Trấn Lưu Gia đoàn tụ người nhà,
Tĩnh tâm tự đầu mối lại về
Thành Đông Đô, cửa phía đông nam gọi là Trần Châu môn, cách
đó mười dặm là núi Nam Hoa. Cửa chính nam gọi là Nam Huân môn, xa xa cách cửa
thành mười dặm là trấn Thảo Thị, bởi các gia đình trong trấn phần lớn đều mang
họ Lưu nên nơi đây còn được gọi là trấn Lưu Gia.
Trấn Lưu Gia này tuy chỉ là trấn nhỏ nhưng vì nằm trên trục
đường trọng yếu dẫn đến kinh thành Biện Lương nên mới phát triển thịnh vượng
như vậy, hàng hóa từ khắp nơi đổ về tràn ngập trên phố, người mua kẻ bán tấp nập,
vô cùng náo nhiệt và sầm uất. Dân cư nơi đây hơn năm trăm hộ, đều lấy việc kinh
thương làm kế sinh nhai.
Theo lý mà nói, trấn Lưu Gia này là nơi giao thương trọng yếu,
khách vãng lai, lái buôn qua lại vô số, từ nam ra bắc đủ mọi loại người, người
trong trấn đã gặp rất nhiều, không còn cảm thấy kỳ lạ từ lâu. Nhưng trưa hôm
nay, có ba người tới đây lại khiến cho mọi người trong trấn bát giác đều dừng
chân, ngoái đầu mà quan sát họ.
Trong ba người ấy, đi đằng trước là một thanh niên áo lam.
Chàng thanh niên này, mặc áo tuyền một sắc lam, thắt lưng
màu trắng, tay cầm một thanh kiếm cổ kiếm vỏ trắng, toàn thân trên dưới chẳng
mang theo vật tùy thân xa hoa nào, nhưng dáng người thẳng như thân tùng, khí chất
nho nhã, lại khiến cho những viên ngọc long lanh trên phố cũng mất đi vẻ quyến
rũ; lại nhìn tướng mạo của người thanh niên ấy, dung nhan tuấn tú văn nhã, đôi
mắt đen huyền sáng lấp lánh, lông mày lưỡi mác, phong thái cùng khí độ hiệp
nghĩa của chàng thật không bút nào tả cho xiết, khiến người ta cứ phải tấm tắc
mãi không thôi.
Nhưng hai người thanh niên phía sau lại khiến cho người ta
chẳng thể nào khen được nửa chữ.
Một người mặc áo vải màu xám tro, thân hình gầy nhẳng như
cây sậy, hai mắt lấp lánh, tuổi cũng chỉ khoảng trên dưới mười bảy, nhưng lại
trưng ra bộ dạng trưởng thành dày dặn kinh nghiệm, tò tò đi theo sau chàng
thanh niên áo lam một tấc cũng không rời, tựa như miếng cẩu bỉ cao[1] mà mấy
tay giang hồ vẫn bán.
[1] Cẩu bỉ cao: dịch nôm na là “cao da chó”, một loại cao
dán của Trung Quốc, có công dụng như thuốc giảm đau tạm thời, đau đâu dán đó.
Người kia lại càng kỳ quái hơn, thân hình lùn xủn mặc một
chiếc áo màu đen, eo thì bé tí tị, lưng mỏng dính thẳng đuỗn, da dẻ trắng bóc,
hai mắt nhỏ dài, khuôn mặt non nớt tựa hồ chưa qua tuổi thiếu niên nhưng lại có
dáng đi khom khom như bà còng, chân đi bước thấp bước cao. Nếu như không nhìn mặt
thì dù nói đó là ông lão bảy, tám mươi tuổi cũng có người tin. Nhưng quan sát kỹ
thì thấy thiếu niên này không phải bị cong bẩm sinh, mà bởi đang cõng một cái bọc
màu đen như cái mai rùa trên lưng.
Ba người này, hình dáng tư thái khác nhau một trời một vực,
nhưng lại đi cùng nhau đương nhiên là rất kỳ lạ rồi. Mà càng quái lạ hơn là, họ
đến nơi phố chợ buôn bán sầm uất tấp nập này mà lại chẳng xem hàng hóa, cũng chẳng
ngắm cửa hiệu, hàng buôn, cứ chuyên chú quan sát nhà cửa, tiểu viện. Nếu nói là
tìm người thì lại chẳng thấy họ hỏi ai, đi qua phố lớn vòng vào ngõ nhỏ hồi
lâu, họ cứ chậm rãi bước mà không ngừng lại, chỉ là thần sắc càng lúc càng trở
nên nghiêm trọng, không khỏi khiến người khác thầm phỏng đoán.
Mọi người thì khó hiểu trong lòng còn ba người này cũng chẳng
khá hơn gì. Hành vi của họ kỳ quái như vậy không vì nguyên nhân gì khác mà
chính là do người dẫn đường, trí nhớ suy giảm thì không nói làm gì, lại còn là
một cái ô bồn mắt kém nữa chứ.
Ba người này chính là đoàn Triển Chiêu phụng mệnh xuất hành.
Rời khỏi phủ từ sáng sớm, đi liên tục hai canh giờ mới đến được trấn Lưu Gia.
Nhưng vì ô bồn trí nhớ không tốt, lại bị bọc trong vải đen, tầm nhìn hạn chế,
thế nên họ tìm mãi vẫn không ra nhà của Lưu Thế Xương.
Đi lòng vòng trong trấn gần một canh giờ, cuối cùng đoàn người
cũng dừng chân trước cổng một căn nhà ba gian bao bọc bởi sân vườn, nghỉ ngơi
quan sát.
Kim Kiền thấp giọng hỏi: “Lưu ô bồn, ngươi ngàn vạn lần đừng
có chậu rửa mặt không muốn lại thích làm chậu rửa chân, nhìn cho kỹ đi, đây có
đúng là nhà ngươi không?”.
“Tuyệt đối không thể sai được”, ô bồn phía sau lưng Kim Kiền
đáp.
Ba người nghe vậy mới thở phào nhẹ nhõm.
Triển Chiêu tiến lên trước một bước, khẽ gõ cửa, giọng nói
sang sảng vang lên: “Xin hỏi có ai ở nhà không?”.
Chợt nghe một giọng nữ trong trẻo từ trong sân truyền ra,
đáp lại: “Ai đó?”.
“Xin hỏi đây có phải là quý phủ của Lưu huynh, Lưu Thế Xương
không?”
Rồi có tiếng bước chân hối hả từ xa bước đến gần, kẹt một tiếng
cánh cửa gỗ mở ra, một người phụ nữ xuất hiện ở cửa.
Người phụ nữ này mặc một chiếc áo dài hoa màu xanh nhạt, phần
tay áo lại có màu xanh lơ, quần lụa màu tím, tóc bới cao hình trôn ốc, trâm bạc
cài lệch một bên, dung nhan yêu kiều, dáng hình yểu điệu. Nhìn thấy ba người
trước cửa nàng không khỏi có phần kinh ngạc, nhưng ngay lập tức khôi phục dáng
vẻ bình thường, nhẹ giọng nói: “Ba vị biết tướng công tôi?”.
Kim Kiền cảm thấy ô bồn sau lưng đột nhiên rung lắc không ngừng,
thiếu chút nữa thì rớt ra khỏi túi rơi xuống đất, liền vội vàng nắm thật chặt
cái túi, len lén đưa tay ra sau lưng gõ hai cái, ô bồn kia mới dần yên ắng trở
lại.
Triển Chiêu chắp tay thi lễ nói: “Chúng tôi đích thực là
quen biết Lưu huynh, lần này đến đây chính là để thay Lưu huynh chuyển đến quý
phủ một món đồ”.
Lưu thị nghe xong vội hỏi tiếp: “Đưa đồ? Không biết mấy vị gặp
tướng công tôi khi nào?”.
Triển Chiêu hơi sững lại, đáp: “Là nửa năm trước”.
“Nửa năm trước…”, Lưu thị khẽ cúi đầu, miệng lẩm bẩm, im lặng
hồi lâu mới hỏi: “Không biết tướng công tôi ủy thác cho các vị đưa món đồ gì?”.
“Là một cái ô bồn.”
“Ô bồn?”, Lưu thị nghe xong, khuôn mặt mang theo vẻ kinh ngạc,
mắt ánh lên tia nhìn nghi hoặc, cẩn thận đánh giá ba người đối diện. Nhưng thấy
người thanh niên áo lam ánh mắt chính trực, thần sắc đĩnh đạc, khí chất nho
nhã, không giống phường gian ác hại người; lại nhìn sang hai người bên cạnh, tuổi
còn chưa qua thiếu niên, mới an tâm phần nào, nép mình sang bên để mấy người họ
tiến vào, sau đó mời họ vào nhà ngồi.
Đợi mấy người họ an tọa xong, Lưu thị mới mở miệng hỏi: “Chẳng
hay cái ô bồn đó đâu?”.
Triển Chiêu không đáp mà hỏi ngược lại: “Xin hỏi Lưu đại tẩu,
chúng tôi mang ô bồn đến đây, nhưng vì sao không thấy Lưu huynh?”.
Câu hỏi này rất kỳ lạ, hai người Trịnh Tiểu Liễu và Kim Kiền
nghe xong cũng sửng sốt.
Kim Kiền nghĩ bụng: Con mèo này bị ngố à? Nửa năm trước Lưu
Thế Xương đã bị người ta sát hại, ngay cả xác còn bị nung thành ô bồn, mà cái ô
bồn ấy đang ở trên lưng mình đây, giờ lại hỏi thê tử người ta rằng Lưu Thế
Xương ở đâu, thật chẳng hiểu ra làm sao nữa!
Lưu thị nghe xong không cảm thấy kỳ lạ, sắc mặt trầm xuống,
thấp giọng đáp: “Mấy vị không biết đấy thôi, nửa năm trước tướng công đi ra
ngoài nhập vải, ai ngờ đi liền một mạch không có tung tích, đã nửa năm rồi mà vẫn
chưa quay về nhà”.
Triển Chiêu hơi nhướng mắt, lại hỏi: “Vậy có thư từ gì gửi về
không?”.
Lưu thị lắc đầu nói: “Đầu tháng Giêng có nhận được một bức
thư, trong thư tướng công nói tết Nguyên Tiêu nhất định sẽ về nhà sum họp.
Nhưng tết Nguyên Tiêu hôm ấy tôi và Bách Nhi đợi cả đêm cũng vẫn không thấy
bóng dáng tướng công, từ đó đến nay bặt vô âm tín… cũng không biết hiện giờ tướng
công ở đâu, còn sống hay đã chết…”.
Giọng Triển Chiêu hơi cao, nói: “Bách Nhi không đợi được
cha, nhất định sẽ thất vọng”.
“Điều đó là đương nhiên rồi, Bách Nhi còn giận tưởng tướng
công không giữ lời hứa, vì chuyện đó mà ấm ức mấy ngày liền.” Lúc này những cảm
xúc lo lắng trong lòng bộc phát nên Lưu thị không chú ý nhiều, chẳng hề cảm thấy
câu hỏi của người đối diện đều mang vẻ thăm dò.
Nhưng Kim Kiền khi nghe đến đây lập tức hiểu ra, không khỏi
kinh ngạc, thầm lẩm bẩm trong lòng: Ai da, con mèo này cẩn thận quá! Mặc dù
chính miệng ô bồn kêu oan, lại đích thân dẫn đường tới được nơi này, nhưng Tiểu
Miêu vẫn đối chứng lại lời của vợ Lưu Thế Xương và y, thăm dò từng câu để kiểm
chứng toàn bộ lời khai của Lưu Thế Xương, ngay cả tên con trai y cũng kiểm tra
cẩn thận. Chậc chậc, Tiểu Miêu quả là con mèo thượng đẳng của nhà lão Bao, mức
độ chuyên nghiệp quả nhiên là hơn hẳn mình!
Triển Chiêu nghe xong, thần sắc mới bình thường trở lại, sau
đó quay sang nói với Kim Kiền: “Kim Kiền, đem ô bồn ra”.
Kim Kiền vội tháo cái bọc trên lưng xuống, đặt ra giữa bàn,
nói với Lưu thị: “Lưu đại tẩu, ô bồn ở trong cái bọc này”.
Lưu thị nghe vậy mới lấy lại tinh thần, đứng dậy định mở bọc
ra thì bị Kim Kiền ngăn lại: “Lưu đại tẩu, ô bồn này không giống như những vật
bình thường khác, không thể bị ánh sáng chiếu vào, có thể phiền Lưu đại tẩu
đóng cửa sổ, cửa chính, che ánh mặt trời đi rồi mới mở ra được không?”.
Nghe những lời này Lưu thị vô cùng kinh ngạc, thầm nghĩ: Xem
ô bồn mà phải đóng cửa sổ, cửa chính, như thế là đạo lý gì? Bất giác Lưu thị
nhìn sang hai người còn lại.
Chỉ thấy người thanh niên áo lam cùng cậu thiếu niên áo màu
tro xám đều gật đầu tán đồng, Lưu thị thấy vậy cũng không phản đối, đứng dậy
đóng cửa chính và cửa sổ lại.
Kim Kiền không biết, đêm qua nghe Công Tôn tiên sinh quyền
uy của Khai Phong phủ phỏng đoán lung tung một phen, kẻ trên người dưới khắp
Khai Phong phủ đều cho Kim Kiền là người có “thiên phú dị bẩm”, giờ lại nghe lời
nói có ẩn giấu huyền cơ này, Triển, Trịnh hai người lại càng cảm thấy lời của
Công Tôn tiên sinh có lý, rất tự nhiên liền tán đồng theo. Kỳ thực lời của Kim
Kiền vốn chẳng có căn cứ gì cả, chỉ là dựa trên những bộ phim truyền hình cũ
rích thời hiện đại mà phòng ngừa chuyện bất trắc xảy ra mà thôi, nhưng lại vô
tình càng tăng thêm độ tin cậy thân phận “thiên phú dị bẩm” của mình, sau này
khi Kim Kiền hồi tưởng lại thật sự là có hối hận cũng không kịp nữa.
Đợi đến khi Lưu thị đóng tất cả các cửa rồi quay lại chỗ ngồi,
Kim Kiền mới từ từ mở bọc đồ, lấy ô bồn ra đặt xuống trước mặt Lưu thị, nói:
“Lưu ô bồn, thê tử của ngươi đang ở trước mặt, còn không mau ra nhận?”.
Ô bồn khẽ rung động, nghẹn ngào nói: “Nương tử, vi phu cuối
cùng cũng gặp được nàng rồi…”.
Lưu thị vừa nghe sắc mặt liền biến đổi, đôi môi trắng bệch
như tờ giấy, run lẩy bẩy nhưng lại không phát ra nổi tiếng nào. Đôi mắt cứ nhìn
chằm chằm vào ô bồn, rất lâu sau mới run run hỏi: “Ông… ông… ông… cái ô… ô bồn
này… vì… vì sao…”.
Ô bồn nghe thế liền khoc lóc thảm thiết, nói: “Nương tử, vì
sao nàng ngay cả giọng nói của vi phu cũng không nhận ra?”.
Thần sắc Lưu thị đình trệ, chầm chậm ngẩng đầu lên nhìn khắp
lượt mọi người trong phòng, nhưng thấy vẻ mặt nghiêm túc, cúi đầu không nói lời
nào của họ, cả người Lưu thị run rẩy dữ dội, lập tức gục xuống bàn, hai tay ôm
chặt lấy ô bồn, nước mắt lã chã như chuỗi trân châu bị đứt dây rơi xuống ô bồn,
tí tách từng giọt, nức nở thê lương: “Tướng công, tướng công… chàng… vì sao
chàng lại thành thế này?”.
“Nương tử, vi phu chết oan uổng lắm…”, ô bồn vừa khóc vừa nói,
đem cảnh ngộ mình bị sát hại như thế nào, rồi bị nung thành ô bồn ra sao, sau
đó đến được Khai Phong phủ kêu oan thế nào, tra được nơi ở của huynh đệ họ Ngô
kia ra làm sao,… Nói hai câu lại khóc một cậu, cứ ngắt quãng như thế mà kể lại
mọi chuyện cho thê tử mình nghe. Lưu thị càng nghe càng đau lòng, càng nghe
càng sầu muộn, nghe đến cuối cùng, một người, một bồn ôm nhau khóc lóc thảm thiết,
nức nở không nên lời.
Không biết hai người đã khóc được bao lâu rồi, Kim Kiền chỉ
cảm thấy trời đất gió mây đều như biến sắc, cổ lưng, cơ bắp toàn thân đều cứng
đờ, khi ấy một người một bồn bên kia mới có dấu hiệu dừng lại.
Tiếng khóc vừa mới ngừng liền thấy Lưu thị ôm ô bồn quỳ sụp
xuống đất, khấu đầu nức nở: “Ba vị quan gia, xin hãy thay tướng công làm chủ, bắt
đôi huynh đệ sát nhân kia, báo thù cho tướng công dân phụ!”.
Triển Chiêu vội tiến lên, khẽ đưa tay ra, nhẹ nhàng nói:
“Lưu đại tẩu không cần phải như thế. Bao đại nhân đã thụ lý vụ án này, tất sẽ bắt
hung thủ về chịu tôi trước pháp luật”.
Lưu thị nghe vậy mới từ từ đứng dậy, gạt nước mắt nói: “Dân
phụ đa tạ quan gia”.
Lại nghe ô bồn nói: “Nương tử, lần này vi phu có thể giải
oan được đều may nhờ có vị tiểu quan gia Kim Kiền này đây”.
Lưu thị nghe xong, vội khom người quỳ xuống nói: “Lưu thị đa
tạ tiểu quan gia giúp đỡ”.
Kim Kiền bị hành động quỳ gối của Lưu thị dọa khiến cho da đầu
tê dại, thầm nghĩ: Thật là bái phục mấy vị tổ tiên cổ đại, ba bước một quỳ, năm
bước một lạy. Chưa bàn đến vấn đề dương thọ của mình bị hao tổn đi bao nhiêu,
hãy nói đến chuyện thời gian dành cho việc quỳ với lạy này lãng phí đi thế nào,
nếu cứ vậy thì làm gì còn thời gian mà tra án nữa, mà không tra án thì chuyện
này sao có thể điều tra rõ ràng được, vậy mình lại phải tiếp tục làm rùa ô bồn
à? Hừ hừ, xem ra mình mà không ra tay đốc thúc để tăng hiệu suất phá án thì
không được.
Nghĩ đến đây, Kim Kiền bước hai bước lên phía trước, đỡ Lưu
thị dậy rồi nói: “Đại tẩu không cần phải tạ ơn, lần này chúng tôi đến đây,
ngoài việc hộ tống Lưu huynh trở về quê nhà, còn là mong đại tẩu hỗ trợ tra
án”.
Lưu thị nghe xong chẳng những không an tâm, ngược lại nước mắt
tiếp tục tuôn như mưa, nói: “Nhưng tướng công nói, manh mối nay đã không còn,
hung thủ cũng chẳng biết tung tích, làm sao phá án được? Dân phụ, dân phụ chỉ
xin các quan gia hãy làm chủ cho dân phụ và tướng công!”, dứt lời, tâm tình
kích động khó đè nén được, Lưu thị lại khom người, gập gối, dáng vẻ như muốn quỳ
xuống tiếp.
Kim Kiền nhanh tay lẹ mắt, lại đưa tay ra đỡ Lưu thị, thốt
lên: “Đại tẩu không cần lo lắng, có Ngự tiền tứ phẩm đới đao hộ vệ, Ngự Miêu do
đích thân hoàng thượng ngự phong, Triển đại nhân ở đây, cho dù lũ tội phạm kia
có đào hang trốn, chúng tôi cũng có thể quật ba thước đất lên bắt bằng được”.
Những lời này quả nhiên có tác dụng, Lưu thị lập tức ngừng
khóc, nhìn Kim Kiền hỏi: “Ngự Miêu? Triển đại nhân?”.
“Không sai, không sai”, Kim Kiền vội túm ống tay áo Triển
Chiêu kéo lại, đẩy đến trước mặt Lưu thị, tiếp tục nói: “Đây chính là Triển đại
nhân của Khai Phong phủ chúng tôi, công phu đệ nhất thiên hạ, bản lĩnh điều tra
thuộc hàng thượng thừa, khả năng bắt chuột… khụ, à bắt tội phạm lại càng không
phải bàn”.
“Kim Kiền”, giọng Triển Chiêu hơi cao, vẻ bất đắc dĩ.
Kim Kiền liếc mắt một cái, chỉ thấy sắc mặt Triển Chiêu
không vui, thầm nghĩ không hay rồi, liền vội vàng trưng bộ mặt tươi cười ra hỏi:
“Triển đại nhân, ngài có gì cần sai bảo?”.
Triển Chiêu khẽ cử động cánh tay, kín đáo thu ống tay áo về,
liếc Kim Kiền một cái.
Cái liếc mắt này mang theo ánh nhìn sắc nhọn khiến Kim Kiền
gai gai sống lưng, vội vàng giơ hai tay lên, cười khan hai tiếng, lui sang một
bên, nghĩ bụng: Con mèo này xấu tính quá, mà hình như còn có bệnh cuồng sạch sẽ
nữa, sau này ít đụng chạm đến là hơn.
Triển Chiêu lúc này mới thong thả cất tiếng hỏi Lưu thị:
“Lưu đại tẩu, Triển mỗ có mấy câu hỏi, mong đại tẩu có thể giải đáp cho Triển mỗ”.
Lưu thị vội trả lời: “Triển đại nhân cứ hỏi”.
Triển Chiêu gật đầu hỏi: “Lưu Thế Xương thường đến chỗ nào
nhập vải vóc?”.
“Mỗi lần tướng công đều đến Tô Châu mua hàng.”
“Vậy mỗi lần nhập hàng phải chăng đều là cùng một tiệm?”
Lưu thị lắc lắc đầu nói: “Nhà dân phụ vốn chỉ kinh doanh
buôn bán nhỏ, mỗi lần nhập hàng đều không cố định ở một tiệm nào cả. Triển đại
nhân vì sao lại hỏi vậy?”.
Triển Chiêu nghe xong lại chau mày trầm tư, im lặng không
đáp.
Lưu thị không khỏi có chút lo lắng, vội ngước mắt nhìn sang
Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu.
Kim Kiền thấy Trịnh Tiểu Liễu bên cạnh nhấp nhổm muốn nói,
liền thì thầm gợi ý: “Tiểu Lục ca, sao còn không tiến lên trợ giúp Triển đại
nhân?”.
Trịnh Tiểu Liễu nghe vậy mừng rỡ, vội tiến lên hai bước, ưỡn
ngực nói: “Lưu đại tẩu, bởi đôi huynh đệ Ngô thị kia giết người cướp của, sau
này tất sẽ phải đem số hàng đoạt được ra bán. Nếu mỗi lần tướng công tẩu nhập
hàng ở cùng một cửa hiệu, như vậy trên vải đều có kí hiệu của cửa hàng ấy,
chúng tôi bắt tay vào điều tra từ đó, vụ án mới có phương hướng giải quyết”.
Lưu thị lúc này mới hiểu ra, nhưng sắc mặt tối sầm xuống,
cúi đầu suy nghĩ.
Ô bồn buồn bã nói: “Đều tại vi phu không tốt, rất nhiều việc
quan trọng lại hoàn toàn không nhớ gì, nếu không…”.
Lưu thị nghe vậy lại như nhớ ra điều gì, đột nhiên reo lên:
“Triển đại nhân, dân phụ nhớ ra rồi, trước khi xuất môn tướng công có nói, lần
này đến Tô Châu nhập hàng, sẽ chọn mua lụa Vân Cẩm”.
“Lụa Vân Cẩm?”, Triển Chiêu ngước lên hỏi: “Lụa Vân Cẩm này
là loại lụa gì?”.
Lưu thị đáp: “Triển đại nhân không biết đấy thôi, Vân Cẩm là
tơ lụa đặc chế hàng đầu ở Tô Châu, chất lụa mềm như nước, màu sắc đẹp mà quý
phái, giá thành đắt vô cùng. Trước đây đã nhiều lần tướng công muốn nhập về
bán, nhưng ngặt nỗi vốn chẳng đủ. Đến năm nay mới tích đủ ngân lượng, dự định
chuyến này đi nhập hàng sẽ mua về một cuộn để làm phong phú thêm cho cửa tiệm.
Chẳng ngờ, một đi không trở lại…”, nói rồi lệ lại tuôn chảy như mưa.
Triển Chiêu trầm ngâm giây lát, rồi nói: “Theo lời đại tẩu
thì lụa Vân Cẩm này rất hiếm?”.
Lưu thị gật gật đầu.
Trịnh Tiểu Liễu nghe xong nhất thời hiểu ra, bước lên một bước
nói: “Triển đại nhân, nếu thế thì chúng ta có thể bắt đầu điều tra từ lụa Vân Cẩm”.
Triển Chiêu nhìn Trịnh Tiểu Liễu, gật đầu, suy nghĩ một lát
rồi thuận miệng hỏi: “Vậy theo ý của ngươi, nên điều tra như thế nào?”.
“Việc này… thuộc hạ… thuộc hạ…”, Trịnh Tiểu Liễu bỗng ngắc
ngứ, vò đầu bứt tai, mắt đảo mấy vòng nhưng cũng không biết nên trả lời như thế
nào. Liếc sang bên cạnh, thấy Kim Kiền đang lén ngáp một cái, Trịnh Tiểu Liễu
không khỏi chấn động, thầm nghĩ: Kim Kiền hành động như thế ắt đã có dự liệu rồi,
chi bằng hỏi cậu ta xem sao.
Nghĩ vậy, Trịnh Tiểu Liễu liền cao giọng nói: “Triển đại
nhân, thuộc hạ cảm thấy Kim Kiền đã có chủ ý”.
Về phần Kim Kiền, cõng oan hồn ô bồn trên lưng cả hai ngày
trời, tất nhiên mệt mỏi vô cùng, đang định trang thủ ngủ gật một chút thì đột
nhiên nghe thấy Trịnh Tiểu Liễu đá vấn đề sang cho mình, không khỏi thầm kêu khổ
trong lòng.
Triển Chiêu, giọng gấp gáp, hỏi: “Kim Kiền, ngươi có chủ ý
gì?”.
Kim Kiền ngước lên, chỉ thấy ánh mắt Triển Chiêu bừng sáng
như sao, còn Trịnh Tiểu Liễu gương mặt mang theo vẻ chờ đợi, lại thêm Lưu thị vẻ
mặt vạn phần kỳ vọng, nếu ô bồn mà cũng biết thể hiện nét mặt chắc cũng chỉ như
thế mà thôi.
“Việc này…”, da đầu Kim Kiền ngứa râm ran, miệng ngắc ngứ
không nói thành lời, thầm nghĩ: Bà nó, vấn đề có độ khó cao thế này mình làm
sao giải đáp nổi! Đám người này đang làm cái quỷ gì thế, coi mình là Conan,
Kindaichi hay Sherlock Holmes à? Cho dù tế bào não của mình tiến hóa hơn mấy
trăm năm cũng không có công năng phá án! Haizzz… thứ tình huống tiến thoái lưỡng
nan này, mình đành phải phát huy tuyệt học của lão Trương, tổ sư khai sáng phái
Võ Đang – đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau.
Nghĩ vậy, Kim Kiền lập tức bày ra vẻ mặt khiêm tốn muốn thụ
giáo, hướng Triển Chiêu hỏi: “Theo cao kiến của Triển đại nhân thì nên làm thế
nào?”, còn bụng thì nghĩ: Trước tiên cứ đem vứt “củ khoai nóng bỏng tay” này đã
rồi tính sau.
Triển Chiêu trầm ngâm một lát mới nói: “Nếu lụa Vân Cẩm này
giá thành đắt đỏ như vậy thì sẽ có rất ít cửa hàng bán, chúng ta điều tra các cửa
hàng bán loại lụa này có lẽ sẽ tìm được manh mối gì đó”.
Kim Kiền nghe xong nhất thời hoan hỉ, nghĩ thầm: Mình biết
ngay mà, kinh nghiệm của Tiểu Miêu phong phú, nhất định sẽ có biện pháp.
Nhưng lại thấy Triển Chiêu nói: “Chỉ là những cửa hàng bán vải
ở Khai Phong có rất nhiều, cứ dò hỏi như thế thì không biết đến khi nào mới có
kết quả”.
Lưu thị nghe xong nhất thời nóng lòng như lửa đốt, lại ôm ô
bồn khóc lóc: “Tướng công ơi, phải làm gì bây giờ? Nay oan hồn chàng bị phong bế
trong ô bồn, bị người ta đem ra mua bán đổi chác, trong khi đó kẻ sát nhân lại
nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, tướng công ơi… Thiên lý ở đâu?”.
Ô bồn cũng gào khóc theo, hai vợ chồng kẻ khóc người than, bằng
trắc hợp vận, thực như ma âm xuyên thủng lỗ tai, uy lực vô cùng.
Kim Kiền chỉ thấy đầu óc bỗng như to ra, tế bào não đều lao
nhao phản đối, chức năng phòng vệ tự khởi động, đột nhiên trong óc lóe lên cái
gì đó, bất giác Kim Kiền buột miệng quát: “Im lặng!”.
Phu phụ lưu thị liền ngưng khóc, cùng Triển Chiêu, Trịnh Tiểu
Liễu nhìn chăm chăm về phía Kim Kiền.
Kim Kiền khẽ thở ra một hơi, rùng mình mấy cái liền, sau đó
hạ giọng hỏi: “Đại tẩu, núi Nam Hoa cách trấn này bao xa?”.
Lưu thị ngẩn ra, nghĩ một lúc mới trả lời: “Không quá hai
mươi dặm”.
“Vậy thành trấn nào gần núi Nam Hoa nhất?”
Lưu thị đáp: “Trong khoảng năm mươi dặm quanh núi Nam Hoa,
chỉ có trấn này”.
Triển Chiêu nghe đến đây, trong lòng đã có chút sáng tỏ, tiếp
lời hỏi: “Theo ý Kim Kiền thì nơi mà hai huynh đệ hộ Ngô có khả năng mang hàng
đến tẩu tán nhất chính là… trấn này?”.
Kim Kiền gật đầu.
Trịnh Tiểu Liễu không hiểu, cũng hỏi: “Kim Kiền, hiệu bán vải
vóc trong thành Đông Kinh Biện Lương rất nhiều, vì sao hai huynh đệ chúng lại
phải mang hàng đến trấn này tẩu tán?”.
Kim Kiền nghe xong nhất thời đắc ý, khoanh tay trước ngực
nói: “Tiểu Lục ca, anh còn nhớ cái ô bồn kia mua ở đâu không?”.
Trịnh Tiểu Liễu nhíu mày đáp: “Đương nhiên là trong thành Biện
Lương”.
Kim Kiền giơ một ngón tay lên nói: “Đúng vậy! Huynh đệ họ
Ngô năm nào cũng tạo tác nung ô bồn mang đến thành Biện Lương bán, trong thành
tất có người quen biết, nếu đột nhiên chúng vận chuyển tơ lụa vào thành bán, há
chẳng khiến cho người ta sinh nghi sao? Hai huynh đệ chúng ngay cả chuyện đốt
xác tiêu hủy dấu vết còn nghĩ đến thì chắc chắn sẽ không phạm sai lầm ngớ ngẩn
như thế. Tuy nhiên bọn chúng lại không thể vận chuyển hàng hóa đi xa, thế nên địa
điểm tốt nhất để tẩu tán tang vật chính là thành trấn lân cận gần núi Nam Hoa,
mà trấn này lại là nơi có khả năng nhất”.
Mọi người nghe xong mới hiểu rõ, liền phục lăn, lập tức nhìn
Kim Kiền bằng con mắt khác. Trịnh Tiểu Liễu và Lưu thị tất nhiên không cần phải
nhiều lời, ngay cả Triển Chiêu khuôn mặt cũng mang vẻ tán thưởng.
Kim Kiền thầm thở phào một hơi, nghĩ bụng: Nếu không phải bà
chị kia kêu khóc rằng “ô bồn bị người ta đem ra mua bán đổi chác”, nháo nhào hết
lên làm cho đầu mình cơ hồ muốn nứt, cũng sẽ không thể trong cái khó ló cái
khôn mà nghĩ ra được điều này. Xem ra câu tục ngữ “bí quá hóa liều” cũng có vài
phần đạo lý.
Mọi người tìm được manh mối tự nhiên đều mừng rỡ. Kim Kiền lại
càng xúc động hơn, bởi lần này đi tra án sẽ không còn phải tha cái ôn bồn kia
theo nữa, cuối cùng nàng cũng có thể vất bỏ cái mai rùa oan hồn đó rồi. Triển
Chiêu lại hỏi Lưu thị một hồi về những cửa hàng vải vóc trong trấn, chuẩn bị
cáo từ rời đi.
Ba người vừa mới đứng dậy liền nghe thấy tiếng trẻ con từ
ngoài cửa truyền vào: “Mẹ, con về rồi”.
Lưu thị vừa nghe nhất thời biến sắc, vội vàng dùng vải đen bọc
kín cái ô bồn lại, nói với ba người bọn Triển Chiêu rằng: “Các vị đại nhân,
Bách Nhi, con trai dân phụ, đi học về rồi, chuyện tướng công đã chết, xin các vị
đại nhân khoan hãy lộ ra”.
Ba người hiểu rõ, cùng gật đầu đồng ý.
Cửa chính bị đẩy ra, một bé trai khoảng mười một, mười hai
tuổi tiến vào, nói: “Mẹ, đang là ban ngày, vì sao lại đóng cả cửa sổ lẫn cửa
chính thế?”.
Lưu thị vội vàng bước đến, đỡ lấy cậu bé nói: “Bách Nhi, mau
qua chào các ca ca đi. Các huynh ấy đều là bằng hữu của cha con đấy”.
Cậu bé lễ phép, khẽ chắp tay, lanh lảnh nói: “Bách Nhi bái
kiến các ca ca”.
Mọi người định thần nhìn kỹ, chỉ thấy cậu bé này mặc áo vải,
đeo túi chéo, mày mắt rõ ràng, khuôn mặt sáng láng như ngọc. Tuổi tuy còn nhỏ
nhưng ánh mắt lại có vẻ điềm tĩnh, chín chắn.
Triển Chiêu và Trịnh Tiểu Liễu vừa gặp Bách Nhi không khỏi tấm
tắc khen, gật đầu đáp lễ. Chỉ có Kim Kiền là nhăn mặt, thầm nghĩ: Ca ca… từ này
ngày càng thích hợp với mình hay sao ấy.
Bách Nhi khẽ ngẩng đầu lên nhìn mẹ hỏi: “Mẹ, có phải đã có
tin tức của cha không?”.
“Cái này…”, Lưu thị miễn cưỡng cười: “Ừ, có tin rồi”.
“Vậy khi nào thì cha con trở về?”
“Ừm… À, Bách Nhi, con vừa đi học về chắc khát lắm rồi, để mẹ
đi lấy nước cho con.” Trong mắt Lưu thị lệ đã dâng đầy, đành phải tìm cớ chạy
vào phòng trong, để lại Bách Nhi và ba người lạ mắt to mắt nhỏ nhìn nhau.
Bách Nhi cởi túi vải ra đặt lên bàn, nhìn một lượt những người
lạ trong phòng rồi từ từ đi đến trước mặt Triển Chiêu, khom người thi lễ nói:
“Ca ca, Bách Nhi mạo muội hỏi một câu, cha của Bách Nhi có phải đã tạ thế rồi
không?”.
Những lời này vừa nói ra, đừng nói Kim Kiền, Trịnh Tiểu Liễu
giật mình nhảy dựng lên. Mà ngay cả Triển Chiêu khuôn mặt trước nay chưa từng để
lộ điều gì cũng không khỏi biến sắc, qua một lúc lâu, Triển Chiêu mới từ tốn cất
lời: “Vì sao đệ lại hỏi vậy?”.
Bách Nhi nhìn sắc mặt của ba người trong phòng, rũ mắt xuống
đáp: “Xem ra Bách Nhi đoán không sai rồi, quả nhiên cha đã tạ thế”.
“Bách Nhi!”, một tiếng kêu kinh hãi từ trong phòng trong
truyền ra, Lưu thị hai mắt rưng rưng, đưa tay che miệng, hối hả đi đến trước mặt
Bách Nhi, run run hỏi: “Con nói lung tung cái gì đấy, con sao lại có thể nói rằng
cha mình đã chết chứ?”.
“Mẹ!”, Bách Nhi kéo mẫu thân, để Lưu thị ngồi xuống ghế tựa,
sau đó mới chậm rãi nói: “Mẹ, cha trước nay vốn rất trọng chữ tín, vậy mà tết
Nguyên Tiêu vừa rồi lại vô cớ lỡ hẹn. Sau đó nửa năm nay bặt vô âm tín. Nếu
không có láng giềng cung họ hàng thân thích quan tâm chăm sóc, chỉ sợ Bách Nhi
và mẫu thân đã sớm chết đói ngoài đường rồi, đây đâu phải tính cách của phụ
thân? Hôm nay bỗng nhiên có ba người tới, nói là có tin tức của cha, hai mắt mẹ
lại đỏ hoe, không dám nhìn thẳng vào Bách Nhi, những biểu hiện như thế không đủ
nói lên rằng cha đã tạ thế rồi sao?”.
Dứt lời, tất cả đều kinh ngạc cảm thán. Kinh ngạc bởi, cậu
bé này tuy còn nhỏ tuổi nhưng tư duy đã nhạy bén sắc sảo, cảm thán vì một đứa
trẻ thông minh lanh lợi như vậy mà đã sớm mất cha.
Lưu thị lại càng thương tâm vạn phần, ôm chặt lấy hai vai
con trai, khóc nấc lên. Qua một lúc lâu, Lưu thị mới buông Bách Nhi ra, đi đến
trước bàn mở chiếc khăn màu đên bọc ô bồn ra, nức nở nói: “Tướng công, Bách Nhi
vô cùng thông minh, chàng có thể yên lòng rồi”.
Bách Nhi thấy thế không khỏi kinh ngạc, vội tiến lên gọi: “Mẹ,
mẹ làm sao thế? Vì sao lại ôm cái ô bồn nói năng hồ đồ vậy?”.
Lại nghe tiếng khóc của ô bồn vang lên, nức nở nói: “Bách
Nhi, phụ thân chết oan uổng lắm!”.
Bách Nhi kinh hoàng thất sắc, chân tay mềm nhũn, quỳ sụp xuống
đất, nhìn chăm chăm vào ô bồn.
Lưu thị đặt ô bồn xuống trước mặt Bách Nhi, nức nở nói:
“Bách Nhi, đây là cha con…”, sau đó liền đem mọi chuyên nhất nhất kể lại cho
con nghe.
Bách Nhi nghe xong, nhắm mắt không nói lên tiếng nào, hai
hàng nước mắt trong suốt từ từ chảy xuống, cả người run rẩy không ngừng. Hồi
lâu sau, Bách Nhi bỗng mở mắt ra, dập đầu ba cái trước ô bồn, kiên định nói:
“Cha, người yên tâm, Bách Nhi nhất định sẽ đòi lại công bằng cho cha”.
Dứt lời, Bách Nhi đứng thẳng lên quay lại, đi đến trước mặt
ba người Triển Chiêu, ngẩng đầu nói: “Ba vị đại nhân, Bách Nhi biết cửa hàng
nào trong trấn nửa năm nay bán lụa Vân Cẩm!”.
“Cái gì?”, Kim Kiền, Trịnh Tiểu Liễu, Lưu thị cùng kêu lên.
Triển Chiêu liền hỏi: “Bách Nhi biết được từ đâu?”.
Bách Nhi lau nước mắt nói: “Đại nhân, từ sau tết Nguyên Tiêu
khi cha thất hẹn, Bách Nhi đều đặc biệt lưu ý những tin tức có liên quan đến
cha. Bách Nhi từng nghe phụ thân nhắc đến tên loại lụa Vân Cẩm, cho nên vừa
nghe nói có người bán thứ lụa này Bách Nhi liền chạy qua đó thăm dò”.
Triển Chiêu lại hỏi: “Vậy người nào bán loại lụa này?”.
Bách Nhi đáp: “Là cửa hàng vải Thiên Chức ở đầu phố Nam, nửa
năm nay chỉ có chỗ đó bán lụa Vân Cẩm”.
Triển Chiêu nghe xong liền gật đầu, quay sang ra lệnh cho
hai người Kim, Trịnh: “Kim Kiền, Trịnh Tiểu Liễu, mau theo ta đến cửa hàng vải
Thiên Chức điều tra”.
“Tuân lệnh!”, Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu chắp tay đồng
thanh đáp.
Kim Kiền vừa nhấc chân bước qua ngưỡng cửa, Triển Chiêu đang
đi phía trước bỗng dừng lại, quay đầu nói: “Kim Kiền, ngươi hãy mang ô bồn
theo, phòng khi cần đến”.
“… Khụ khụ… Tuân lệnh…”