ cùng làm việc chung với một sự trân trọng đặc biệt. “Họ là những người tốt muốn giúp đỡ nhân dân Việt Nam, và chúng tôi đã nói chuyện rất tâm đắc về đất nước của tôi. Họ còn giúp tôi luyện tiếng Anh và sau đó còn dạy tôi hút thuốc đúng kiểu. Tôi chưa bao giờ biết rít thuốc và họ đã chỉ cho tôi, rồi cho tôi những điếu Lucky. Họ làm việc rất giỏi”, Ẩn kể lại với một nụ cười ấm áp.
Phái bộ Huấn luyện Quân sự Hỗn hợp (CATO) thay thế TRIM vào tháng 4 năm 1956, và hoạt động như là ban phụ trách chiến dịch cho chỉ huy trưởng của MAAG, cơ quan kiểm soát tất cả các đơn vị chiến trường trực thuộc các trường và bộ chỉ huy của Việt Nam. Ẩn chuyển từ TRIM sang CATO để phụ trách công tác xử lý tài liệu và thực hiện các cuộc phỏng vấn đối với sĩ quan Việt Nam Cộng hòa sắp đi Mỹ tham dự các khóa huấn luyện chỉ huy. Trong số những người được Ẩn phỏng vấn có tổng thống tương lai của Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu (lúc bấy giờ là trung tá), Tổng tham mưu trưởng tương lai Cao Văn Viên (thiếu tá), tướng và tư lệnh Quân đoàn 1 tương lai Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh tương lai của Thủy quân lục chiến Lê Nguyên Khang (đại úy). “Tôi phụ trách lo thủ tục cho họ đi Mỹ và làm liên lạc giữa họ và gia đình, thông báo thời điểm họ trở về để gia đình đi đón. Qua những việc làm đó mà chúng tôi dần quen nhau”, Ẩn kể với tôi.
Những mối quan hệ sơ khởi này về sau đã trở nên cực kỳ giá trị. Một trong những chiến thuật được xây dựng rất thận trọng của Ẩn đó là không bao giờ chơi thân với những người mà ông biết hoặc cho là cảm tình viên của Cộng sản; thay vào đó, ông tìm kiếm và kết bạn với những nhân vật được coi là chống Cộng hăng hái và nổi tiếng nhất nhằm bảo vệ vỏ bọc của ông cũng như hiểu sâu hơn về tư duy của người Mỹ.(29) Ông bắt đầu với Đại tá Edward Lansdale, người đến Sài Gòn vào năm 1954, trong khoảng thời gian giữa trận chiến Điện Biên Phủ và việc ký kết hiệp định Geneva, chia đôi Bắc và Nam Việt Nam theo đường giới tuyến tạm thời tại vĩ tuyến 17. Việt Minh kiểm soát phần bắc, trong khi Pháp và chính phủ quốc gia Việt Nam kiểm soát phần phía nam. Quân Pháp sau đó sẽ rút khỏi miền Bắc và Việt Minh sẽ rút quân khỏi miền Nam, và tổng tuyển cử tự do dự định diễn ra vào năm 1956. Theo các điều khoản của Hiệp định Geneva, mọi thường dân đều được phép di cư từ nam ra bắc hoặc từ bắc vào nam trước thời điểm ngày 18 tháng 5 năm 1955. Khoảng chín mươi ngàn cán bộ Việt Minh đã tập kết ra bắc trong cùng thời gian với khoảng một triệu dân tị nạn Công giáo di cư vào nam.
Lansdale là giám đốc của Phái bộ Quân sự ở Sài Gòn (SMM), một đơn vị của CIA nhưng gần như tách hẳn khỏi cơ quan thường trực.(30) Việt Nam lúc bấy giờ có hai nhóm CIA hoạt động, một trực thuộc trưởng chi nhánh Sài Gòn, phụ trách các hoạt động tình báo thông thường và hoạt động dưới vỏ bọc là các nhà ngoại giao làm việc tại Đại sứ quán Mỹ; nhóm kia là Phái bộ Quân sự của Lansdale, chuyên trách các hoạt động bán vũ trang và làm việc dưới vỏ bọc là các nhiệm vụ của MAAG tại Đông Dương.(31)
Đã trở thành nhân vật huyền thoại với vai trò to lớn trong chiến dịch dẹp quân nối dậy Cộng sản Huk tại Philippines và góp phần tạo dựng nên anh hùng dân tộc Ramon Magsaysay, Lansdale được Ngoại trưởng John Foster Dulles chỉ thị “cứ làm như anh đã từng làm ở Philippines”. “Chúa phù hộ anh”, Giám đốc CIA Alien Dulles, và là em trai của ngài ngoại trưởng, nói thêm. Hoạt động dưới vỏ bọc là trợ lý tùy viên không quân, Lansdale tìm cách thiết lập một chính quyền không Cộng sản ở miền Nam.
Chính ngay tại tổng hành dinh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, điệp viên CIA Rufus Phillips đã lần đầu tiên gặp Ẩn, lúc bấy giờ đang làm trợ lý cho người anh họ, Đại úy Phạm Xuân Giai, giúp dịch thuật và thực hiện các nhiệm vụ liên quan trong vai trò thư ký tổng hợp tại Phòng quân huấn phụ trách tâm lý chiến. Phillips đến Sài Gòn vào ngày 8 tháng 8 năm 1954, ngay trước khi Hiệp định Geneva có hiệu lực. Với những công lao đóng góp cho Phái bộ Quân sự ở Sài Gòn, Phillips sau này đã được tặng thưởng Huân chương Công trạng của CIA. Còn Giai từng kinh qua trường đào tạo tâm lý chiến của Pháp và sau đó đi Mỹ tu nghiệp tại trường chiến tranh tâm lý ở căn cứ Fort Bragg, North Carolina, ông này từng là trưởng Phòng 5 (G-5), là phòng trực thuộc Bộ tổng tham mưu, phụ trách về thông tin lực lượng, huấn luyện, tuyên truyền và tâm lý chiến - vốn là một chương trình tuyên truyền tổng hợp với mục tiêu là dân vận và tâm lý chiến nhằm vào Việt Minh. “Chính nhờ làm việc cho Giai mà Phạm Xuân Ẩn đã được giới thiệu cho Lansdale trước rồi sau đó đến tôi”, Phillips nhớ lại.(32)
Phillips, Conein, và những người khác trong nhóm của Lansdale nhanh chóng thích Ẩn bởi ông có bản tính khiêm tốn và khiếu hài hước. Bởi vì ông nằm trong số những người Việt nói tiếng Anh giỏi nhất nên rất hữu ích. Những việc Ẩn làm cho Lansdale hoặc Phillips không liên quan gì đến các vấn đề cấp cao hoặc tiếp cận tài liệu bí mật. Ẩn chỉ phát triển thêm mối quan hệ với các nhân viên tình báo nhằm củng cố vỏ bọc, học cách nói chuyện thân thiện và tán gẫu với người Mỹ, tạo cho họ có cảm giác dễ chịu và dần tạo dựng lòng tin để phục vụ cho nhiệm vụ lâu dài.
Ổng Ẩn đã kể với tôi câu chuyện về lần đầu gặp Lansdale. Lúc đó Ẩn đang làm việc một mình tại Phòng 5 thì một trợ lý của Lansdale tới và đề nghị cung cấp tên của tất cả nhân viên phòng này. Cuối ngày hôm đó, khi Giai trở về, Ẩn báo cáo với người anh họ việc mình đã cung cấp cho Đại úy Roderick danh sách đầy đủ. “Ôi, Ẩn, chú ngu quá đi. Chú chả biết quái gì về tình báo cả. Sao lại đưa toàn bộ danh sách cho tay Lansdaleĩ”. Ẩn kết thúc câu chuyện kể bằng lời diễn giải, “Ồng thấy đấy, sau vụ đó thì Lansđale kết tôi ngay lập tức vì tôi đã cho ông ta danh sách kia, dù điều đó xuất phát từ sai lầm của tôi. Sau này ông ta hay đùa tôi, “Ẩn, cậu sẽ là một điệp viên kinh khủng đấy”.
Rufus Phillips và Ẩn đã có một tình bạn kéo dài tới cuối đời Ẩn. “Tôi nghĩ Ẩn là một trong những người sắc sảo và cân bằng nhất trong số những người Việt Nam mà tôi từng biết, là một người quan sát tinh tế đối với cả nhân dân Mỹ lẫn Việt Nam trong suốt cuộc chiến dài lâu ấy”, Phillips chia sẻ với tôi. “Tôi chỉ không nghĩ rằng ông ấy từng được đưa vào bộ máy tuyên truyền của Đảng Cộng sản. Tôi biết đến ông ta như một người ái quốc, chứ không phải một người Cộng sản, và đó là điều tôi luôn nghĩ về ông ấy”. (33)
Lansdale muốn chiêu mộ Ẩn để phục vụ cho cuộc chiến chống Cộng của mình, nên đưa ra đề nghị tài trợ cho ông đi học tại Trường Hạ sĩ quan tình báo và Tâm lý chiến. Điều này có thể giúp Ẩn thăng tiến nhanh sau khi trở lại Việt Nam. Ẩn đem lời đề nghị của Lansdale đến xin ý kiến những thượng cấp thực sự tại Củ Chi, và người chỉ huy trực tiếp, ông Mười Hương, nói rằng ông nên tránh vụ này vì quá rủi ro. Lúc bấy giờ Cộng sản đã cài được người vào hàng ngũ lãnh đạo Quân lực Việt Nam Cộng hòa và có người về sau được phong hàm đại tá, nhưng không ai được chuẩn bị để thực hiện một sứ mệnh kiểu như của Ẩn. Bằng việc học nghề báo, Ẩn có thể vào đại học ở Mỹ. Nếu ông nhập ngũ thì cơ hội nói trên sẽ không còn. “Phạm Xuân Ẩn là điệp viên duy nhất được chúng tôi đưa tới Mỹ”, ông Mai Chí Thọ, khi đó là Trưởng ban địch tình Xứ ủy Nam Bộ, nói.(34) Ông Thọ và những người khác đã làm mọi cách để đảm bảo rằng Ẩn được huấn luyện đúng cách và được bảo vệ an toàn cho sứ mệnh của ông.
Khi Ẩn thổ lộ với Lansdale rằng mình muốn đi học báo chí, Lansdale lập tức đề nghị tài trợ cho ông và liên hệ với Quỹ Á Châu. Ra đời năm 1954 và hiện có ngân sách hoạt động xấp xỉ 8 triệu đôla, tổ chức này là một cơ quan của CIA thay mặt chính phủ Mỹ phụ trách các hoạt động văn hóa và giáo dục vốn không được mở cho các cơ quan chính thức.(35) Khi một thành viên của tổ chức này đến Sài Gòn vào năm 1956 để khảo sát khả năng lập một chương trình dành cho nhà báo Việt Nam, Lansdale bố trí để tùy viên quân sự ở Sài Gòn đưa Ẩn đi dự cuộc họp với đại diện của Quỹ Á Châu, người đã giới thiệu Ẩn tới Tiến sĩ Elon E. Hildreth, trướng bộ phận giáo dục của Chương trình Viện trợ nước ngoài(*) của Mỹ tại Việt Nam và là cố vấn trưởng cho Bộ Giáo dục của chính quyền Việt Nam từ năm 1956 đến 1958.
______________________
(*) United States Operations Mission (USOM) là một cơ quan của Chính phú Mỹ, phụ trách về viện trợ và tư vấn cho nước ngoài, đặc biệt là các nước mà Mỹ muốn gãy ảnh hưởng thông qua vốn và chính sách.
______________________
Hildreth luôn tìm kiếm các nhân tố nhiều triển vọng và dấn thân để tài trợ học bổng tu nghiệp ở Mỹ. Với Ẩn, ông đã tìm ra một ứng viên hoàn hảo. Ẩn giỏi tiếng Anh, thông minh, và đã được một chuyên gia chống quân nổi dậy Cộng sản tiên phong của Mỹ, Edward Lansdale, tiến cử. Hildreth lại là bạn thân với Chủ tịch Trường Orange Coast, Tiến sĩ Basil Peterson.(36)
Một tuần sau khi Lansdale tới Sài Gòn, Quốc trưởng khiếm diện Bảo Đại, lúc bấy giờ đang ở Paris, đã trao cho Ngô Đình Diệm ghế thủ tướng của Quốc gia Việt Nam. “Đất nước Việt Nam có được cứu hay không là tùy thuộc vào bước đi này”, Bảo Đại nói với ông Diệm. Những khoản học bổng dành cho ông Diệm và em trai của ông ta là Nhu trong thời gian gần đấy cho thấy năm sau Diệm sẽ được đặt vào đúng vị trí ấy.(37) Lúc cứ điểm Điện Biên Phú bị phá vỡ vào tháng 5 năm 1954, Diệm đã đặt mình vào vị trí của một người theo chủ nghĩa dân tộc bằng những mối quan hệ tốt với Mỹ. Là một tín đồ Công giáo xuất thân từ gia đình quan lại có tiếng, ông ta thừa kế một truyền thống chống Cộng quyết liệt và đã thỉnh cầu nhiều nhà hoạt động chống Cộng tại Mỹ, trong đó có Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, Tổng giám mục Francis Spellman, Thượng nghị sĩ John F. Kennedy và Thẩm phán tòa tối cao William O. Douglas. “Với cặp anh em chống cộng nhiệt tình John Foster Dulles tại Bộ Ngoại giao và Allen Dulles tại CIA, ông Diệm đã có được chỗ dựa vững chắc bên trong chính quyền Eisenhower”, ông Nguyễn Thái nói với tôi.
“Thời khắc quyết định đã đến”, Ngô Đình Diệm tuyên bố khi vừa đặt chân xuống phi trường Tân Sơn Nhứt, đúng ba tuần sau khi Lansdale đến. Lúc bấy giờ, Diệm đang đối mặt với một liên minh địch thủ hùng mạnh, những người sẽ mất trắng một khi ông ta nắm được quyền bính. Trong số này có Tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam có lập trường thân Pháp, người đã ngấm ngầm lên kế hoạch hạ bệ Diệm; các nhóm chính trị - tôn giáo Cao Đài và Hòa Hảo; lực lượng Bình Xuyên, một băng đảng dạng mafia kiểm soát hoạt động buôn lậu thuốc phiện, đánh bạc và đĩ điếm tại Sài Gòn. Để trả nợ hàng triệu đôla tiền thua bạc, Bảo Đại đã phải nhượng lại toàn bộ hệ thống sòng bài ở Chợ Lớn cho đám Bình Xuyên, trong đó có sòng bài Đại Thế Giớit (*) cũng như nhà thổ Bình Khang lớn nhất châu Á. Bảo Đại cũng trao quyền điều hành cảnh sát quốc gia cho thủ lĩnh Bình Xuyên, Thiếu tướng Bảy Viễn.
______________________
(*) Casino Grand Monde là sòng bài lớn nhất Đông Dương do Pháp lập ra năm 1937. Sau khi dẹp được quân Binh Xuyên, Ngô Đình Diệm đã cho đóng cửa sòng bài này vào nãm 1955.
______________________
Lansdale ngay lập tức vạch một kế hoạch, trước tiên là không cho các đối thủ chính trị của Diệm liên kết với nhau để hạ ghế thủ tướng của ông ta, sau đó sẽ tiêu diệt từng nhóm một bằng sức mạnh quân sự hoặc các thủ đoạn chính trị. Lansdale bắt đầu bơm tiền từ Phái bộ Quân sự ở Sài Gòn theo chiến thuật chia để trị trước khi vào thay chân người Pháp.(38) Trước hết, ông hướng vào giáo phái Cao Đài, vốn tuyên bố có tới hai triệu tín đồ cùng một lực lượng quân đội từng được Pháp tài trợ. Bằng cách bắt tay với lực lượng Cao Đài chống Cộng và chống Pháp có căn cứ địa tại núi Bà Đen và nằm dưới quyền chỉ huy của Trình Minh Thế, Lansdale muốn thiết lập một liên minh giữa hai nhân vật chống Cộng và chống Pháp - Thế và Diệm. Hai người này từng có liên lạc với nhau trước cả chuyến đi của Lansdale tới núi Bà Đen và có lẽ việc Diệm đề nghị Lansdale tới gặp Thế là muốn thể hiện rằng ông ta có thể phân phối sự viện trợ của Mỹ. Trước khi hành sự, Lansdale đã đề nghị ông Diệm phê chuẩn bước đi gây tranh cãi này cũng như tìm kiếm sự ủng hộ của Trung tướng John “Iron Mike” O'Daniel, người đứng đầu MAAG. Kế hoạch này được Diệm thông qua và sau đó là O'Daniel, người rất muốn nhập các đội quân tôn giáo vào quân đội Quốc gia Việt Nam.
Lansdale cùng các đồng sự đến căn cứ bí mật của Thế ở núi Bà Đen để làm trung gian cho một thỏa thuận, trong đó Thế sẽ ủng hộ Diệm đánh Pháp để giành quyền kiểm soát. Đáp lại, quân của Thế sẽ được nhập vào quân đội Nam Việt Nam và Thế sẽ làm tướng. Tuy nhiên, bất chấp việc Lansdale đạt được tiến triển với các giáo phái, Diệm vẫn chưa làm được gì nhiều để ổn định chính phủ còn non nớt của mình.(40) Quá lo lắng, Tổng thống Eisenhower đã điều Tướng J. Lawton “Lightning Joe” Collins tới Sài Gòn, với hàm đại sứ, để tìm hiểu xem chuyện quái quỷ gì đang xảy ra.
Collins và phái đoàn của ông ta đến Sài Gòn vào ngày 8 tháng 11 năm 1954 chỉ để “ngạc nhiên và hốt hoảng” với tình hình ở đấy.(41) Sau năm tháng làm việc tại Việt Nam, Collins trở về Washington để có một loạt cuộc họp cấp cao nhằm quyết định số phận chính quyền non nớt của Diệm ở miền Nam. Ngoại trưởng John Foster Dulles đã nói với người em trai, Giám đốc CIA Alien Dulles, trước các cuộc họp này rằng “có vẻ như sự ủng hộ sẽ chấm dứt đối với người anh em ở Đông Nam Ả” và “các băng đảng sẽ chiến thắng”. (42)
Trong bản ghi chú gửi cho Allen Dulles, Sherman Kent, trợ lý giám đốc CIA phụ trách Ban Thẩm định Tài liệu tình báo Quốc gia(*)- và là người về sau Phạm Xuân Ẩn coi là hình mẫu điệp viên chiến lược của ông - đã tóm tát phần cốt lỏi của bản đánh giá mà Collins trình bày trong cuộc họp kéo dài bốn giờ tại Bộ Ngoại giao.(43) “Diệm đang bốc mùi” và “tình hình tại Nam Việt Nam hiện nay hoàn toàn xuất phát từ thất bại của Diệm. Để vãn hồi trật tự, Diệm phải đi”. Dưới nhan đề “Diệm bốc mùi”, Kent viết “không thể nói một điều gì tốt đẹp về ông Diệm trong vai trò là người đứng đầu chính phú và nhà điều hành chính quyền, ông ta không có ý thức gì về nhiệm vụ phía trước, không có chút năng lực hành chính nào. Ông ta không thấy các vấn đề trước mặt… ông ta không thể sử dụng những người làm được việc và chỉ chăm chăm xài những người hợp gu với mình. Collins phát biểu rằng… ông ta đã mất hết hy vọng về việc tìm ra một giải pháp nếu để Diệm ở lại”. Collins tin rằng nội chiến là không thể tránh khỏi.(44)
Giai đoạn này, Ẩn đã kết thúc thời gian thử thách trong đảng và đang chuẩn bị gửi báo cáo tình báo quan trọng đầu tiên vào rừng. Từ các đầu mối trong Phòng Nhì, cơ quan tình báo của Pháp, cũng như từ người anh họ thân Pháp, ông Giai, Ẩn biết được rằng Collins đã trở nên “gần gũi” với một nữ đặc tình làm việc cho tình báo Pháp, người có nhiệm vụ gieo vào đầu Collins càng nhiều điều bất lợi cho Diệm càng tốt. Collins cũng khoác lác rằng ông ta sắp trở về Washington để lên kế hoạch phế Diệm cũng như chọn Phan Huy Quát, một nhân vật đắc ý của Pháp, là ứng viên cho ghế quốc trưởng sắp tới.
Ngay khi biết được tất cả những tin tức này từ các đầu mối tình báo Pháp, Ẩn đi thẳng tới Củ Chi, vì nhận thấy rằng bất cứ tin tức sớm nào về khả năng thay đổi chính phủ đều rất có giá trị đối với các nhà tuyên truyền Việt Minh. “Thông tin tôi có được về Collins là rất giá trị bởi, nếu Diệm bị thay thế, người Mỹ có thể dọa bỏ đi và cắt hết viện trợ tài chính. Điều này có nghĩa là chúng tôi có cơ hội thống nhất đất nước nhanh chóng”, ông Ẩn giải thích cho tôi. “Tôi phối kiểmtừ hai nguồn tin của mình rồi báo cáo thượng cấp. Diễn biến nói trên đã không xảy ra, nhưng thông tin tôi có được là chính xác”.
Ngày 27 tháng 4, Dulles gửi điện tới đại sứ quán với nội dung chỉ đạo cho đại sứ lâm thời thực hiện nhiệm vụ tìm thủ tướng khác. Lansdale đã biết được bức điện về sự thay đổi chính sách của Mỹ mà Dulles đánh đi. Nhận thấy thời gian gấp rút, ông khuyên Diệm nên thực hiện một cuộc phản công lớn, nhưng Diệm không chờ đến khi bị kích động. Diệm đã lên kế hoạch tấn công từ nhiều tuần qua và đã thông báo chiến dịch chiếm trụ sở Cơ quan mật vụ Pháp Sureté từ tay quân Bình Xuyên. Diệm cũng biết rằng những người anh em của ông ta đã cẩn trọng tranh thủ sự ủng hộ từ bên trong giới sĩ quan quân đội Việt Nam từ mùa thu trước. Thêm vào đó, Lou Conein đã mua được lòng trung thành của các sĩ quan trụ cột, những người này hứa sẽ bỏ ông Hinh bởi lo ngại rằng nếu Hinh nắm được quyền bính thì Mỹ sẽ cắt viện trợ. Quân đội Quốc gia Việt Nam sẽ tốt hơn nếu nằm trong tay Diệm, người có tai mắt và tiền bạc từ Washington.
Sau cuộc chiến dữ dội kéo dài gần chín tiếng đồng hồ, các tay súng Bình Xuyên bị đánh bật khỏi Sài Gòn.(45) Trong cuộc chiến chống Bình Xuyên, Tướng Trình Minh Thế đã thiệt mạng bởi một viên đạn găm trúng vào gáy khi đang ngồi trên xe Jeep. Ẩn cho tôi biết rằng Thế bị giết theo lệnh từ Ngô Đình Nhu, em Tổng thống Diệm, và ông nhận diện sát thủ là Thiếu tá Tạ Thành Long của quân Cao Đài, người sau đó nhanh chóng được thăng lên thiếu tá Quân lực Việt Nam Cộng hòa và được phân về Ban quân sự đặc biệt của Tổng thống. Ẩn cho rằng Thế lâu nay nổi tiếng là người quốc gia và chống Cộng quyết liệt nên cái chết của ông ta có thể làm lung lay quyền lực của gia đình Diệm bởi vì dân không theo Công giáo có thể sẽ xuống đường. Ngày 1 tháng 5, trong một thủ tục hành chính hiếm khi xảy ra, Ngoại trưởng Dulles thông báo với Đại sứ Collins rút lại bức điện trước đó của ông ta và rằng việc Diệm giành chiến thắng trước Bình Xuyên là bằng chứng cho thấy thủ tướng đã củng cố được quyền lực và tạm thời có thể trụ được.
“Đối với chúng ta, lần này mà tham gia vào kế hoạch phế bỏ Diệm chẳng những không có tính khả thi ở trong nước mà còn rất có hại cho uy tín của chúng ta tại châu Á”. (46)
Với việc củng cố cơ sở quyền lực cũng như vô hiệu hóa các phe nhóm vũ trang, Diệm quyết định quan tâm đến Bảo Đại lần cuối cùng bằng việc tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân toàn quốc trong đó ông ta chạy đua với cựu hoàng. Kết quả không có gì bất ngờ, khi Diệm giành chiến thắng trong cuộc bỏ phiếu với một tỉ lệ áp đảo là 98,2%, “một con số có thể khiến sếp sòng Tammany Hall(*) đỏ mặt tía tai”, như nhận xét của cựu sĩ quan Cơ quan Tình báo Chiến lược Howard Simpson.(47) Ba ngày sau, ông Diệm, người có tổng số phiếu cao hơn hàng ngàn phiếu so với tổng số cử tri đăng ký, thông báo Bảo Đại bị phế truất và tuyên bố mình trở thành tổng thống của quốc gia Việt Nam Cộng hòa mới ra đời.
Cuối năm 1955, điều không tưởng đã thành hiện thực: vị thế của Ngô Đình Diệm được củng cố vững chắc, nhờ vào sự giúp đỡ bí mật quan trọng của Lansdale và đồng sự, những người đã thành công trong việc vô hiệu hóa âm mưu từ các đối thủ của ông Diệm.
Tháng 5 năm 1957, Tạp chí Life bình chọn Ngô Đình Diệm là “Người đàn ông mạnh mẽ kỳ diệu của châu Á”.(48) Ông Diệm bay tới Mỹ và phát biểu trước lưỡng viện Quốc hội. Tại New York, Thị trưởng Robert F. Wagner gọi ông là “người mà rồi đây lịch sử sẽ công nhận là một trong những nhân vật vĩ đại nhất thế kỷ hai mươi”. Tờ Saturday Evening Post gọi ông là “viên quan mặc áo vét vải láng đã làm rối tung thời gian biểu Đỏ (**).
Năm tháng sau chuyến thăm Mỹ thắng lợi của ông Diệm, Phạm Xuân Ẩn tới California theo một “thời gian biểu Đỏ” khác.
(*) Hội Tammany (Tammany Hall hay Society of St. Tammany) ra đời năm 1786 là một tổ chức chính trị của Đảng Dân chủ có ảnh hưởng thống trị tại thằnh phố New York và tiểu bang cùng tên. Tổ chức này đã chấm dứt hoạt động vào giữa thập niên 1960.
(**) Đó là mầu tượng trưng cho phe Cộng sản, ở đây ý nói ông Diệm đã phá hỏng kế hoạch của Cộng sản.
(1) Ghi chú các cuộc phỏng vấn, Hộc 91 Tập 10, 4.1975, Tài liệu của Shaplen.
(2) Khi vừa đến Sài Gòn, Lansdale cho gia đình Brandes một chú chó tên Chautaulle và Lansdale thường mời gia đình bạn tới bơi tại hồ bơi nhà mình vào mỗi dịp cuối tuần. Những người con của Brandes hiện vẫn gọi Conein là “Chú Lou”.
(3) Được bạn bè đặt cho biệt danh là “Luigi Đen”, “Lou Ba Ngón” và “Lou-Lou”, Conein là “một sĩ quan cứng rắn, uống nhiều và hay nói thẳng… như bước ra từ các trang tiểu thuyết phiêu lưu”. Xem Howard R. Simpson, Tiger In The Barbed Wire (Washington, D.C.: Nhà xuất bản Brassey's, 1992), trang 125. Xem thêm Kenneth Conboy và Dale Andrade, Spies and Commandos: How America Lost the Secret War in North Vietnam (Lawrence, KS: University Press of Kansas, 2000), trang 3.
(4) Sau khi tôi trao lại lá thư mà cha của Jul đã gửi từ mấy chục năm trước, Jul đã gửi tới ông Ẩn thông điệp này: “Chú Ẩn, cháu rất mến chú… Chú là người bạn thân nhất của gia đình hồi ở Việt Nam. Thật đáng tiếc cha cháu không còn sống tới ngày hôm nay để gửi lời chào tới chú”.
(5) Mills cũng cố thuyết phục Ẩn viết một lá thư gửi báo Washington Post để đáp lại lá thư vừa mới được đăng của Thiên Kim, một “cô bé Việt Nam'' đã gửi những lời chỉ trích về chính sách ngoại giao của Mỹ đăng trên tờ báo này vào ngày 25-2 (thư riêng, 24-3-1958).
(6) A General of the Secret Service, trang 30.
(7) Dragon Ascending, trang 40.
(8) No Peace, No Honor, trang 63-64. Xem thêm Lưu Văn Lợi - Nguyễn Anh Vũ. Các cuộc thương luọng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris (Hà Nội: Nhà xuất bản Thế Giới, 1996).
(8) Phỏng vấn Ẩn; đoạn này ban đầu đã được kể lại trong cuốn A General of the Secret Service, trang 27.
(10) Dragon Ascending, trang 37; phỏng vấn Ẩn.
(11) David G. Marr, Vietnam 1945: The Quest for Power (Berkeley: Nhà xuất bản University of California Press, 1995).
(13) Sách đã dẫn, trang 534.
(13) Sách đã dẫn, trang 532.
(14) Những người miền Nam theo Cao Đài và Hòa Hảo dần trở nên bất hòa với Việt Minh. Chưa đầy một tuần sau khi ông Hồ Chí Minh phát biểu tại Quảng trường Ba Đình, các đơn vị Hòa Hảo đã đánh nhau với Việt Minh ở Cân Thơ. Người sáng lập đạo Hòa Hảo, ông Huỳnh Phú Sổ, bị bắt và bị Việt Minh xử tử.
(15) Vietnam 1945, trang 535.
(16) Xem Mark Bradley, Imagining Vietnam and America: The Making of Post-colonial Vietnam, 1919-1950 (Chapel Hill: Nhà xuất bản University of North Carolina Press, 2000).
(17) Sách đã dẫn
(18) Xem Xuân Phương và Danièle Mazingarbe, Ao Dai: Mỹ War, Mỹ County, Mỹ Vietnam (Great Neck, NY: Nhà xuất bản EMQUAD International, 2004), trang 5.
(19) Dragon Ascending, trang 40. Ông Ẩn xác nhận điều này khi tôi phỏng vấn.
(20) “Bà tới thăm Sài Gòn, Đông Dương, từ 16 đến 23-3-1950 và chứng kiến các chiến dịch của Việt Minh nhằm chống chính quyền Pháp”
http: / / WWW. vietnampro j ect.ttu.edu/dd786/ship's.htm.
(21) Phạm Xuân Ẩn: Tên người như cuộc đời, trang 20-21; A General of the Secret Service, trang 25.
(22) Cụm từ “chim mồi” lần đầu tiên xuất hiện trong tài liệu của Kamm, sau này tôi đâ được Ẩn xác nhận rằng đó chính là cảm giác của ông lúc bấy giờ.
(23) A General of the Secret Service, trang 25-26.
(24) James Lawton Collins Jr, The Development and Training of the South Vietnamese Army, 1950-1972 (Washington, D.C.: Bộ Lục quân, 1975).
(25) http://www.army.mil/cmh/books/Vietoam/FA54-73/ch2.htm, “The Advisory Effort, 1950-1965”. Xem Ronald H. Spector, Advice and Support: The Early Years of the U.S. Army in Vietnam, 1941-1960 (New York: Nhà xuất bản Free Press, 1985), trang 289. Tôi sử dụng nhiều tu liệu từ cuốn sách siêu hạng của Spector.
(26) Tại một cuộc họp của Hội đồng Ẩn ninh Quốc gia vào cuối tháng 10-1954, Tổng thống Eisenhower nói rằng Việt Nam cần có “một lực lượng người Việt để ủng hộ ông Diệm. Vì thế, hãy bắt tay vào làm để tạo ra điều đó”. Được dẫn trong David M. Toczek, The Battle of Ap Bac, Vietnam: They Did Everything but Learn from It (Westport, CT Nhà xuất bản Greenwood Press, 2001), trang 6; FRUS, 1952-1954, tập 13. XIII, Indochina, 2156- 2157, 2161; Advice and Support, Chương 6.
(27) Phỏng vấn ông Ẩn.
(28) Richard Pyle, “During the War, Vietnamese Joumalist-Spy Lived in Ttoo Worlds”, AP, 28A2000.
(29) Phỏng vấn Nguyễn Thái.
(30) Về Lansdale, xem Jonathan Nashel, Edward Latisdale's Cold War (Amherst: Nhà xuất bản University of Massachusetts Press, 2005).
(31) Sedgwick Tourison, một nhân vật uy tín trong làng tình báo, viết rằng vào năm 1954 “Phạm Xuâp Ẩn, một người Việt Nam có vẻ ngoài trẻ trung, đã liên hệ với Đại tá Lansdale và các đồng sự của ông… Điều mà nhóm của Lansdale không hề biết đó là Phạm Xuân Ẩn đã là một sĩ quan tình báo của Cộng sản trong một thập niên với mối quan tâm đặc biệt đối với chiến dịch của Lansdale”. Secret Army, Secret War: Washington's Tragic Spy Operation in North Vietnam (Annapolis: Nhà xuất bản Naval Institute Press, 1995), trang 8.
(32) Phỏng vấn Phillips.
(33) Năm 2002, Phillips trở lại Việt Nam và có cuộc gặp đầy cảm xúc với ông Ẩn, đặc biệt là bữa tối tại khách sạn Majestic.
(34) Phỏng vấn ông Mai Chí Thọ.
(35) Xem Hồ sơ của CIA trình ủy ban 303, Bộ Ngoại giao, Hỏ sơ Lịch sử INR/IL, Giác thư của ủy ban 303, 22.6.1966, tài liệu hạn chế phổ biến. Quan hệ Ngoại giao của Mỹ (FRUS), hồ sơ LBJ132.
(36) “IRC Program Planning Brings Diplomat to OCC”, Barnacle, 19-12-1958.
(37) Ông Diệm từ Mỹ tới Paris vào tháng 5-1953, đúng một năm trước khi ông được bổ nhiệm, để vận động Bảo Đại. Tới tháng 10, hai người gặp nhau tại Cannes, họ bàn về khả năng Diệm nắm quyền thủ tướng, thời điểm này là đúng sáu tháng trước trận Điện Biên Phủ và hội nghị Geneva khai cuộc. Xem các nguồn: Edward Miller, “Vision, Power and Agency: The Ascent of Ngo Dinh Diem, 1945-54”, Journal of Southeast Asian Studies, trang 35, so 3 (10.2004) 433-458; xem thêm, Edward Miller, “Grand Designs: Vision, Power and Nation building in America's Alliance with Ngo Dinh Diem, 1954- 1960” (luận án tiến sĩ, Harvard, 2004), trang 89.
(38) “Người Pháp đã không dựa vào một nhà điều phối như Lansdale”, Zalin Grant viết. “Những hành động của Lansdale, và do ông có thể hoạt động một cách rất tự do, là niềm tin của hầu hết quan chức Mỹ từ thời Franklin Roosevelt rằng sẽ không hoàn thành được điều gì tại Việt Nam cho đến khi thực dân Pháp bị loại khỏi bức tranh”. Zalin Grant, Facing the Phoenix: The CIA and the Political Defeat of the United States in Vietnam (New York: Nhà xuất bản W. W. Norton, 1991), trang 103.
(39) Xem Edward Lansdale, In the Midst of Wars (New York: Nhà xuất bản Harper & Row, 1972), trang 171.
(40) Với việc xe tăng của Hinh trấn giữ cách đấy vài tòa nhà, người ta đồn rằng Hinh, vốn là một công dân Pháp với hàm cấp tướng trong không quân Pháp, đang sắp sửa tiến hành chống Diệm, sử dụng hàng loạt kế hoạch để ngăn chận hành động quyết định của Trung tá Hinh, Lansdale còn đi xa hơn nữa khi tổ chức các đợt “học hỏi” đột xuất tại Manila về kinh nghiệm chống quân nổi dậy của người Philippines và gặp Tổng thống Magsaysay. Nguyễn Thái có mặt trong các chuyến đi này với tư cách đại diện cho Diệm, và ong kể với tôi rằng “trong tất cả các chuyến đi ấy, Lansdale đảm bảo rằng Đại úy Mẫn và Đại úy Vượng, là cánh tay mặt và tham mưu kế hoạch cho ông Hinh, luôn có mặt trong đoàn. Không có Mẫn và Vượng ở Sài Gòn, Hinh sẽ không cách gì có thể làm đảo chính lật đổ Thủ tuớng Ngô Đình Diệm”.
(41) Xem J. Lawton Collins, Chương 19, “Mission to Vietnam”, trong sách Lightning Joe: Ẩn Autobiography (Novato, CA: Nhà xuất bản Presidio Press, 1979).
(42) Quan hệ ngoại giao của Mỹ, 1955-1957, tập 1: Vietnam (Washington, D.C.: Văn phòng ấn loát Chính phủ Mỹ, 1985), trang 292-293.
(43) Kent nói với Dulles, 23.4.1955; sách đã dẫn.
(44) Trong Bản ghi chú làm hồ sơ lưu đề ngày 27-4-1955, Kent viết: “Tướng Collins đã xem xét tình hình ở miẻn Nam Việt Nam. Ồng ta nói rằng sau hàng tháng trời no lực làm việc với Ngô Đình Diệm, ông ta đã đi đến kết luận rằng Thủ tướng khóng có năng lực hành pháp để kiểm soát “những người có cá tính mạnh, rằng ông ta thương đi giải quyết mấy chuyện lặt vặt và không hề có được một ý tưởng có tính xay dựng nào kể từ khi nắm quyền”. Tương tự, Collins cũng quyết định rằng phải thay thế Lansdale, nên đã nói với Ngoại trưởng Dulles rằng Lansdale thật là điên khi tin rằng có thể cứu Nam Việt Nam mà vẫn để Diệm nắm quyền.
(45) Xem Neil Sheehan, A Bright Shining Lie (New York: Nhà xuất bản Random House, 1988) trang 140-1; xem thêm Philip E. Catton, Diem's Final Failure: Prelude to America's War in Vietnam (Lawrence, KS: Nhà xuất bản University Press of Kansas, 2003), trang 10-11.
(46) Tài liệu Bộ Ngoại giao gửì tới Sài Gòn, 1.5.1955, FRUS, 1955-1957, tập 1, 344-345.
(47) Tiger in The Barbed Wứe, trang 151; Edward Lansdale’s Cold War, trang 64
(48) John Osborne, “The Tough Miracle Man of Asia”, tạp chí Life, 13-5-1957, trang 156-176.