Tịnh Niệm Thiền Viện yên tĩnh khác thường. Lúc này chính là giờ kinh chiều, vừa rồi còn có tiếng chuông báo bắt đầu khóa kinh, vì sao lại chẳng nghe tiếng mõ gỗ cốc cốc và tiếng hòa thượng tụng kinh? Tựa hồ những người xuất gia trong toàn tự đột ngột biến mất hết cả.
Vầng trăng sáng đã thay ánh tịch dương treo trên bầu trời đêm xanh xám, ánh trăng phủ khắp quảng trường ngập tuyết. Tự viện trùng trùng khoác màu bạc như tơ, phật tháp chung lâu phản chiếu ánh trăng vàng êm dịu. Trong cảnh sắc tuyết trắng và ánh trăng dung hòa tuyệt vời của trời đất, thanh âm Ninh Đạo Kỳ từ hướng đồng điện (điện bằng đồng) truyền đến, không cần lấy hơi lên giọng mà từng chữ vang lên trong màng nhĩ Khấu Trọng hết sức rõ ràng, dường như vị có danh Trung Nguyên đệ nhất nhân, một trong tam đại tông sư cái thế đại cao thủ Ninh Đạo Kỳ này đang ở bên cạnh tai gã mà nói nhẹ nhàng:
- Ta thật hy vọng Tống huynh đêm nay đến tìm ta uống rượu tâm sự, cùng chia sẻ sự nhận thức đối với sinh mệnh. Chỉ hận thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu (1), khiến bọn ta phải rơi vào trầm luân điên đảo, niềm hi vọng đó chỉ đành để trong lòng. Hiện nay đại họa ở Trung Nguyên đã như lửa cháy ngang mày, khiến tên ngốc đã sớm quên mất năm tháng, vui vẻ đến không biết quay về ta không thể không mặt dầy mời Tống huynh đến chỉ điểm vài chiêu Thiên Đao. Ta quả thật không hề nghĩ tới mình có chịu nổi hay không, xin Tống huynh thấy tới mức nguy cấp thì nương tay lưu tình cho.
Trong lòng Khấu Trọng dấy lên lòng tôn kính không kềm chế được. Những lời nói này của Ninh Đạo Kỳ thể hiện trọn vẹn khí phách thân phận đại tông sư của Đạo môn, không hề che giấu thâm ý bên trong của mình là muốn dựa vào trận đấu này phá hỏng kế hoạch xuất sư Lĩnh Nam của Tống Khuyết, lại không nói lời thừa mà dùng cách khiêm tốn nhất để chính diện tuyên chiến với Tống Khuyết.
Chỉ cần Tống Khuyết có bất kỳ sai lầm nào, dầu chỉ đối đáp sai một câu cũng có thể trở thành yếu tố thất bại cho đêm nay.
Cao thủ tương tranh không được có sai lầm, dù chỉ là một sơ sót nhỏ bé.
Tống Khuyết chắp tay sau lưng, thong thả rảo bước lướt về hướng đồng điện, bật cười khanh khách đáp:
- Lời của đạo huynh thật có ý nghĩa, khiến Tống Khuyết ta không uổng chuyến đi này. Tâm pháp tự bảo khiêm nhường của Đạo huynh đã đến cảnh giới hoàn toàn quên mình, đạt được ý lấy hư làm tĩnh của đạo môn. Tống Khuyết đã lĩnh giáo!
Tâm thần Khấu Trọng kịch chấn. Lời của Tống Khuyết có khả năng trấn nhiếp người ta tựa như đao của ông, bằng vào mấy câu nói nhẹ nhàng đã lộ rõ sự thông suốt thấu đáo của ông đối với Ninh Đạo Kỳ, chứng tỏ ông đang ở cảnh giới cao nhất. Phạm Thanh Huệ đối với ông không còn chút ảnh hưởng nào. Tống Khuyết sao có thể làm được?
Sau khi có đao rồi quên đao.
Sau khi đau khổ tương tư là quên đi hoài niệm.
Từ Lương Đô cho đến đây, đối với Tống Khuyết mà nói thì đúng là chặng tu hành đao đạo cấp bậc cao nhất, khiến người thay đổi triệt để. Sau khi có được đao rồi vong đao. Nhìn tấm lưng hùng vĩ của Tống Khuyết, gã cảm nhận rõ ràng trên người ông có lòng tin mạnh mẽ mà không có người nào có thể làm thay đổi. Không có thắng, không có bại, cả hai thứ đều không tồn tại trong đầu ông.
Đây mới đúng là Thiên Đao chân chính.
Ninh Đạo Kỳ vui vẻ nói:
- Tống huynh coi trọng ta quá! Ta trước nay không thích triết lý của Lão Tử, chỉ thích sự kiệt xuất của Trang Chu (Trang Tử), càng yêu mến ý lấy nhập thế làm xuất thế, thuận theo đạo lý tự nhiên của ông ta. Nếu không đêm nay đâu cần phải muối mặt ở nơi này.
Hai người đối thoại lời nói chỗ nào cũng sắc bén, bên trong hàm chứa ý sâu sắc. Tống Khuyết ngạc nhiên nói:
- Nguyên lai đạo huynh theo đuổi chính là cái được gọi là “Chí Nhân” xem thường sinh tử thọ yểu, thành bại được mất, khen chê tốt xấu, thoát khỏi mọi ham muốn, coi thiên địa vạn vật cùng đồng nhất thể, không biết có ta hay không có ta. Tống Khuyết ta nói lăng nhăng lải nhải thế chắc hẳn là không lọt pháp nhĩ của đạo huynh rồi.
Lời Tống Khuyết nói nghe thì như tâng bốc, nhưng sự thật lại chỉ ra Ninh Đạo Kỳ lần này bị cuốn mình vào dòng xoáy tranh bá thiên hạ, mang đầy mưu tính trong lòng, trái ngược hoàn toàn với ý tưởng siêu thoát của Trang Chu. Chỉ cần đạo tâm Ninh Đạo Kỳ không đủ kiên định, vì thế hoài nghi chính bản thân mình, kẻ hở trên tâm linh và tinh thần ấy có thể khiến ông ta thất bại chẳng sai.
Từ lúc bắt đầu, Tống Khuyết thiện về tấn công đã không ngừng từng chút ép đến, còn Ninh Đạo Kỳ lại lấy thoái làm tiến, dùng nhu chế cương.
Khấu Trọng theo sau Tống Khuyết băng qua gác chuông, cuối cùng lên tới đồng điện trung tâm thiền viện, nơi có quảng trường bằng phẳng với các lan can bằng đá trắng điêu khắc. Ở trước bức tượng Văn Thù Bồ Tát cỡi Kim Mao Sư tại trung tâm quảng trường đá trắng, Ninh Đạo Kỳ vuốt râu cười:
- Sau khi sinh ra thiên địa, mới biết có sự bắt đầu của thiên địa, trước khi thiên địa mất, mới biết thiên địa có kết thúc. Nguyên có sanh tất có tử, có bắt đầu tất có chung cuộc. Tử chính là hiệu quả của sinh, sinh chính là thể nghiệm của tử, đó chính là đạo của tự nhiên. Đạo trời biến đổi là thường, không vì Nghiêu tồn, không vì Kiệt vong (2). Đạo lý có Thể có Dụng (3). Nguyên khí của Thể là bất động; sức sống của Dụng là xoay chuyển trong thiên địa. Do đó sự vật cùng cực tất phản, phúc nương nhờ họa, họa dựa vào phúc. Lão Tử chú trọng vô vi, Trang Tử chủ trương tự nhiên, không phải dạy người ta không lý tới sáng tạo cầu thành, nếu không làm sao lại có được Ngũ Thiên tinh diệu của Lão Tử, ngụ ngôn của Trang Chu? Chỉ là sáng tạo không phải chiếm hữu, thành công mà không cho là mình làm. Tống huynh có cho rằng đúng thế không?
Phong thái Ninh Đạo Kỳ vẫn như trước, năm chòm râu theo gió phất phơ, mũ cao đai rộng, thân khoác cẩm bào, ánh mắt ẩn chứa sự hồn nhiên không tranh giành với thế sự, nhìn Tống Khuyết mà mắt không hề chớp, dường như không nhận biết đến sự tồn tại của Khấu Trọng. Xung quanh sân không hề thấy một chút đèn lửa, chẳng có bóng người nào.
Khấu Trọng biết ý, dừng lại bên ngoài dãy lan can điêu khắc bằng đá trắng, không muốn vì sự hiện diện của mình ảnh hưởng đến kết quả cuộc chiến của hai người. Ninh Đạo Kỳ chỉ cần có chút chia trí, Tống Khuyết tất lợi dụng chỗ hở mà nhập vào cho đến khi Ninh Đạo Kỳ lạc bại thân vong.
Hai bên phía sau Ninh Đạo Kỳ là những bức tượng đắp người theo hầu của Văn Thù Bồ Tát như Dược Sư, Thích Già. Ngoài ra còn có năm trăm La Hán bằng đồng phân bố đều khắp trên sân thượng bằng đá trắng, giống như chư thiên thần phật giáng lâm phàm trần, lặng lẽ làm người chứng kiến cho cuộc chiến kinh thiên động địa có ảnh hưởng sâu sắc nhất trong võ lâm trung thổ trong vòng một trăm năm nay.
Trong lư hương lớn trước am thờ phật Văn Thù, đàn hương đang bốc cháy, mùi hương tản đi khắp nơi, làm cho bầu không khí của cuộc quyết chiến sắp đến tăng thêm phần thần bí và siêu trần thoát tục.
Tống Khuyết điềm tĩnh tự nhiên bước trên bậc thềm đá trắng, đi thẳng vào sân đến chỗ trước mặt Ninh Đạo Kỳ chừng hai trượng, nhẹ nhàng nói:
- Đạo huynh từ sinh tử của chính mình thể hội sự khởi đầu và kết thúc của trời đất, theo đạo tự nhiên mà thoát khỏi giới hạn của sinh tử, khiến Tống Khuyết nhớ đến Cự Bằng Thần Điểu trong Tiêu Diêu Du của Trang Chu với cái lưng lớn như núi Thái Sơn, cánh như đám mây rủ ở trên trời, nương theo ngọn gió lốc xoắn như sừng dê mà bay lên chín vạn dặm, đến chỗ không còn mây, nâng đỡ trời xanh (4). Tống Khuyết tuy thiếu khả năng đi đi về về nơi chân trời cuối đất ấy, nhưng nhảy nhót trên cành cũng cảm thấy tự do tự tại mặc tình thỏa thích tung hoành, đạo huynh thấy sao?
Truyện ngụ ngôn này của Trang Chu có sức tưởng tượng to lớn kiệt xuất, nhưng nó không phải ca tụng sự vĩ đại của cá Côn chim Bằng, mà hàm ý chỉ ra sự khác biệt giữa lớn và nhỏ không có ý nghĩa gì. Con chim sẻ bé nhỏ trong đầm lầy thấy đại bàng bay qua trên không, cũng chẳng hề thấy thế mà xấu hổ về sự bé nhỏ của mình, ngược lại còn cảm thấy mình thanh nhàn tự tại, hoàn toàn tùy ý tự nhiên.
Tống Khuyết dùng mũi giáo Trang Chu để tấn công cái thuẫn Trang Chu của Ninh Đạo Kỳ, nói rõ ra quyết tâm trợ giúp Khấu Trọng thống nhất thiên hạ của mình, nên bất kể Ninh Đạo Kỳ lập luận có vĩ đại thế nào thì vì lập trường hai bên bất đồng cũng chỉ có thể tùy ý tự nhiên.
Khấu Trọng nghe xong trong lòng bội phục, không có kiến thức như họ, đừng mong có thể nói chuyện và trao đổi đối chọi gay gắt đến thế.
Ninh Đạo Kỳ cười ha hả:
- Ta còn tưởng Lão, Trang không hợp tì vị của Tống huynh nên huynh sẽ chẳng thèm để ý, nào ngờ huynh còn tinh thông hơn cả Ninh Đạo Kỳ ta. Ta hiểu rồi! Dám hỏi Tống huynh có lòng tin trong bao nhiêu đao thì thu thập được ta.
Tống Khuyết vuốt râu cười:
- Chín đao thì sao?
Ninh Đạo Kỳ ngạc nhiên:
- Nếu Tống huynh cho rằng Tán Thủ Bát Phác của Đạo Kỳ chỉ có tám chiêu thì e rằng trong có đã có chút hiểu lầm rồi.
Khấu Trọng cũng đồng ý với kiến giải của ông. Với kinh nghiệm đã từng cùng ông ta giao thủ, chiêu thức của Ninh Đạo Kỳ tùy theo ý muốn, hoàn toàn không có phương thức xác định, như thiên mã hành không, không chịu bất kỳ sự ràng buộc hay giới hạn nào.
Tống Khuyết ngửa mặt lên trời cười:
- Đạo lý lớn thì rất đơn giản và dễ dàng, số bắt đầu ở một mà kết thúc ở chín. Tán Thủ Bát Phác tuy có thể biến hóa vô cùng, nhưng tính đến cùng thì cũng chỉ quy về tám loại ý nghĩa tinh yếu. Nếu không thì chưa chắc đã được đạo huynh đặt tên là Bát Phác. Tống Khuyết ta nếu không có khả năng khiến đạo huynh không dám thi triển lại chiêu cũ, thắng bại chẳng nói cũng biết. Nhưng nếu đạo huynh không thể không thi triển hết bát quyết, đến đao thứ chín tự nhiên thắng bại đã phân rõ ràng. Đạo huynh còn cho rằng trường đấu này có chỗ hiểu lầm chăng?
Ninh Đạo Kỳ bật cười khanh khách:
- Thật ra ta đã dùng chút tâm cơ, hy vọng Tống huynh giữ lời nói lần này. Nếu Đạo Kỳ có thể chống được chín đao của Tống huynh, Tống huynh có thể từ nay tiêu diêu tự tại, ta với huynh hai người đều không quản đến chuyện của đám hậu sinh tiểu bối nữa được chăng?
Trong lòng Khấu Trọng sinh ra hy vọng. Nếu Ninh Đạo Kỳ có thể tiếp được chín đao của Tống Khuyết, mọi người bắt tay giảng hòa. Tống Khuyết buộc phải giữ lời thoái ẩn, nhưng đã có gã kế thừa đại nghiệp của ông, vì ông hoàn thành tâm nguyện. Như vậy cũng tốt hơn bất cứ bên nào thương vong, đó chính là điều gã thật sự không muốn nhìn thấy nhất.
Tống Khuyết im lặng một lát rồi trầm giọng nói:
- Đạo huynh có từng giết qua người nào chưa?
Ninh Đạo Kỳ tỏ vẻ hơi kinh ngạc, thản nhiên đáp:
- Ta chưa từng khai sát giới, Tống huynh vì sao lại hỏi điều này?
Tống Khuyết thở dài:
- Đao pháp Tống mỗ là thứ đao pháp giết người được rèn luyện ra từ những trận huyết chiến lớn nhỏ, không phải người chết là ta vong, trong quá trình tuy không có sinh tử thắng bại, hậu quả ắt hẳn là như thế. Đạo huynh nếu không có lòng toàn lực phản công đưa Tống mỗ đến tử địa, cuộc chiến này tất chết chẳng sai, không hề có đường lui. Đêm nay Tống Khuyết ta vì Thanh Huệ phá lệ một lần, để đạo huynh lựa chọn xem vẫn còn muốn tiếp Tống Khuyết ta chín đao hay không.
Ninh Đạo Kỳ hai tay chắp lại, dáng vẻ tự nhiên ôn hòa:
- Xin hỏi nếu Đạo Kỳ có thể chịu được chín đao vẫn chưa chết, Tống huynh có phải cũng y theo lời đề nghị trước đó của bản nhân chăng?
Tống Khuyết ngửa mặt lên trời cười:
- Đương nhiên là theo đúng như lời của đạo huynh. Xem đao!
Quát xong liền giơ tay ra sau rút đao.
Khấu Trọng trông thấy tức thì ngẩn người ra, không dám tin cặp mắt của mình chút nào.
oOo
Âm Hiển Hạc từ trong Thượng Lâm Uyển vội vã đi ra, cứ coi thần tình của hắn là biết tìm không được Kỷ Thiến.
Kỷ Thiến là danh kỹ cấp cao nhất ở Thượng Lâm Uyển, đặt trước cũng chưa chắc được nàng cho gặp, huống chi lại là giả là khách mộ danh cầu kiến.
Từ Tử Lăng cố ý kéo cái mũ tuyết sụp xuống quá chân mày một chút, từ chỗ tối đi ra, cùng Âm Hiển Hạc lúc này đang đội nón lên, sóng vai đi trên đại lộ Bắc Uyển trong gió tuyết bao trùm.
Âm Hiển Hạc trầm giọng:
- Ta tốn hết một lượng bạc mới nghe được nàng mấy ngày rồi không hề quay lại Thượng Lâm Uyển, thật cao giá.
Bọn họ tìm khắp Minh Đường Oa và Lục Phúc Đổ quán mà bóng dáng người đẹp ấy vẫn chưa thấy đâu, chỉ còn nước đến Thượng Lâm Uyển cầu may.
Trên đại lộ gió to tuyết lớn, người đi đường ngựa xe lác đác, bên kia đường cảnh tượng mơ hồ, đối với việc che giấu thân phận của họ thật là vô cùng có lợi.
Từ Tử Lăng:
- Còn có một chỗ, đó là khuê phòng của nàng.
Âm Hiển Hạc không hề suy nghĩ nói:
- Tử Lăng dẫn đường!
oOo
Tay Tống Khuyết giơ về phía sau thong thả mà ổn định, mỗi một phân một thốn di động đều được giữ ở một tốc độ như nhau. Tốc độ ấy đều đặn không thay đổi, điều này căn bản thật sự không thể xảy ra. Động tác của con người có thể bảo trì tốc độ trong một chừng mực nào đó đã là vô cùng khó gặp.
Nên biết bất kỳ động tác nào đều do vô số động tác nối tiếp nhau mà thành. Giữa hai động tác thể nào cũng có chút khác biệt nặng nhẹ nhanh chậm, thế nhưng những động tác liền lạc hợp thành động tác giơ tay ra sau rút đao của Tống Khuyết, mỗi một cử động đều giống hệt như khuôn đúc lập lại động tác trước thật là một kỳ tích khiến người ta khó tin. Nếu không phải nhãn lực Khấu Trọng ắt khó mà nhìn ra được sự huyền diệu bên trong, khiến gã phải há miệng trợn mắt, khó mà tin nổi.
Hai tay Ninh Đạo Kỳ vẫn chắp lại, dị quang trong mắt sáng rực, chăm chú nhìn Tống Khuyết.
Động tác bạt đao của Tống Khuyết tựa như cùng với thiên địa và bổn thể vĩnh viễn ẩn tàng sâu bên trong trời đất kết hợp làm một. Bản thân nó đã tràn đầy đạo lý trong bất biến chứa thiên biến vạn hóa. Không hề có chút sơ hở nào, càng khiến cho người ta cảm thấy theo sau đao đầu tiên này của ông ắt là kinh thiên địa, khiếp quỷ thần, không có bắt đầu cũng không có kết thúc.
Đao đạo đạt mức đó đến quỷ thần cũng khó lường được.
Khi động tác rút đao diễn ra được phân nửa, không thừa không thiếu một ly, Tống Khuyết bỗng tăng tốc, với thủ pháp kinh người mà mắt thường khó thể thấy được, đột nhiên cầm lấy chuôi đao.
Cũng cùng khoảnh khắc Tống Khuyết tăng tốc, hai tay khép lại của Ninh Đạo Kỳ tách ra, tựa như biết trước động tác biến hóa của Tống Khuyết.
"Keng!"
Thiên Đao rời vỏ.
Trời đất hòa lẫn vào nhau. Quảng trường đá trắng không còn là quảng trường đá trắng trước đó nữa, mà đầy ắp sát khí. Thiên Đao vạch trên không trung, đao quang chớp chớp, sinh cơ tử khí của thiên địa toàn bộ tập trung ở mũi đao. Trên trời trăng sao lập tức ảm đạm thất sắc. Cảm giác này kỳ quái quỷ dị đến cực điểm, khó lòng giải thích cũng chẳng thể hình dung được.
Tiếp theo Khấu Trọng không nhìn thấy được Tống Khuyết, mà chỉ thấy Thiên Đao phá không bay đến, vượt qua không gian hai trượng đánh thẳng đến Ninh Đạo Kỳ.
Thiên Đao không mang theo một tiếng gió rít nào, cũng không thấy có nửa điểm đao khí, nhưng Khấu Trọng ở ngoài dãy lan can điêu khắc bằng đá trắng của quảng trường lại có thể thấy rõ với chiêu đao nghiêng trời lệch đất đó của Tống Khuyết, Ninh Đạo Kỳ ngoại trừ thẳng thắng ngạnh tiếp thì không còn lựa chọn nào khác.
Đây mới chính là công phu chân thực của Tống Khuyết.
Trong cùng thời gian trước khi Thiên Đao công đến, Ninh Đạo Kỳ lao về phía trước, tựa như vỗ mà không phải vỗ, lúc nhanh lúc chậm, chỉ là tốc độ đó huyền ảo khó lường, có thể khiến người ta trông thấy mà đầu đau như muốn nứt ra, nhưng lại rất tiêu sái dễ nhìn. Đột nhiên Ninh Đạo Kỳ nhảy lên giữa chừng không đánh xuống.
"Bùng!"
Tay áo bào Ninh Đạo Kỳ phồng lên hình vòng cung, cứng rắn ngăn chặn một đao đoạt thiên địa tạo hóa của Tống Khuyết.
Ninh Đạo Kỳ mượn lực bay lên, động tác dời đi trong khoảng không gian hơn trượng được hoàn thành trong tích tắc, thoáng cái đã đứng đâu lưng đằng sau Tống Khuyết, cách khoảng một trượng.
Thân hình hùng vĩ của Tống Khuyết lại hiện ra trước mắt Khấu Trọng. Thiên Đao dường như biến thành một vật sống có linh giác truy tìm đối thủ, quay một đường mảnh đầy mỹ lệ hợp với đường cong của thiên địa, hướng về giữa lưng Ninh Đạo Kỳ ở phía sau đâm tới, nhưng thân thể của ông hoàn toàn do đao lôi kéo, tự nhiên trôi chảy, tựa như chim bay cá bơi, hoàn chỉnh không chút khiếm khuyết, tuyệt diệu vô cùng.
Khấu Trọng trông thấy liền tâm lĩnh thần hội, thiếu chút nữa đã vỗ tay kêu hay.
Xá đao chi ngoại, tái vô tha vật.
Càng ngoài ý liệu của gã hơn đó là Ninh Đạo Kỳ không quay đầu, hữu thủ ấn nhẹ trước ngực, tả thủ phất về phía sau, tay từ ống tay áo thò ra chưởng biến thành trảo, trảo biến ra chỉ, cuối cùng ngón cái ấn vào mũi nhọn Thiên Đao đang xoáy vòng đánh tới, biến hóa ấy quả thực tinh diệu, chỉ dựa vào cảm giác mà phán đoán được vị trí thế đao khiến người xem thấy phải khen ngợi vô cùng.
Chỉ và đao giao phong phát ra một tiếng kình khí giao kích "Ba". Cuồng phong từ chỗ va chạm cuồn cuộn mãnh liệt bật ra bốn phía, thanh thế kinh người.
Đao thế Tống Khuyết biến đổi, che khắp toàn thân, tựa như kim quang lưu chuyển làm cho người khác trong nhất thời không cách nào nắm rõ được vị trí của Thiên Đao.
Tống Khuyết quả không hề nói ngoa. Giao chiến đến lúc này ông đã thi triển đao thứ ba, mỗi đao trước đều khiến cho Ninh Đạo Kỳ không dám dùng lại chiêu cũ, mà chỉ có thể lấy một bản lĩnh giữ nhà khác ra ứng phó.
Tống Khuyết lúc thì tựa như tiến mà không phải tiến, giống lùi mà không phải lùi. Ninh Đạo Kỳ đầu chúi xuống chân bên trên lao đến phía trên Tống Khuyết, như đinh đóng xuống đâm vào trong màn đao quang của Tống Khuyết, lại dùng đỉnh đầu thúc mạnh vào đầu Tống Khuyết, chiêu số tựa như muốn cùng chết với địch.
Kỳ chiêu như thế, Khấu Trọng chưa bao giờ nghĩ đến, nhưng gã cảm nhận được đó chính là chiêu số cứu mạng duy nhất có thể ứng phó với đao pháp không có cách giải phá của Tống Khuyết.
Đao quang Tống Khuyết tan biến, tả thủ vỗ vào thiên linh huyệt trên đỉnh đầu Ninh Đạo Kỳ. Hai tay Ninh Đạo Kỳ từ bên cạnh nhanh nhẹn chọc vào khoảng giữa, cùng lúc hai ngón tay giữa điểm vào ngay chưởng tâm Tống Khuyết.
"Phụp!"
Tống Khuyết quay vòng tựa như chong chóng, hóa giải chỉ khí không gì chống đỡ nổi của Ninh Đạo Kỳ. Ninh Đạo Kỳ cất người bay lên quay lại chỗ cũ, hai tay giang ngang, đầu ngón tay chắp lại hình dáng như mỏ chim, đối diện một cách tự nhiên với đao phong Tống Khuyết đang chĩa về phía ông từ xa, hình thành cuộc diện giằng co đối đầu.
Tống Khuyết ngước mặt lên trời cười:
- Trong Bát Phác gặp được ba, mới biết quả thật danh bất hư truyền, khiến Tống Khuyết cảm thấy rất thống khoái.
Ninh Đạo Kỳ cười nhẹ:
- Đao pháp Tống huynh làm cho ta nhớ tới khoảng chính giữa tài và bất tài mà Trang Chu đã nói đến. Tài và bất tài, tựa như giống nhau mà lại khác nhau, cho nên không tránh khỏi lụy. Nếu người thuận theo đạo đức mà chu du thì không như vậy, họ sẽ vượt qua sự khen chê, có lúc như rồng có lúc như rắn, tùy thời biến hóa mà không chuyên vào thứ gì; lúc cao lúc thấp đều dựa vào sự hài hòa về lực lượng. Chu du giữa vạn vật, dùng vật mà không để vật khống chế, như vậy làm sao lụy được (5).
Khấu Trọng nghe xong trong lòng chấn động. Cái gọi là tài và bất tài chính là nói đến hữu dụng và vô dụng, vừa đúng với ý nghĩa tinh túy hữu pháp và vô pháp của Thiên Đao, nhưng điều này cũng chưa hình dung đầy đủ chỗ thần diệu của Thiên Đao, cho nên tựa như thế mà không phải thế, chưa tránh khỏi trói buộc. Chỉ có ở trong thiên biến vạn hóa mong cầu sự thường hằng bất biến, có lúc thì như rồng bay chín tầng trời, lúc lại như rắn chìm ẩn trong lòng đất, chẳng khen chẳng chê, không bị khống chế bởi sự vật, sau khi được đao rồi quên đao mới có thể thọ ngang cùng trời đất, ta và vật đều không tồn tại, tiêu dao tự tại.
Ninh Đạo Kỳ nói về Tống Khuyết, thật ra cũng là diễn tả chính bản thân mình.
Chính vì hai người đều đạt đến cảnh giới như thế mới có thể đấu ngang sức ngang tài, thế lực ngang nhau.
Tống Khuyết chuyên chú về công, Ninh Đạo Kỳ chuyên về thủ.
Người nào cũng không thể chiếm được một chút lợi thế hơn đối phương.
Thắng bại liên quan ở chỗ liệu Ninh Đạo Kỳ có thể chặn được đệ cửu đao của Tống Khuyết.
Tống Khuyết vui vẻ nói:
- Khó giấu được pháp nhãn của đạo huynh. Rốt cuộc Tống Khuyết cũng kiến thức được Tán Thủ Bát Phác danh chấn thiên hạ của đạo huynh. Chỗ tinh yếu là ở chữ "Hư" ấy. Hư có thể sinh khí, cho nên cái hư ấy vô hạn, thanh tịnh đạt đến mức hư thì cái hư ấy trở thành thật. Giữa hư và thật, trạng thái tuy có vẻ rất khác nhau, nhưng đều là đạo của tự nhiên, huyền diệu khó giải thích, không lớn không nhỏ.
Khấu Trọng nghe thấy mà trong lòng chấn động, cái gọi là tài mà bất tài, chính là chỉ hữu dụng và vô dụng thật ra đều không tồn tại.
Trong lòng Khấu Trọng bội phục sát đất. Cả hai người đều hiểu rõ đối phương, bất phân cao thấp. Kết quả cuộc chiến quả thật khó lòng mà dự đoán được.
Ninh Đạo Kỳ cười ha hả:
- Còn sáu đao nữa, xin mời Tống huynh!
-----
Chú thích
(1) Câu này hay nhắc đến trong Tru Tiên; là lời của trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử:
Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu; thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu. Thiên địa chi gian, kì do thác nhược hồ? Hư nhi bất khuất; động nhi dũ xuất. Đa ngôn sổ cùng, bất như thủ trung.
Dịch: Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm, thánh nhân bất nhân, coi trăm họ như chó rơm. Khoảng giữa trời đất như ống bể, hư không mà không kiệt, càng chuyển động, hơi lại càng ra. Càng nói nhiều lại càng khốn cùng, không bằng giữ sự hư tĩnh (Theo bản dịch của Nguyễn Hiến Lê); tôi nghĩ ý Huỳnh Dị muốn mượn câu này để nói tất cả mọi điều trong thế gian đều đến từ mặt khách quan không như ý, chứ không liên hệ gì tới tư tưởng về mặt đạo đức luận của Lão Tử (Lời dịch giả).
(2) Vua Nghiêu, Thuấn được coi như thánh; vua Kiệt, Trụ được xem là kẻ ác trong lịch sử và văn hóa Trung Hoa.
(3) Việc lễ, nguyên tắc thì cái phần thực hành là Dụng còn ý bao hàm ở trong gọi là Thể. (Dịch giả)
(4) Thang chi vấn cấc dã thị dĩ. Cùng phát chi bắc hữu minh hải giả, thiên trì dã. Hữu ngư yên, kì quảng sổ thiên lí, vị hữu tri kì tu giả, kì danh vi côn. Hữu điểu yên, kì danh vi bằng,bối nhược Thái sơn, dực nhược thuỳ thiên chi vân, đoàn phù dao dương giác nhi thượng giả cửu vạn lí, tuyệt vân khí, phụ thanh thiên, nhiên hậu đồ Nam, thả thích Nam minh dã. Xích yến tiếu chi viết: “bỉ thả hề thích dã? ngã đằng dược nhi thượng, bất quá sổ nhận nhi hạ, ngao tường bồng hao chi gian, thử diệc phi chi chí dã. Nhi bỉ thả hề thích dã?” Thử tiểu đại chi biện dã.
Dịch: Trong cuộc đàm thoại giữa ông Thang và ông Cách cũng có một đoạn như vầy: Ở phương Bắc hoang dã có một cái biển gọi là “Ao trời”, trong biển có một con cá chiều ngang rộng mấy ngàn dặm, không biết chiều dài là bao nhiêu, gọi là cá côn; có một con chim gọi là chim bằng, lưng lớn như núi Thái Sơn, cánh như đám mây rủ ở trên trời, nó nương ngọn gió lốc, xoắn như sừng cừu, bay lên cao chín vạn dăm, vượt lên khỏi các đám mây, lưng đội trời xanh mà bay về biển Nam. Một con chim cút ở trong cái đầm nhỏ cười nó: “Con đó bay đi đâu vậy? Tôi lên cao độ vài nhẫn rồi xuống, bay liệng trong đám cỏ bồng cỏ cảo, cho bay như vậy là đủ rồi. Con đó bay đi đâu vậy kìa?”. Lớn với nhỏ khác nhau như vậy đó.
(Trích trong đoạn 5
(5) Trang Tử hành ư sơn trung,kiến đại mộc,chi diệp thịnh mậu,phạt mộc giả chỉ kì bàng nhi bất thủ dã。Vấn kì cố 。viết :” vô sở khả dụng” Trang tử viết:” thử mộc dĩ bất tài đắc chung kì thiên niên.” Trang tử xuất ư san, xá ư cố nhân chi gia。 Cố nhân hỉ,mệnh thụ tử sát nhạn nhi hưởng chi。Thụ tử thỉnh viết:”kì nhất năng minh,kì nhất bất năng minh,thỉnh hề sát?” chủ nhân viết:” sát bất năng minh giả ”
Minh nhật,đệ tử vấn ư Trang Tử viết:” tạc nhật sơn trung chi mộc,dĩ bất tài đắc chung kì thiên niên;kim chủ nhân chi nhạn,dĩ bất tài tử。Tiên sinh tương hà xử?” Trang Tử tiếu viết: “Chu tương thủ hồ tài dữ bất tài chi gian。Tài dữ bất tài chi gian,tự chi nhi phi dã,cố vị miễn hồ lụy.”
Dịch: Trang tử đi trong núi, thấy có cây lớn cành lá sum suê. Người đốn cây dừng lại bên cạnh mà không đốn. Hỏi lý do, thì người ấy đáp: “Vì không dùng được gì cả”. Trang Tử nói: “Cây nầy nhờ bất tài mà được sống trọn tuổi trời”.
Trang Từ sau ra khỏi núi, ghé nghỉ lại nhà một người quen. Người quen mừng rỡ, gọi trẻ giết ngỗng làm thịt đãi khách. Đứa trẻ thưa: “Một con biết kêu, một con không biết kêu, xin hỏi giết con nào?”. Chủ nhân đáp: “Giết con không biết kêu”.
Hôm sau, các học trò hỏi Trang Tử: “Hôm qua, cây trong núi nhờ bất tài mà được sống trọn tuổi trời, nay con ngỗng của chủ nhà vì bất tài mà chết. Tiên sinh định ở vào chỗ nào?”. Trang Tử cười đáp: “Chu nầy sẽ ở vào khoảng giữa tài và bất tài. Giữa tài và bất tài, có vẻ giống nhau đấy nhưng lại không phải, cho nên chưa tránh khỏi lụy”. (Trần Văn Chánh dịch.)
Tham khảo:
(