23.1
Một chiếc đồng hồ. Tôi gần như có thể nhìn thấy những chiếc kim quay xung quanh toàn trường đấu có mười hai phần. Mỗi một giờ là khởi nguồn cho nỗi đe dọa mới, một loại vũ khí mới của nhà sản xuất, và là điểm kết thúc cho giờ trước đó. Tia chớp, mưa máu, sương, lũ khỉ – những thứ này là bốn giờ đầu tiên của chiếc đồng hồ. Và lúc mười giờ, là con sóng. Tôi không biết chuyện gì xảy ra vào 7 giờ còn lại, nhưng tôi biết bà Wiress đã đúng.
Hiện tại, cơn mưa máu đang đổ xuống và chúng tôi ở trên bờ biển dưới phần có bọn khỉ, quá gần màn sương. Có phải các cuộc tấn công khác nhau nằm trong khu vực tiếp giáp của khu rừng? Không nhất thiết. Con sóng không phải. Nếu màn sương đó lan ra khỏi khu rừng, hay những con khỉ xuất hiện trở lại…
“Dậy thôi,” tôi ra lệnh, lay Peeta và Finnick cùng Johanna tỉnh lại. “Dậy – chúng ta phải di chuyển.” Dù thế nhưng vẫn còn đủ thời gian để giải thích nguyên lí đồng hồ cho bọn họ. Về câu nói “tích, tắc” của bà Wiress và làm thế nào mà chuyển động của những chiếc kim vô hình lại gây ra một lực chết người lên mỗi phân khu.
Tôi nghĩ tôi thuyết phục được những người tỉnh táo trừ Johanna, kẻ tự nhiên sẽ phản đối bất cứ điều gì tôi đề nghị. Nhưng kể cả cô ta có đồng ý, an toàn tốt hơn là phải tiếc nuối.
Trong khi những người khác thu dọn chút đồ vật ít ỏi và giúp Beetee mặc lại bộ đồ liền thân, tôi dựng bà Wiress dậy. Bà ấy tỉnh lại với một câu “tích, tắc” đầy hoảng sợ.
“Đúng rồi, tích, tắc, đấu trường là một chiếc đồng hồ. Nó là một chiếc đồng hồ, bà Wiress ạ, bà đã đúng.” Tôi nói. “Bà đã đúng.”
Sự tin tưởng hiện trên khuôn mặt bà ấy – tôi đoán là bởi vì có ai đó cuối cùng cũng hiểu những gì bà ấy biết được từ tiếng chuông đầu tiên.
“Giữa đêm.”
“Nó bắt đầu vào giữa đêm.” Tôi xác nhận.
Một mảng kí ức len lỏi bao phủ lên tâm trí tôi. Tôi trông thấy một chiếc đồng hồ. Không, nó là một chiếc đồng hồ đeo tay, nằm gọn trong lòng bàn tay của Plutarch Heavensbee.
“Nó bắt đầu vào giữa đêm.” Plutarch nói. Và rồi con chim nhại của tôi sáng lên nhanh chóng và biến mất. Nhớ lại, nó giống như là ông ta đang cố đưa cho tôi gợi ý về cuộc đấu. Nhưng sao lại là ông ta? Thời điểm đó, tôi chỉ không hơn gì một vật tế trong cuộc đấu như ông ta đã từng. Có lẽ Plutarch nghĩ điều đó sẽ giúp tôi với vai trò là một cố vấn. Hay có lẽ đây là một kế hoạch xuyên suốt. Bà Wiress gật đầu về phía cơn mưa máu. “Một giờ ba mươi.” Bà nói.
“Chính xác. Một giờ ba mươi. Và vào lúc hai giờ, một màn sương độc hại khởi nguồn tại đó.” Tôi nói, chỉ vào khu rừng ngay cạnh. “Nên giờ ta phải di chuyển tới nơi nào đó an toàn.” Bà ấy mỉm cười và ngoan ngoãn đứng dậy.
“Bà có khát không?” tôi đưa cho bà một chiếc bát được dệt và bà ấy nuốt xuống gần một ga – lông nước.
Finnick đưa mẩu bánh mì cuối cùng và bà ấy gặm lấy nó. Với việc vượt qua sự bất lực trong giao tiếp, bà ấy đã tỉnh táo trở lại. Tôi kiểm tra vũ khí của mình. Buộc chặt chiếc ống nước và tuýp thuốc trong chiếc dù và cố định nó vào thắt lưng bằng dây leo.
23.2
Beetee vẫn khá bất tỉnh, nhưng khi Peeta cố nâng ông ấy dậy, ông ấy phản đối. “Wire.”
“Bà ấy ở ngay đây.” Peeta nói chuyện. “Bà Wiress ổn cả. Bà ấy cũng đang đi tới kìa.”
Nhưng Beetee vẫn kháng cự. “Wire.” Ông ấy nằng nặc.
“Ồ, tôi biết ông ta muốn gì rồi.” Johanna không kiên nhẫn lên tiếng. Cô ta băng qua bờ biển và nhặt về chiếc xi lanh mà chúng tôi lấy ra từ chiếc thắt lưng của ông ta khi tắm gội. Nó được phủ một lớp máu đông dày. “Thứ vô dụng này. Nó là một loại dây điện gì đó. Đó là lí do ông ta có vết cắt. Chạy về phía Sừng dê để lấy thứ này. Tôi không biết nó có thể là thứ vũ khí gì. Tôi đoán cậu có thể kéo ra một mẩu và dùng nó như một chiếc dây thắt cổ hay gì đó. Nhưng thực ra, cậu có thể tưởng tượng việc lão Beetee thắt cổ ai đó không chứ?”
“Ông ấy thắng đấu trường bằng dây điện đấy. Lập nên một chiếc bẫy điện,” Peeta nói. “Đó là thứ vũ khí tốt nhất mà ông ấy có thể có.”
Có gì đó kì lạ với Johanna khi không bàn luận tới điều này. Điều gì đó không chân thực. Thật đáng nghi.
“Có vẻ như cô vừa khám phá ra,” tôi lên tiếng. “Vì cô đặt tên cho ông ấy là Vôn và chỉ có thế.”
Đôi mắt Johanna thu hẹp nhìn tôi đầy nguy hiểm. “Phải, điều đó là sự ngu xuẩn của tôi, phải không?” cô ta đáp. “Tôi đoán chắc hẳn mình đã bị làm xao nhãng trong việc giữ mạng sống cho những người bạn bé nhỏ của cô. Trong khi cô… gì nhỉ, nhắc lại xem? Giết chết bà Mags?”
Những ngón tay tôi nắm chặt lấy con dao trên thắt lưng.
“Tiến lên thôi. Cố gắng nhé. Tôi không quan tâm cô bị kiệt sức hay không, nhưng tôi sẽ xé toạc họng cô ra đấy.” Johanna nói.
Tôi biết giờ tôi không thể giết cô ta lập tức. Nhưng chỉ là vấn đề thời gian giữa tôi và Johanna. Trước khi có một người giết chết người còn lại.
“Có lẽ tất cả nên cẩn thận khi bước đi,” Finnick nói, ném cho tôi cái nhìn. Anh ấy lấy cuộn dây và đặt nó lên ngực ông Beetee. “Dây điện của ông đây, Vôn. Coi chừng nơi ông định gán nó vào nhé.”
Peeta vực ông Beetee giờ đã không còn lải nhải dậy. “Đi đâu?”
“Tôi muốn tới chỗ Sừng dê và canh chừng. Chỉ để chắc chắn việc chúng ta đúng về cái đồng hồ.” Finnick nói. Có vẻ đó là kế hoạch tốt nhất. Ngoài ra, tôi không để tâm tới cơ hội dùng tới vũ khí lần nữa. Giờ còn có sáu người chúng tôi. Dù bạn không tính Beetee và Wiress, chúng tôi có tới bốn chiến binh khỏe mạnh. Nó quá khác so với thời điểm năm ngoái ở một nơi nào đó, tôi phải làm mọi thứ một mình. Đúng thế, thật tuyệt khi có đồng minh nếu bạn có thể lờ đi ý nghĩ sẽ phải giết chết họ.
23.3
Beetee và Wiress có thể sẽ tự tìm cách chết. Nếu chúng tôi phải chạy trốn, họ có thể chạy bao xa chứ? Johanna, nói thẳng ra, tôi có thể dễ dàng giết hại nếu điều đó xảy ra để cứu Peeta. Hay có lẽ chỉ cần giam cô ta lại. Điều tôi thực sự cần là ai đó có thể tách Finnick ra khỏi tôi, vì tôi không nghĩ mình có thể đích thân thực hiện. Không phải sau tất cả những gì anh ấy làm cho Peeta. Tôi nghĩ tới việc dùng thủ đoạn với anh ấy theo cách như lúc chạm trán với bọn Nhà nghề. Thật máu lạnh, tôi nhủ thầm. Nhưng lựa chọn của tôi là gì? Giờ thì chúng tôi đã biết về chiếc đồng hồ, anh ấy có thể không chết trong rừng, nên ai đó sẽ giết chết anh ấy trong một cuộc ẩu đả.
Vì điều này nghĩ thật ghê tởm, nên đầu óc tôi điên cuồng khi cố chuyển đề tài. Nhưng thứ duy nhất làm tôi xao nhãng khỏi tình hình hiện tại là mơ ước viển vông việc giết chết tổng thống Snow. Tôi cho là không quá mộng tưởng đối với một cô gái mười bảy, nhưng rất thỏa mãn.
Chúng tôi đi bộ xuống dải cát gần nhất, tới gần Sừng dê thật cẩn trọng, phòng trường hợp bọn Nhà nghề lẩn trốn ở đó. Tôi ngờ là thế, vì chúng tôi ở trên bờ biển hàng giờ và không có dấu hiệu gì của sự sống. Khu vực này bị bỏ không, như tôi kì vọng. Chỉ có duy chiếc sừng vàng to lớn và núi vũ khí đã được nhặt nhạnh. Khi Peeta đặt Beetee nằm trên chiếc mành mà chiếc Sừng dê có sẵn, ông ấy gọi to tên bà Wiress. Bà ấy nép mình bên cạnh ông Beetee và ông ấy đặt cuộn dây điện vào tay bà. “Bà rửa sạch nó được chứ?”
Wiress gật đầu và chạy vụt tới mé nước, nơi bà nhúng cuộn dây xuống nước. Bà ấy khe khẽ hát vài bài ngắn vui nhộn, về một con chuột đang thoát khỏi chiếc đồng hồ. Chắc là nó dành cho trẻ em, nhưng có lẽ nó khiến bà ấy hạnh phúc.
“Ồ, không phải lại bài hát đấy chứ.” Johanna nói, đảo mắt. “Nó vang lên hàng giờ trước khi bà ta bắt đầu tích tắc.”
Đột nhiên Wiress đứng thẳng dậy và chỉ vào khu rừng. “Hai giờ.”
Tôi nhìn theo ngón tay bà tới nơi bức tường sương mù vừa mới bắt đầu thấm qua chỗ bờ biển.
“Đúng rồi, nhìn kìa, bà Wiress đã đúng. Đó là phần hai giờ và màn sương vừa xuất hiện.”
“Giống cơ chế chiếc đồng hồ,” Peeta nói. “Bà thật thông thái khi khám phá ra điều đó, Wiress ạ.”
Wiress mỉm cười và quay lại hát tiếp rồi nhúng ướt cuộn dây. “Ồ, bà ấy còn hơn cả thông thái.” Beeta nói. “Bà ấy có trực giác.” Tất cả chúng tôi quay lại để nhìn ông Beetee, kẻ dường như đang trở lại với cuộc sống. “Bà ấy có thể cảm nhận nhiều thứ trước bất cứ ai. Như một con chim bạch yến ở một trong những hầm mỏ của các cháu.”
“Đó là gì?” Finnick hỏi tôi.
“Đó là một loài chim bọn em mang vào các khu hầm mỏ để cảnh báo nếu thời tiết xấu đi.” Tôi trả lời.
“Nó làm thế nào, chết ư?” Johanna hỏi.
“Nó ngừng hót trước. Đó là lúc cô nên chạy ra ngoài. Nhưng nếu thời tiết quá xấu, nó sẽ chết, đúng vậy. Và cô cũng thế.” Tôi không muốn nói chuyện về những con chim biết hót đang chết đi. Chúng khơi dậy những ý nghĩ về sự ra đi của bố tôi, của Rue và Maysilee Donner rồi mẹ tôi hưởng lại con chim hót của cô ấy. Ồ, tuyệt, và giờ tôi đang nghĩ tới Gale, ở sâu trong khu mỏ kinh khủng đó, cùng với việc tổng thống Snow dọa sẽ treo cổ anh. Quá dễ để khiến việc đó trông như một tai nạn dưới hầm. Một con chim bạch yến không hót, một đốm lửa và không gì hơn. Tôi quay lại với việc tưởng tượng sẽ giết chết lão tổng thống.
23.4
Dù khó chịu với Wiress, Johanna trông thật vui vẻ như lúc tôi nhìn thấy cô ta trong trường đấu. Trong khi tôi bổ sung vào kho mũi tên của mình, cô ta mò mẫm xung quanh cho tới khi xuất hiện với hai chiếc rìu có vẻ gây chết người. Nó dường như là một sự lựa chọn kì quặc cho tới khi tôi thấy cô ta quăng một chiếc với một lực khiến nó dính chặt vào tấm vàng của chiếc Sừng được mặt trời làm mềm ra. Tất nhiên rồi. Johanna Mason. Từ quận 7. Việc đốn gỗ. Tôi cá cô ta đã biết múa rìu từ lúc chập chững. Giống như việc Finnick với chiếc đinh ba. Hay Beetee với cuộn dây điện. Rue với sự hiểu biết về thực vật. Tôi nhận ra đó chỉ là một bất lợi khác cho các vật tế từ quận 12 phải đối mặt qua các năm. Chúng tôi không được xuống hầm mỏ cho tới lúc mười tám tuổi. Giống hầu hết các vật tế khác học được thứ gì đó về việc buôn bán của bọn họ từ sớm. Có nhiều thứ bạn làm được trong một hầm mỏ mà có thể dùng đúng lúc trong trường đấu. Cầm cuốc. Nổ tung mọi thứ. Khiến bạn lao đao. Theo cách mà tôi đi săn bắn. Nhưng chúng tôi học được quá muộn.
Trong khi tôi rối tung với đống vũ khí thì Peeta ngồi trên mặt đất, vẽ gì đó bằng mũi dao trên một cái lá to và mềm lấy được trong rừng. Tôi nhòm qua vai cậu ấy và thấy cậu đang vẽ một tấm bản đồ về trường đấu. Ở trung tâm là chiếc sừng dê nằm trên dải cát tròn của nó với mười hai nhánh rẽ ra xung quanh. Nó trông như một hình quả táo được cắt thành mười hai miếng bằng nhau. Có một vòng tròn khác tượng trưng cho đường nước và một vòng tròn khác nhỉnh hơn biểu thị bìa rừng.
“Nhìn xem chiếc sừng dê được đặt thế nào.” Peeta nói với tôi.
Tôi kiểm tra chiếc sừng dê và hiểu được ý cậu ấy là gì.
“Các đầu nhọn theo kiểu mười hai giờ.” Tôi nói.
“Đúng, thế nên đây là đỉnh chiếc đồng hồ,” Cậu ấy nói và vẽ nhanh các chữ số từ một tới mười hai xung quanh mặt đồng hồ.
“Từ mười hai tới một là vùng có chớp.” Cậu ấy vết tia chớp thành một dấu nhỏ xíu ở phần tương ứng, rồi theo chiều kim đồng hồ mà thêm vào máu, sương, khỉ vào các phần dưới.
“Và từ mười tới mười một là con sóng,” tôi nói. Cậu ấy thêm vào.
Finnick và Johanna tham gia cùng chúng tôi đúng lúc, trang bị hàm răng với đinh ba, rìu và dao.
“Bọn cô thấy điều gì không bình thường ở những kẻ còn lại không?” tôi hỏi Johanna và Beetee, vì họ có thể có gì đó chúng tôi không biết. Nhưng tất cả họ nhìn thấy là rất nhiều máu. “Tôi đoán họ có thể giữ bí mật mọi thứ.”
“Tôi sẽ đánh dấu những nơi mà chúng ta biết vũ khí của bọn tổ chức theo sau trừ khu rừng, nên sẽ tránh được,” Peeta nói, vẽ các gạch chéo lên hình màn sương và bờ biển có sóng. Rồi cậu ấy ngồi xuống trở lại. “Chà, dù sao thì sáng nay chúng ta biết quá nhiều rồi.”
Tất cả chúng tôi gật đầu tán thành, và đó là lúc tôi để ý. Sự im ắng. Con chim bạch yến của chúng tôi đã ngừng hót.
23.5
Không chờ đợi. Tôi gắn một mũi tên lúc xoay người và liếc Gloss còn nhỏ nước đang khiến Wiress trượt người trên mặt đất, cổ họng bà ấy toạc mở với một nụ cười tươi đỏ lòm. Thời điểm mũi tên của tôi biến mất vào bên thái dương phải của lão ta và mất một lát để nạp lại, Johanna đã chôn sâu chiếc lưỡi rìu vào ngực Cashmere. Finnick hất văng chiếc giáo mà Brutus nhắm vào Peeta và nhổ con dao của Enobaria ra khỏi bắp chân. Nếu không có chiếc sừng dê để nấp đằng sau, bọn họ đều đã chết, cả hai vật tế quận 2. Tôi bật lên phía trước để đuổi theo. Bùm! Bùm! Bùm! Tiếng đại bác cho biết không còn cách nào để cứu Wiress nữa, không cần giải quyết nốt Gloss hay Cashmere. Các đồng minh và tôi lượn quanh chiếc Sừng, bắt đầu đuổi bắt Brutus và Enobaria, những kẻ đang chạy hết tốc lực xuống một dải cát về phía khu rừng.
Đột nhiên mặt đất xóc nảy dưới chân và tôi ngã văng về một bên trên mặt cát. Vòng tròn cát bao quanh chiếc Sừng bắt đầu xoáy nhanh, cực nhanh và tôi có thể trông thấy khu rừng trôi đi mờ ảo. Tôi cảm nhận lực li tâm đã kéo tôi về phía nước biển và chôn tay chân vào trong cát, cố gắng bám vào mặt đất không vững chắc. Giữa màn cát đang bay và sự choáng váng, tôi phải ép đôi mắt đóng lại. Theo nghĩa đen thì chẳng có gì tôi có thể làm ngoài việc cố bám trụ, cho tới lúc có sự giảm tốc, rồi chúng tôi đột ngột dừng lại.
Ho và nôn mửa, tôi ngồi dậy từ từ để tìm những người bạn ở trong tình trạng tương tự. Finnick, Johanna và Peeta đang bám víu. Ba thi thể người đã chết đã bị quấn vào nước biển.
Toàn bộ mọi việc, từ lúc im bặt bài hát của bà Wiress tới giờ, không thể mất tới một phút hay hai phút. Chúng tôi ngồi đó thở dốc, phun cát ra khỏi miệng.
“Vôn đâu rồi?” Johanna lên tiếng. Chúng tôi tập trung lại. Một vòng xoáy rung rung của chiếc Sừng xác nhận ông ấy đã biến mất. Finnick tìm thấy ông ấy khoảng 20 yard ngoài mé nước, đủ sức giữ nổi và bơi ra để kéo ông ấy vào.
Đó là lúc tôi nhớ tới cuộn dây điện và nó quan trọng thế nào với ông. Tôi điên cuồng nhìn quanh. Nó đâu? Nó đâu rồi? Và khi tôi trông thấy, nó vẫn gắn chặt trong bàn tay Wiress xa xa ngoài bờ nước. Dạ dày tôi co rút khi nghĩ tới mình phải làm gì tiếp theo. “Yểm hộ tôi.”. Tôi nói với những người khác. Tôi quăng vũ khí qua một bên và chạy nhanh xuống dải cát gần thi thể nhất. Không ngần ngừ, tôi lặn xuống nước và tìm bà ấy. Qua mi mắt, tôi có thể thấy chiếc tàu khí xuất hiện trên đầu, những chiếc móc bắt đầu thò xuống định mang bà ấy đi. Nhưng tôi không dừng lại. Tôi chỉ tiếp tục bơi hết sức có thể và kết cục là đụng phải cơ thể của Wiress. Tôi bắt đầu thở hắt ra, cố tránh nuốt phải dòng nước đỏ ngầu lan ra từ vết thương hở miệng trên cổ bà ấy. Bà ấy nổi bằng lưng, được đỡ bởi chiếc thắt lưng và chết đi, nhìn chòng chọc vào mặt trời sáng chói. Khi đạp nước, tôi phải giật mạnh cuộn dây điện khỏi những ngón tay của bà, vì cái siết tay dứt khoát của bà quá chặt. Tôi chẳng thể làm gì sau đó ngoài việc đóng mi mắt bà lại, thì thầm lời từ biệt và bơi đi. Lúc tôi vung vẩy cuộn dây trên mặt cát và lê người khỏi mé nước, xác bà ấy biến mất. Nhưng tôi vẫn có thể ngửi được mùi máu hòa lẫn với mùi muối biển.
Tôi đi bộ trở lại phía Sừng dê. Finnick đã giúp Beetee hồi phục trở lại, dù hơi sũng nước, đang ngồi thẳng và xì nước ra. Ông ấy có giác quan tốt khi đeo kính, nên ít nhất ông ấy có thể nhìn được. Tôi đặt cuộn dây điện lên đùi Beetee. Nó sạch sẽ sáng bóng, không còn chút máu dính nào. Ông ấy gỡ một mẩu dây điện và đặt nó xuyên qua các ngón tay. Lần đầu tiên tôi thấy nó, và nó trông không giống bất kì loại dây điện nào mà tôi biết. Một màu vàng nhợt nhạt và đẹp như một đoạn tóc. Tôi tự hỏi nó dài bao nhiêu. Hẳn phải dài hàng dặm vải để lấp đầy một cái thìa lớn. Nhưng tôi không hỏi, vì tôi biết ông ấy đang nghĩ tới Wiress. Tôi nhìn những khuôn mặt điềm tĩnh của những người còn lại. Giờ thì Finnick, Johanna và Beetee đều mất đi những người đồng hành cùng quận. Tôi bước qua tới chỗ Peeta và vòng tay quanh cậu ấy, và mất một lúc tất cả chúng tôi ngồi trong im lặng.
“Ra khỏi hòn đảo thối tha này thôi.” Johanna cuối cùng lên tiếng. Giờ vấn đề duy nhất là vũ khí của chúng tôi mà phần lớn đều vẫn giữ. Thật may là loài dây leo ở đây chắc chắn và chiếc ống nước cộng tuýp thuốc gói trong chiếc dù vẫn được gắn vào thắt lưng của tôi. Finnick cởi chiếc áo lót và buộc nó quanh vết thương mà con dao của Enobaria đã gây ra trên bắp vế; nó không sâu lắm. Giờ ông Beetee nghĩ mình có thể đi bộ được, nếu chúng tôi đi chậm, nên tôi giúp ông đứng dậy. Chúng tôi quyết định hướng về phía bờ biển ở phần mười hai giờ. Việc đó khiến chúng tôi có nhiều giờ lấy sức và giữ chúng tôi tránh khỏi bất cứ chất độc nào còn lại. Và rồi Peeta, Johanna, và Finnick chia ra thành ba hướng khác nhau.
“Mười hai giờ, đúng không?” Peeta hỏi. “Đuôi kim chỉ vào số mười hai.”
“Trước khi họ làm chúng ta mệt lử,” Finnick nói. “Tôi đang quan sát mặt trời đây.”
“Mặt trời chỉ nói cho anh biết giờ tiếp theo là bốn giờ thôi. Finnick,” tôi nói.
“Ta nghĩ quan điểm của Katniss là, việc biết được thời gian không có nghĩa cậu cần biết phần số bốn ở đâu trên đồng hồ. Cậu có thể có cái nhìn tổng quan về phương hướng. Nếu cậu không cân nhắc việc đó, họ cũng có thể thay đổi vành ngoài khu rừng,” ông Beetee thêm vào.
Không, quan điểm của Katniss cơ bản hơn thế. Ông Beetee đã phân tích hẳn một lí thuyết hơn là nhận xét của tôi về mặt trời. Nhưng tôi chỉ gật đầu như kiểu tôi từ trước tới giờ đều không thay đổi.
“Đúng vậy, thế nên bất cứ một con đường nào trong số này có thể dẫn tới phần mười hai giờ.” Tôi nói.
23.6
Chúng tôi đi xung quanh chiếc Sừng dê, xem xét kĩ khu rừng. Nó vẫn gây rối hướng đi như thế. Tôi nhớ cái cây cao đã bị tia sét đánh trúng ở phần mười hai giờ, nhưng mỗi khu vực đều có một cái cây tương tự. Johanna thì nghĩ rằng hãy đi theo dấu chân của Enobaria và Brutus, nhưng chúng đều bị thổi bay hay xóa sạch rồi. Không hề có con đường nào cho biết mọi thứ ở đâu nữa.
“Tôi đáng nhẽ không bao giờ nên đề cập tới chiếc đồng hồ,” tôi nói khó khăn. “Giờ thì họ cũng cướp luôn lợi thế đấy rồi.”
“Chỉ tạm thời thôi.” Beetee lên tiếng. “Lúc mười giờ, chúng ta sẽ lại thấy con sóng và quay lại đúng dấu chân là được.”
“Đúng rồi, họ không thể tái thiết kế toàn bộ đấu trường.” Peeta thêm vào.
“Không vấn đề gì đâu.” Johanna không nhịn được lên tiếng. “Cô phải nói với chúng tôi hoặc chúng tôi sẽ chẳng bao giờ nhổ trại ở địa điểm ban đầu mất, thật ngu xuẩn.”
Mỉa mai thay, lời đáp trả có lí của cô ta là câu duy nhất khiến tôi thoải mái. Đúng vậy, tôi phải nói với họ để giúp họ di chuyển. “Đi nào, tôi cần nước. Có ai còn can đảm không?”
Chúng tôi ngẫu nhiên chọn một con đường và đi, không cần biết là con đường số mấy. Khi tới được chỗ khu rừng, chúng tôi xem xét nó, cố đoán xem bên trong có cái gì đang chờ đợi.
“Chà, phải là phần giờ của bọn khỉ. Và tôi không thấy con nào ở đây.” Peeta nói. “Tôi sẽ cố đi tìm một cái cây.”
“Không, tới lượt tôi.” Finnick lên tiếng.
“Ít nhất tôi sẽ canh chừng sau lưng cho anh.” Peeta đáp.
“Katniss có thể làm việc đó,” Johanna nói. “Chúng tôi cần cậu vẽ một bản đồ khác. Cái kia bị trôi đi rồi”. Cô ta giật mạnh một chiếc lá to từ một cái cây xuống và đưa cho cậu ấy.
Mất một lúc để tôi ngờ rằng bọn họ đang cố chia rẽ và giết hại chúng tôi. Nhưng nó chả có nghĩa gì. Tôi sẽ có lợi thế hơn Finnick nếu anh ta giải quyết cái cây còn Peeta to lớn hơn nhiều so với Johanna. Nên tôi theo chân Finnick khoảng 15 yard vào rừng, nơi anh ta tìm thấy một cái cây thích hợp và bắt đầu đâm vào để tạo một cái lỗ bằng con dao của mình.
Khi tôi đứng đó, với vũ khí đã sẵn sàng, tôi không thể xóa đi cảm giác lo lắng rằng có gì đó sẽ xảy đến và nó sẽ xảy đến với Peeta. Tôi lần mò lại hành trình của chúng tôi bắt đầu từ lúc tiếng chiêng vang lên, và đi tìm nguồn gốc cho sự khó chịu của mình. Finnick dẫn Peeta ra khỏi chiếc bục kim loại. Finnick cứu sống Peeta sau lúc bức từ trường khiến tim cậu ấy ngừng đập. Bà Mags chạy vào màn sương để Finnick có thể cõng Peeta. Con nghiện morphine tự lao mình tới trước mặt cậu ấy để ngăn sự tấn công của con khỉ. Cuộc ẩu đả với bọn Nhà nghề rất nhanh gọn, nhưng chẳng phải Finnick đã ngăn cây giáo của Brutus đâm vào Peeta bất chấp việc nhận được con dao của Enobaria lên bắp vế sao? Và giờ Johanna lại nhờ vả cậu ấy vẽ tấm bản đồ trên lá hơn là mạo hiểm vào khu rừng…
Không cần nghi hoặc gì nữa. Vì nhiều lí do hoàn toàn không thể đong đếm, vài kẻ vô địch đang cố giữ cậu ấy được sống, dù có nghĩa họ sẽ phải tự nguyện hi sinh.
Tôi điếng người. Vì một điều, rằng đó là nghĩa vụ của tôi. Vì lí do khác, rằng nó chẳng có nghĩa lí gì. Chỉ một trong số chúng tôi có thể thoát được. Vậy tại sao họ chọn Peeta để bảo vệ? Haymitch đã nói với họ điều gì, ông ấy đã thương lượng với họ cái gì khiến họ đặt tính mạng Peeta lên trên bản thân mình?
Tôi biết những lí do của bản thân khi giữ Peeta được sống. Cậu ấy là bạn tôi, và đây là cách để thách thức Capitol, để lật đổ cái đấu trường kinh khủng của nó. Nhưng nếu tôi không có gì ràng buộc với Peeta, điều gì sẽ khiến tôi muốn cứu giúp cậu ấy, coi trọng cậu ấy hơn bản thân? Chắc chắn cậu ấy dũng cảm, nhưng tất cả chúng tôi cũng đủ can đảm để sống sót trong một Đấu trường. Phẩm chất tốt bụng khó có thể xem nhẹ, nhưng… và rồi tôi lại nghĩ tới điều này, những gì Peeta có thể làm còn nhiều hơn số còn lại trong chúng tôi. Cậu ấy có thể lợi dụng lời nói. Cậu ấy xóa bỏ sự tranh đấu ở cả hai buổi phỏng vấn. Có lẽ bởi vì sự tốt bụng bẩm sinh đó mà cậu ấy có thể lung lay một đám đông – không, một thành phố – đứng về phía cậu ấy chỉ bằng việc đảo một câu nói đơn giản.
Tớ nhớ mình đã nghĩ rằng đó là một món quà mà thủ lĩnh của một cuộc cách mạng nên có. Có phải ông Haymitch đã thuyết phục những người khác điều này? Cái lưỡi của Peeta khi chống lại Capitol tuyệt vời hơn bất kì sức mạnh thể chất nào mà những người còn lại trong chúng tôi có được? Tôi không biết nữa. Nó có vẻ giống một sự biến chuyển thực sự lâu dài với vài vật tế. Ý tôi là, chúng ta đang bàn luận về Johanna Mason. Nhưng có sự giải thích nào khác cho những nỗ lực của họ để bảo vệ cho Peeta được sống đây?
“Katniss, cầm cái ống nước chưa?” Finnick hỏi, kéo tôi trở lại hiện tại. Tôi cắt đoạn dây leo buộc chiếc ống ở thắt lưng và quăng chiếc ống kim loại cho anh ấy.
Đó là lúc tôi nghe thấy tiếng hét. Lấp đầy sợ hãi và đau đớn tới nỗi nó làm máu tôi đông cứng. Quá quen thuộc. Tôi vứt chiếc ống, quên việc tôi đang ở đâu hay cái gì đang ở phía trước, tôi chỉ biết tôi phải tới chỗ em ấy, bảo vệ em. Tôi điên cuồng chạy về phía có giọng nói, không màng nguy hiểm, xé toạc những đám dây leo và cành cây, xuyên qua bất cứ thứ gì ngăn tôi chạy về phía em.
Ngăn tôi chạy về phía đứa em gái bé nhỏ của mình.