Đại Đường Đạo Soái

Chương 301: Kỳ ngộ

Vũ Quan nằm ở bờ bắc sông Vũ Quan huyện Đan Phượng, cùng với Hàm Cốc

quan, Tiêu quan, Đại quan tạo thành “Tứ quan của nhà Tần”. Vũ Quan có

lịch sử lâu đời, được xây dựng từ thời Xuân Thu, lúc ấy có tên là “Thiếu Tập quan”, vào thời Chiến quốc đổi thành “Vũ Quan”. Quan thành được xây dựng trên một khu đất cao tương đối bằng phẳng giữa hẻm núi, phía bắc

dựa vào núi Thiếu Tập, phía nam kề sát địa thế hiểm yếu. Tường thành

dùng đá xanh đúc thành, vô cùng chắc chắn. Hai phía Đông Tây mỗi bên mở

một cửa, dùng gạch đá bao lại. Trên cửa phía Tây có bốn chữ “Tam Tần yếu tắc”, trên cửa phía Đông có hai chữ “Vũ Quan”. Trong nội môn có bốn chữ “Cổ Thiếu Tập quan”. Cửa phía tây địa thế tương đối bằng phẳng, chỉ có

kéo dài về phía đông, sườn núi uốc lượn, dốc cao khó đi, bởi vậy Vũ Quan là vùng giao tranh binh đao thời cổ đại.

Năm đó Lý Thế Dân đề

nghị lấy Quan Trung chiếm Trường An, dùng Trường An làm cơ sở, nhất

thống thiên hạ, thấy Quan Trung là nơi hiểm yếu đối địch, giống như Tần

quốc, có Hàm Cổ quan, Vũ Quan, có thể vô tư phát triển lớn mạnh, khiến

chư hầu thiên hạ tiêu hao vì tranh giành lẫn nhau, còn mình ở bên cạnh

nghỉ ngơi lấy sức, tùy thời mà động.

Con đường Đỗ Hà quyết định

đi chính là từ Thương Châu qua Vũ Quan, tiến vào Đặng Châu xuôi nam Kinh Châu, sau đó theo sông Giăng Lang Kinh Châu thẳng đến Giang Nam!

Lộ tuyến như vậy có hai mục đích, thứ nhất có thể lãnh hội phong mạo Kinh

Châu, mở mang tầm mắt trước Trường Giang tráng lệ của Đường triều, thứ

hai hắn muốn biết nếu từ Giang Lăng xuôi theo Giang Nam đến Trường An

cần bao nhiêu thời gian, để tính ra thời gian đại quân Tô Định Phương

xuôi nam cần hao phí.

Vũ Quan là môn hộ Quan Trung, vì vậy cho dù là thời thái bình thịnh thế, ở đây cũng đồn trú hơn ngàn thủ binh.

Vượt qua Vũ Quan, đi về phía đông, như trên sách ghi lại, ở đây địa thế dần dần hiểm yếu, không phải là đại đạo bằng phẳng như khi tới gần Quan

Trung. Một con đường nhỏ chỉ chứa được năm người cùng đi qua, núi non

uốn lượn, một mặt dựa núi, mặt khác lại là thâm cốc.

Bởi vì lộ

tuyến hiểm yếu, Đỗ Hà xuống ngựa đi bộ, người đi trên đường không đông

lắm, phần lớn là những người đi tắt hoặc là thương nhân vân du bốn

phương, bọn họ gánh hàng rong lớn nhỏ, thỉnh thoảng còn có thể hét to

vài câu, khiến con đường dài đằng đẵng tăng thêm vài phần huyên náo.

Đi được mấy dặm, Đỗ Hà đã đến được khúc cua hiểm yếu nhất, ở đây địa thế

hiểm trở, dốc vô cùng, đường núi nho bé, chỉ có thể đi được hai người,

hơn nữa chỗ góc cua lại hiện ra góc chết chín mươi độ, người qua lại

không biết đối diện có người, nếu không chú ý đụng vào nhau, không cẩn

thận sẽ sơ sẩy rơi xuống, nơi này là nơi dễ xảy ra chuyện nhất.

Lúc này, Đỗ Hà mơ hồ nghe được tiếng khóc của một đứa trẻ, nhìn ra xa, đã

thấy phía trước chỗ quẹo vào tụ tập hơn mười người, giống như kẹt xe,

vây lại một chỗ, tiếng khóc chính là từ đám người phía trước truyền đến.

Khi còn nhỏ, hắn đã xem nhiều bộ phim võ hiệp, say mê những đại hiệp hành

hiệp trượng nghĩa, sau này mặc dù trên tivi thường xuyên đưa tin nơi này phát sinh ăn cướp, chỗ kia xảy ra bắt cóc, nhưng hắn lại không gặp

nhiều, rất ít khi gặp phải.

Lúc này thân phận của hắn là hiệp

khách, vừa vặn là đại hiệp bí ẩn, không khỏi bước nhanh hơn, tìm kiếm

xem rút cuộc có chuyện gì để mình xuất lực.

Khi hắn tới gần, phát hiện nơi đó cực kỳ hiểm trở, cũng không dám lách vào phía trước, chỉ

hỏi người đứng trước tình huống như thế nào.

Một thương nhân thở dài nói:

- Đích thị là có người té xuống chứ sao, nơi này có khúc cua liên hoàn,

có thể nói là tử địa của Vũ Quan, là chỗ nguy hiểm nhất.

Hắn cũng vừa đến, không biết rõ tình hình huống, nhưng vì thường xuyên qua lại vì vậy rất hiểu rõ địa thế nơi này.

Một người qua đường đứng phía trước giải thích:

- Có một nam tử hơn 20 tuổi, vì cứu một đứa trẻ 10 tuổi, ngã sấp xuống

dưới vách núi. Cha của đứa bé đang muốn nghĩ cách xuống đó, xem có thể

cứu được hay không, đang mượn người qua đường dây thừng.

Đỗ Hà

nhìn xuống dưới vách núi, vách núi không cao nhưng cũng phải đến năm sáu trượng, ước chừng mười lăm mét, có thể trông thấy đáy dốc, phía dưới

toàn là loạn thạch, nếu ngã xuống có lẽ cơ hội sống không lớn.

Vị thương nhân thấp giọng nói:

- Vách núi này cao năm trượng, người ngã xuống làm gì còn cơ hội sống sót.

Người qua đường cũng tiếp lời:

- Chúng ta cũng nói như vậy! Nhưng cha đứa trẻ lại nói, cho dù chết cũng

phải mang thi thể người kia lên, an táng cẩn thận, không thể để cho ân

nhân cứu mạng phơi thây nơi hoang dã, bị thú vật ăn thịt.

Vị thương nhân ngừng lại một lát nói:

- Ta cũng có dây thừng, chỉ có điều trên vách núi này tựa hồ không có chỗ đặt chân, có dây thừng cũng chưa chắc có thể xuống dưới, đừng nói đến

chuyện đi lên, huống chi còn muốn mang theo một người? Vạn nhất hắn cũng xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn, chẳng phải ta đã hại chết một mạng người hay sao?

Đỗ Hà cười nói:

- Ngươi đưa dây thừng cho ta, để ta xuống dưới, ta có võ công, có lẽ không cách nào mang một người đi

lên, nhưng tự mình lên xuống có lẽ không có vấn đề.

Đỗ Hà dùng

khinh công của hắn trực tiếp thả người bay xuống, cự ly năm sáu trượng

này căn bản không có vấn đề, nhưng đi lên lại bất lực, nhưng chỉ cần

mượn lực của dây thừng, lên xuống lại dễ như trở bàn tay.

Vị thương nhân lại càng hoảng sợ, vội nói:

- Việc này không quan hệ đến ngươi!

Đỗ Hà cười nói:

- Chuyện này xác thực không quan hệ đến ta, nhưng ta cũng không muốn nhìn thấy một người xả thân cứu người phải phơi thây nơi hoang dã như vậy,

có thể giúp được thì giúp, huống chi đối với ta mà nói, chuyện này chỉ là tiện tay mà thôi.

Vị thương nhân nghe Đỗ Hà nói tự tin như

vậy, cũng biết trên đời kỳ nhân vô số, tin lời Đỗ Hà nói, lấy từ gánh

hàng rong của mình ra một sợi dây thừng to dài. Đây vốn là sợi dây hắn

định dùng để gia cố lại nóc nhà, tương đối rắn chắc, đưa cho Đỗ Hà nói:

- Tiểu ca, chúng ta đã nói rồi vạn nhất có chuyện gì bất trắc, ngươi cũng đừng tới tìm ta?

Đỗ Hà cười nói:

- Ngươi yên tâm, không có việc gì đâu!

Đỗ Hà cầm sợi dây thừng, thử độ mềm dai, thoả mãn nhẹ gật đầu, tạo một

nút thòng lọng, thả người nhảy xuống vách núi, vì không muốn mọi người

kinh hãi, từng chút một hạ xuống, cho đến lúc xuống dưới đáy vực.

Hắn đã tận lực làm mọi người không kinh hãi, nhưng vẫn khiến mấy người đứng trên bờ vực trợn mắt há hốc mồm.

Đỗ Hà vừa xuống tới đáy vực, đã nhìn thấy xung quanh xương trắng chồng

chất, tận lực lắng nghe, ngoài mùi thi thể thối nát, bên trái còn truyền dến mùi máu tươi, thuận thế đi về phía đó, nhìn thấy chỗ đống đá cách

đó không xa có một người ngã sấp, khoảng chừng 25, 26 tuổi, khuôn mặt

đầy máu, không thấy rõ diện mạo, dưới người hắn có một vết máu lớn, có

lẽ hắn chính là người mình cần tìm. Đỗ Hà tiến lên thăm dò hơi thở của

hắn, khí hít vào nhiều, thở ra ít, người này có lẽ đã hôn mê, mất đi ý

thức.

Đỗ Hà chống bàn tay lên ngực hắn, truyền nội lực vào bên

trong. Từ sau khi dùng nội lực chữa khỏi bệnh cho Tần Quỳnh, Đỗ Hà cũng

nghiên cứu qua kỹ xảo chữa thương của nội lực, cũng có tâm đắc, dùng nội lực của mình bảo vệ tâm mạch của người thanh niên, muốn giúp hắn khôi

phục, nhưng lại phát hiện nội tạng của hắn đã dập nát, không thể xoay

chuyển.

Người này có lẽ được nội lực kích thích, ọe ra một ngụm

máu, trong ngụm máu còn có một mảnh thịt, nhìn thấy Đỗ Hà, trong mắt

liền lộ ra thần thái khác biệt, như hồi quang phản chiếu, mở miệng nói:

- Vị huynh đài, ta có lẽ không xong rồi, trong ngực ta có 30 ngân lượng,

ngươi cầm mười lượng đưa cho góa phụ Đỗ Phi của Đỗ gia ở huyện Tức Mặc,

còn lại ngươi hãy giữ lấy, nói với nàng đại ca Đỗ Tường thực xin lỗi

nàng.

Hắn nói xong lời này, còn chưa đợi Đỗ Hà có đồng ý hay không, đã nghiêng đầu sang một bên, bỏ mạng.

Đỗ Hà gãi gãi đầu, tựa hồ đã mang phiền phức vào người, trong đầu hồi

tưởng lại ánh mắt khẩn cầu của Đỗ Tường trước khi chết, thầm nghĩ:

- Được rồi, xem như đi một chuyến. Tức Mặc giáp biển, cùng lắm thì đi đường biển, đến thẳng Dương Châu.

Đỗ Hà cất túi tiền của Đỗ Tường vào trong ngực, định vác hắn mang lên bờ vực.

Bỗng nhiên chân hắn không biết đá phải thứ gì đó, phát ra âm thanh cổ quái,

Đỗ Hà cúi xuống nhìn, phát hiện dưới chân có một thứ giống như yêu bài

lớn bằng bàn tay, đen xì, hiếu kỳ cầm yêu bài lên xem, có vẻ rất nặng,

có lẽ được đúc từ huyền thiết.

Huyền thiết là thứ có từ xa xưa,

hơn nữa đến từ không trung, là kim loại kỳ quái ẩn chứa bên trong thiên

thạch ngoài vũ trụ, nặng hơn sắt tám chín lần. Trong binh khí chỉ cần ẩn chứa huyền thiết, tính chất sẽ đề thăng lên mấy lần, nếu thành phần

huyền thiết nhiều thì chính là thần binh. Bên trong thanh Bàn Long kiếm

mà Lý Thế Dân đưa cho hắn cũng có ẩn chứa một ít huyền thiết.

Đỗ

Hà chấp chưởng viện khoa học kỹ thuật, từng nghe các thợ thủ công nhắc

đến loại đồ chơi huyền thiết này, tuy nhiên cho dù ở hoàng cung cũng

không thấy nhiều, nhưng dưới vách núi này lại có một khối huyền thiết

lớn như vậy, chẳng lẽ đúng như trên sách nói, dưới vực có bảo bối?

Nghĩ đến đây, Đỗ Hà cũng không vội vàng, cất miếng huyền thiết lệnh bài vào trong ngực, bắt đầu đi thu thập dưới đáy vực.

Ở đây không có bí tịch võ công, thần binh lợi khí, nhưng tiền bạc ngọc

bội châu báu đồ trang sức thì không thiếu, phần lớn là tài vật trên thân người chết.

Đỗ Hà cũng không phải loại người cổ hủ, hắn luôn tin tưởng người đã chết có thể tạo phúc cho người sống là tốt nhất, vì

vậy thu thập tất cả vào trong túi. Hắn không phải thiếu tiền, nhưng tặng số của cải này cho người nghèo vẫn tốt hơn là vứt bỏ dưới đáy vực.

Hắn cõng Đỗ Tường bò lên trên vách núi, mọi người thấy người thanh niên đã

chết, đều thở dài thở ngắn, hận số kiếp ngắn ngủi, đồng thời cũng không

khỏi tán thưởng bản lĩnh của Đỗ Hà.

Đỗ Hà và phụ thân của đứa trẻ được cứu mang Đỗ Tường đi chôn cất trên sườn núi cách đó không xa.

Phụ thân và đứa trẻ liên tục cảm tạ Đỗ Hà. Đỗ Hà lơ đễnh mỉm cười, dẫn ngựa rời đi.

Ra khỏi Vũ Quan, Đỗ Hà nghỉ chân trong một tửu điếm của Thương Nam. Hắn

nằm trên giường, tay cầm khối lệnh bài huyền thiết nhặt được dưới vách

núi. Khối lệnh bài này có lẽ đã có từ rất lâu rồi, phía trên có có khắc

tỉ mỉ những hình vẽ kỳ quái, một mặt là một nữ tử dáng vẻ thướt tha mềm

mại vung vẩy song kiếm, mặt khác cũng là một nữ tử dáng vẻ thướt tha mềm mại, nhưng không phải múa kiếm mà đang múa trường lăng. Phía dưới hai

bức vẽ có một câu từ, mặt múa kiếm có khắc “Kiếm kinh thiên hạ quán

trường hồng”, mặt múa trường lăng viết “Vũ động tứ phương địa vô thanh”.

- Kiếm kinh thiên hạ quán trường hồng, vũ động tứ phương địa vô thanh,

câu thơ thật cuồng vọng, không biết múa kiếm lợi hại như thế nào, chẳng

lẽ có thể vượt qua kiếm vũ của Công Tôn đại nương?

Trong đầu Đỗ Hà chợt hiện ra khúc “Quan Công Tôn đại nương đệ tử vũ kiếm khí hành” của Đỗ Phủ, khẽ ngâm:

- Xưa người đẹp Công Tôn múa kiếm

Khí tung hoành rung chuyển bốn phương

Người xem khiếp đảm lạ thường

Điệu cao nhịp thấp tựa nương đất trời.

Rực như Nghệ bắn rơi chín quạ

Vững như rồng tiên chúa cưỡi chơi.

Tan cơn giận dữ thiên lôi

Dừng như bể đọng ánh ngời sông trong.

Chỉ tiếc Công Tôn đại nương sinh ở thời kì Đường Huyền Tông, bằng không

mình có thể thưởng thức kiếm vũ trong truyền thuyết này rồi!

Đỗ Hà đặt huyền thiết lệnh bài sang một bên, dần dần chìm vào giấc ngủ.