Sau trận Erfurt, Aleksandr trở về Peterburg với ý định ủng hộ sự liên minh Pháp - Nga và không đi trệch đường lối của Napoléon, ít ra thì cũng là trong những ngày gần đây nhất. Rồi đây, khi một cuốn sử khoa học và tỉ mỉ nói về kinh tế xã hội và chính trị của nước Nga hồi đầu thế kỷ thứ XIX được viết ra thì chắc chắn những nhà nghiên cứu của những thời đại sau này sẽ chú ý và dành nhiều trang giấy để viết về những năm lạ lùng ấy, kể từ trận Erfurt cho đến cuộc xâm lược của Napoléon vào năm 1812. Trong bốn năm ấy, đã diễn ra một cuộc đấu tranh cực kỳ phức tạp giữa những lực lượng và trào lưu xã hội đối địch nhau, do đó nhân vật Speransky xuất hiện rồi sụp đổ đã là một tất yếu lịch sử.
Lúc ấy, vấn đề cải cách bộ máy cai trị của đế quốc Nga đã rõ rệt là một vấn đề khẩn cấp. Austerlitz, Friedland, Tilsit: Ngần ấy vấp váp cũng đủ làm cho người ta có ý thức rằng cần thiết phải có một sự cải cách. Nhưng mặt khác, những thất bại khủng khiếp mà nước Nga chịu đựng trong hai cuộc chiến tranh lớn, do chính nước Nga tiến hành chống Napoléon vào những năm 1805 - 1807, đã kết thúc bằng một cuộc liên minh tương đối có lợi (mặc dầu người ta vẫn có thể nói đến cái nhục Tilsit) với kẻ đi chinh phục thế giới và sau đó ít lâu lại được hưởng đất đai rộng lớn của nước Phần Lan thì rất tự nhiên rằng Nga Hoàng không nhìn thấy những lý do phải tiến hành những cuộc cải cách sâu sắc và căn bản tối thiểu, cũng không thấy được phải tiến hành những cuộc cải cách giống như ở nước Phổ sau thảm họa Jena. Chính khi ấy Speransky đã xuất hiện rất đúng lúc. Người bình dân thông minh, khôn khéo và thận trọng ấy là người ở trong đoàn hộ giá Aleksandr từ Erfurt trở về, và ông ta rất khâm phục Napoléon. Speransky không đụng chạm mảy may gì đến chế độ nông nô dù chỉ là bề ngoài, trái lại đã cố sức chứng minh rằng nó không giống gì với chế độ nô lệ Speransky cũng không đụng chạm chút gì đến nhà thờ Thiên Chúa Giáo chính thống mà Speransky thường hết lời ca tụng. Vậy thì còn phải nói gì đến việc Speransky không bao giờ muốn đặt ra một sự hạn chế nào đó đối với giai cấp quý tộc, và trái lại, Speransky còn thấy nền chuyên chế của Nga Hoàng là động lực chính của những cuộc cải cách do ông ta tiến hành. Những cải cách ấy vừa đúng để nhằm biến một chế độ quân chủ chuyên chế, không còn sinh sắc, nửa Phương Đông, và trở thành vật đặc hữu của dòng họ Holstein Gottorp - một dòng họ đã chiếm đoạt danh hiệu của dòng họ quý tộc Romanov đã tàn tạ - thành một quốc gia Châu Âu hiện đại, có một bộ máy hành chính đầy hiệu lực, có những hình thức pháp chế, có tổ chức kiểm soát về tài chính và cai trị, có những viên chức thành thạo và có năng lực, có những nhà cai trị không phải là những tên chúa tể chuyên quyền, dâm đãng mà là những Quận Trưởng, Tỉnh Trưởng, tóm lại, Speransky muốn nhập vào nước Nga cái tổ chức xã hội mà theo ý Speransky đã làm cho nước Pháp trở thành nước đứng đầu thế giới. Bản thân chương trình ấy tuyệt không hề trái ngược gì với ý nghĩa, tình cảm ước vọng của Aleksandr, và Nga Hoàng đã ủng hộ viên cận thần của mình trong nhiều năm ròng. Nhưng Aleksandr và Speransky đã tính lầm. Bọn quý tộc thâm căn cố đế và bọn quý tộc hạng trung lớn lên trong nghề nghiệp của chúng đã đánh hơi thấy kẻ địch, mặc dầu địch thủ khoác bên ngoài tấm áo ôn hòa với những thái độ đầy thiện chí. Bọn chúng đã ngửi thấy một cách bản năng rằng Speransky nhằm biến cái quốc gia chuyên chế và phong kiến thành một quốc gia chuyên chế tư sản và đặt ra những thể thức mâu thuẫn về căn bản với chế độ phong kiến đang dựa trên chế độ nông nô hiện tồn tại ở nước Nga, cũng như mâu thuẫn về căn bản với cơ cấu đầy tính chất quý tộc trong đời sống chính trị và xã hội Nga thời ấy.
Tất cả đám ấy đồng tình nhất trí phản đối Speransky. Dưới con mắt bọn này, sự nghiệp của Speransky liên hệ một cách hữu cơ, chứ không phải ngẫu nhiên với lòng thích thú cuộc liên minh Pháp - Nga và với tình bạn của vị thượng thư đang nắm chính quyền đối với nhà độc tài nước Pháp và Châu Âu là hữu cơ, chứ không phải ngẫu nhiên mà trong tư tưởng bọn đại lãnh chúa Nga, hình ảnh đứa con ấy của giáo sĩ - kẻ đã đặt ra những kỳ thi cho viên chức và muốn đuổi giới quý tộc ra khỏi bộ máy Nhà Nước để giao cho những người bình dân, những người của nhà thờ và các thương nhân - được gắn liền với cái anh người Pháp đi ăn cướp đang làm phá sản cùng cái giai cấp quý tộc Nga ấy bằng cuộc phong tỏa lục địa, và trước mặt con người ấy, Nga Hoàng cùng với bầy cận thần đã phải đến chào mừng ở Erfurt, giống như những Nga Hoàng thời xưa đối với vua chúa Tatar. Đó là đường lối có tính chất cương lĩnh của phe đối lập ở trong triều và trong giai cấp quý tộc ở Petersburg và ở Moscow, mà bọn họ đã triệt để đeo đuổi suốt những năm 1808 - 1812, và sự đối lập ấy đã được biểu lộ mãnh liệt trong việc chống lại chính sách đối nội cũng như đối ngoại của Nga Hoàng và của thượng thư Speransky. Chỉ riêng tình hình ấy cũng đã đủ làm cho sự liên minh Pháp - Nga mất hết cơ sở vững bền.
Trong những phòng khách của bọn quý tộc, người ta chỉ trích sự sáp nhập đất Phần Lan cướp của Thụy Điển, vì việc ấy đã làm theo ý muốn của Napoléon, và người ta cũng không muốn nhận xứ Galicia, nếu đó là sự đền bù cho Nga trong việc Nga đã giúp đỡ gã Bonaparte khả ố chống nước Áo năm 1809. Người ta tìm mọi cách để tỏ sự lạnh nhạt của mình đối với viên đại sứ Pháp Caulaincourt, và Nga Hoàng càng tỏ rõ hòa hảo và ân cần với viên đại sứ bao nhiêu thì giới quý tộc của Petersburg “mới” và đặc biệt là giới quý tộc ở Moscow cũ lại càng tỏ thái độ hằn học rõ rệt với viên đại sứ ấy bấy nhiêu.
Nhưng vào cuối năm 1810, Aleksandr thôi không chống lại cái trào lưu đang thắng thế ấy nữa. Trước hết vì Aleksandr đã tỉnh ngộ khám phá ra rằng những lời nói của Napoléon về sự bành trướng ảnh hưởng của Nga ở Phương Đông, ở Thổ Nhĩ Kỳ cuối cùng chỉ là những lời nói suông; hai là vì Napoléon vẫn không rút quân ra khỏi nước Phổ và nhất là đang cùng với Ba Lan tiến hành một âm mưu nào đó, không từ bỏ ý định phục hưng nước Ba Lan, điều đó đe dọa sự toàn vẹn biên giới của nước Nga đang lo ngại rằng mình có thể bị cướp đoạt mất đất Litva; thứ ba là đối với những thiếu sót của Nga trong khi thi hành cuộc phong tỏa lục địa thì những sự phản kháng và bất bình của Napoléon đã diễn ra dưới hình thức nhục mạ thậm tệ, xúc phạm Aleksandr; thứ tư là sát nhập những lãnh thổ của các nước khác mà Napoléon tuỳ ý thực hiện trong những năm 1810 - 1811 bằng cách hạ tay ký một chữ là xong đã làm cho Aleksandr lo lắng và tức giận. Uy quyền không hạn độ của Napoléon tự bản thân nó luôn luôn là một sự uy hiếp treo trên đầu các nước chư hầu, trong số đó, kể từ sau trận Tilsit, đương nhiên là có Aleksandr (Nga Hoàng biết điều đó).
Người ta nói mỉa mai đến những ân huệ nhỏ nhặt mà Napoléon đã ban cho Aleksandr năm 1807, bằng cách tặng Nga Hoàng thành phố Białystok của Phổ và năm 1809, một mẩu đất của Áo ở biên thùy xứ Galicia. Người ta nói Napoléon đã đối xử với Aleksandr cũng như trước đây các Nga Hoàng đối xử với các triều thần trung thành của mình, khi có công lao thì ban thưởng cho một số “thần dân”.
Khi dự kiến kết hôn của Napoléon với quận chúa Anna Pavlovna không thành thì lần đầu tiên ở khắp Châu Âu người ta nói đến sự bất hòa nghiêm trọng sắp tới giữa hai vị Hoàng Đế. Sự kết hôn của Napoléon với con gái vua Francis nước Áo được hiểu như sự thay thế cho cuộc liên minh Pháp - Nga bằng cuộc liên minh Pháp - Áo. Những bằng cớ chính xác cho phép xác định rằng Napoléon không những bắt đầu nói thẳng đến cuộc chiến tranh với Nga, mà còn nghiên cứu vấn đề ấy một cách nghiêm chỉnh ngay từ tháng Giêng năm 1811, khi Napoléon được biết tin về biểu thuế quan mới của nước Nga. Biểu thuế quan mới này nâng lên khá cao mức thuế nhập khẩu đánh vào rượu vang, tơ lụa, nhung và những hàng xa xỉ khác, tức là những mặt hàng chủ yếu từ Pháp xuất khẩu sang Nga. Napoléon đã phản đối. Người ta đã trả lời Napoléon rằng tình hình trầm trọng của nền tài chính nước Nga đã buộc phải làm như vậy. Và biểu thuế ấy vẫn được thi hành. Ngày càng nhiều những sự khiếu nại về việc nước Nga cho nhập khẩu một cách quá dễ dàng các sản phẩm thuộc địa chở trên các tàu kéo cờ trung lập nhưng thực tế của nước Anh. Napoléon tin chắc chắn rằng nước Nga bí mật nhập cảng hàng hóa của Anh rồi bán tràn sang Đức, Áo, Ba Lan, vì vậy mà cuộc phong tỏa chẳng còn hiệu lực gì hết.
Chính Aleksandr cũng nghĩ rằng chiến tranh không sao tránh khỏi, cho nên đã đi tìm đồng minh và thương lượng với Bernadotte, một Thống Chế của Napoléon nay đã là hoàng tử kế nghiệp ở Thụy Điển và trở thành kẻ thù của chủ cũ. Ngày 15 tháng 8 năm 1811, trong buổi chiêu đãi trọng thể đoàn ngoại giao đến chúc mừng Napoléon nhân dịp kỷ niệm ngày sinh Napoléon, Napoléon dừng lại trước mặt đại sứ Nga là hoàng thân Kuryakin, thốt ra những lời lẽ giận dữ, đầy hăm dọa. Hoàng Đế buộc tội Aleksandr đã bội ước liên minh và có những hành động cừu địch, “chúa của ông muốn gì?” Napoléon hỏi bằng giọng nạt nộ. Sau đó Napoléon đề nghị với Kuryakin ký kết một bản thỏa hiệp nhằm làm tiêu tan mọi sự hiểu lầm giữa nước Nga và đế quốc Pháp. Bối rối và lúng túng, Kuryakin trả lời là không có đủ thẩm quyền. Napoléon thét lên: “Không có đủ thẩm quyền à? Thế thì thỉnh thị đi!... Tôi không muốn chiến tranh, tôi không muốn phục hưng nước Ba Lan, nhưng các ông, các ông muốn buộc chặt công quốc Warszawa và Danzig vào nước Nga.. Chừng nào những ý đồ bí mật của triều đình ông còn chưa được sáng tỏ, tôi còn chưa ngừng tăng cường quân đội đóng ở nước Đức!” Rồi không thèm nghe những lời biện bạch và thanh minh của Kuryakin, Hoàng Đế tiếp tục phát biểu ý kiến của mình bằng đủ mọi cách và bác bỏ tất cả những lời tố cáo của Kuryakin.
Sau màn kịch ấy, ở Châu Âu không ai còn nghi ngờ gì về việc phải dự phòng một cuộc chiến tranh sắp tới. Napoléon biến dần dần toàn bộ nước Đức chư hầu thành một căn cứ quân sự xâm lược to lớn. Đồng thời, Napoléon cũng quyết định bắt buộc nước Áo và nước Phổ, hai nước này duy nhất trên lục địa còn được coi là độc lập, tuy rằng về mặt chính trị nước Phổ đã hoàn toàn lệ thuộc vào Napoléon, phải liên minh với mình. Cuộc liên minh quân sự này phải được thực hiện ngay trước khi xâm lược nước Nga.
Nước Phổ đã trải qua những thời kỳ vô cùng gay go dưới ách thống trị của Napoléon. Tuy nhiên, cho đến cả thời kỳ tiếp theo ngay sau khi ký hòa ước, vào năm 1807 - 1808, người ta cũng chưa bao giờ thấy nước ấy chìm đắm trong cơn bệnh hốt hoảng mãn tính đến như thời kỳ sau trận Wagram và sau khi Napoléon cưới công chúa Áo. Trong những năm đầu, dưới ảnh hưởng của Stein và của “đảng cải cách”, nếu chế độ nông nô chưa hoàn toàn bị xoá bỏ ở Phổ thì tất cả những cơ sở pháp chế của nó cũng đã bị phá hoại nặng nề. Ngoài ra, người ta còn tiến hành một số cải cách khác nữa.
Nhưng Stein, con người yêu nước nồng nàn ấy, vì đã bộc lộ quá rõ rệt nhiệt tình của mình đối với cuộc khởi nghĩa của Tây Ban Nha nên đã làm cho cảnh sát của Napoléon chú ý: Một bức thư của Stein đã bị chặn giữ lại, và dưới con mắt của Hoàng Đế, bức thư ấy bao hàm ác ý, nên Hoàng Đế đã ra lệnh cho Frederick Wilhelm đệ tam tức khắc đuổi Stein ra khỏi lãnh thổ Phổ. Để tỏ lòng sốt sắng không những vua Wilhelm lập tức chấp hành lệnh ấy, mà còn thêm vào đó việc tịch thu tài sản của nhà chính trị bất hạnh này.
Tuy vậy, công cuộc cải cách ở nước Phổ chỉ chậm lại chứ không gián đoạn hẳn. Scharnhorst, thượng thư Bộ Chiến Tranh, Gneisenau và những người giúp việc tìm hết cách để tổ chức lại quân đội. Theo đúng điều kiện của Napoléon thì nước Phổ không được duy trì một đạo quân quá 4 vạn 2 nghìn người, nhưng chính phủ Phổ đã khéo xoay xỏa bằng mọi phương kế khác nhau để có thể rút rất ngắn thời hạn nghĩa vụ binh dịch nhằm huấn luyện quân sự cho một số đông người. Như vậy, trong khi chịu khuất phục trước ý chí của Napoléon, trong khi chịu luồn cúi, bợ đỡ, tự hạ, nước Phổ đã lặng lẽ chuẩn bị cho những thời gian tới, và tin tưởng sẽ thoát khỏi tình thế tuyệt vọng, không thể chịu đựng được ấy, cái tình thế do sự thất bại khủng khiếp năm 1806 và Hòa Ước Tilsit năm 1807 đẻ ra.
Năm 1809, khi chiến tranh giữa Napoléon và nước Áo bùng nổ thì về phía nước Phổ, đã nảy sinh ra một mưu đồ cá nhân, một thứ quằn quại tuyệt vọng, để lật đổ ách thống trị của kẻ thù: Thiếu tá Sin, cùng một bộ phận thuộc trung đoàn quân khinh kỵ do ông chỉ huy, đã bắt đầu một cuộc chiến tranh du kích. Ông đã bị đánh bại và bị giết, những bạn chiến đấu của ông bị tòa án quân sự Phổ kết tội và xử bắn theo lệnh của Napoléon. Vừa sợ hãi, vừa tức giận Sin, nhà vua như người điên cuồng mất trí, nhưng Napoléon lúc này lại lấy làm bằng lòng về những cuộc hành hình ấy và những lời cam kết quỵ lụy của Frederick Vinhem. Sau trận thất bại mới của nước Áo và Wagram, sau Hòa Ước Schönbrunn và sau khi Napoléon kết hôn với Marie Louise, nước Phổ thấy những hy vọng phục quốc cuối cùng của mình đã bị tan: Nước Áo hình như đã hoàn toàn và dứt khoát đi theo đường lối chính trị của Napoléon. Trông cậy ai giúp đỡ bây giờ và căn cứ vào đâu mà đặt hy vọng? Vào sự bất hòa đang chớm nở giữa Napoléon và nước Nga chăng? Nhưng nó tiến triển quá chậm và từ sau trận Austerlitz và Friedland người ta đã không còn tin tưởng vào lực lượng của nước Nga như ngày trước nữa.
Ngay từ những ngày đầu của năm 1810, đã bắt đầu có tin đồn dữ; người ta gán cho Napoléon có ý định đơn giản bằng một bản sắc lệnh hoặc đem chia cắt nước Phổ cho đế quốc Pháp, cho vương quốc Westphalia của Jérôme Bonaparte và cho các xứ Saxony, chư hầu của Napoléon, hoặc là bằng cách bỏ triều đại Hohenzollern, đưa một người họ hàng hay một Thống Chế nào đó của triều đại ấy lên thay thế. Ngày 9 tháng 6 năm 1810, sau khi Napoléon ra sắc lệnh sáp nhập nước Hà Lan để làm thành chín quận mới của đế quốc Pháp, sau khi các thành phố Hamburg, Bremen, Lubeck, các công quốc Lauenburg, Oldenburg, Dandans, Arenberg và nhiều quốc gia khác cũng bị sáp nhập một cách nhẹ nhàng như vậy, và sau khi đã chiếm xong toàn bộ bờ biển miền Bắc nước Đức từ Hà Lan đến Honstein, thì Thống Chế Davout, trong một bản bố cáo nhằm an ủi nhân dân các nước bị sáp nhập có tuyên bố rằng nền độc lập của họ chỉ là một sự tưởng tượng thì vua Phổ lúc đó nghĩ rằng ngày cuối cùng của triều đại mình đã đến. Sự độc lập của nhà vua cũng chỉ là “tưởng tượng” và nhà vua biết rằng tại Tilsit, Napoléon đã tuyên bố rõ ràng là sở dĩ ông ta không gạch tên nước Phổ trên tấm bản đồ Châu Âu thì duy nhất chỉ vì nể ông Nga Hoàng của nước Nga. Nhưng đến năm 1810 - 1811; quan hệ giữa Napoléon và Nga Hoàng đã tan vỡ một cách nhanh chóng và không còn vấn đề “vì nể” gì nữa. Đến cuối năm 1810, bất chấp tất cả, Napoléon đã đuổi công tước Oldenburg ra khỏi đất nước và sáp nhập xứ ấy vào đế quốc Pháp, mặc dầu con trai và là người kế nghiệp của vị công tước ấy đã kết hôn với Yekaterina, em gái Aleksandr.
Trong những năm 1810 - 1811, nước Phổ dường như đang đứng trên bờ diệt vong; không phải chỉ riêng nhà vua Frederick Wilhelm đệ tam - con người không bao giờ nổi tiếng về lòng can đảm - sợ hãi điều đó, mà cả những hội tự do và yêu nước như hội Tugendbund, một hội phản ánh những nguyện vọng của một bộ phận thanh niên tư sản Đức thời ấy muốn thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài và muốn xây dựng một nước Đức mới và “tự do” cũng nằm im ắng như ngủ say. Hội Tugendbund không phải là tổ chức duy nhất, nhưng nó là tổ chức đáng kể nhất trong các hội bất hợp pháp, chính nó cũng đã thôi không lên tiếng nữa và ôm mối thất vọng trong năm 1810, nhất là vào năm 1811 và đầu năm 1812, khi tình thế hầu như tuyệt không còn chút hy vọng gì. Thượng thư Hardenberg, trước đây thuộc phái chủ trương kháng chiến, và vì lý do ấy mà bị đưa ra khỏi triều đình Phổ theo yêu sách của Napoléon, cũng đã bị biểu thị một cách rõ rệt sự ăn năn hối hận của mình và đã viết thư báo cho sứ thần Pháp Saint Marshall biết như vậy. Về việc mình cho tướng Scharnhorst: “Vận mệnh của chúng ta là tùy thuộc vào Napoléon”. Tháng 5 năm 1810, chính Hardenberg đã viết cho viên quan ngoại giao Pháp lá đơn với lời lẽ van lơn như sau: “Cúi mong Hoàng Đế Bệ Hạ rủ lòng xét đến khả năng của tôi có thể tham gia công việc chung. Việc ấy sẽ làm cho nhà vua của tôi thấy rõ là tôi lại được Hoàng Đế tin cậy và ban ơn”. Napoléon xá tội và cho phép Frederick Wilhelm bổ nhiệm Hardenbergn làm Đại Thần Tư Pháp. Việc này đã diễn ra ngày 5 tháng 6 năm 1810 và đến ngày 7 tháng 6 năm 1810, vị đại thần mới của nước Phổ viết cho Napoléon: “Tin tưởng một cách sâu sắc rằng nước Phổ chỉ có thể phục hưng cũng như bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ và hạnh phúc tương lai của mình bằng cách thật thà đi theo chính thể của Hoàng Đế. Tâu Bệ Hạ, hạ thần cho rằng không có gì quang vinh cho hạ thần hơn là được lòng ái mộ và tin cậy của Bệ Hạ, với niềm tôn kính sâu sắc nhất, hạ thần nguyện làm kẻ tôi tớ ngoan ngoãn và tận tụy nhất của Bệ Hạ - Nam tước Hardenberg đại thần triều đình Vương quốc Phổ”.
Các thứ thuế đảm phụ được nộp đúng kỳ hạn, cuộc phong tỏa chấp hành nghiêm ngặt, nhà vua run sợ và cúi rạp trước Napoléon, Hardenberg nịnh nọt và tự hạ mình, nhưng Napoléon vẫn không rút quân khỏi các pháo đài Phổ và cũng không hứa hẹn chắc chắn một điều gì, Sau tất cả những sự việc ấy thì người ta không lấy gì làm lạ khi thấy Napoléon: Để chuẩn bị chiến tranh với nước Nga, đã đột nhiên buộc nước Phổ phải đưa quân tham chiến; nước Phổ đã tuân lệnh, song không phải nó không có nhiều bề do dự, vả lại chính vì vậy mà Hoàng Đế đã phải cho chấm dứt ngay tức khắc những sự do dự ấy: Ngày 14 tháng 11 năm 1811, Napoléon chỉ thị cho Thống Chế Davout phải sẵn sàng để khi có lệnh là tiến ngay vào nước Phổ và đặt toàn nước Phổ dưới sự chiếm đóng của quân đội Pháp.
Ngày 24 tháng 2 năm 1812, một hiệp định đã được ký kết ở Paris, theo hiệp định ấy nước Phổ cam kết đứng về phía Napoléon để tham chiến trong bất kỳ một cuộc chiến tranh nào mà Napoléon tiến hành.
Ngay sau đó, Napoléon hướng về phía nước Áo. Công việc này được giải quyết chẳng khó khăn gì lắm. Sau trận Wagram và Hòa Ước Schönbrunn, chính phủ Áo đã khiếp đảm; sau khi Napoléon kết hôn với Marie Louise, Metternich và các chính khách khác có tiếng tăm của Áo đã cho rằng đi theo đường lối của Napoléon là có lợi, ngỡ là có thể xin xỏ kẻ chiến thắng được chút gì để bù vào chỗ mất mát một số tỉnh. Napoléon có thể đánh nước Áo từ mặt phía Tây và phía Bắc qua xứ Bavaria và xứ Saxony, từ mặt trận phía Nam, từ các tỉnh Illyria, nghĩa là từ Carnion và Carinthia và từ vương quốc Ý đánh vào. Napoléon có thể tràn tới từ phía Đông Bắc, từ Ba Lan (qua xứ Phalixia). Đế quốc và các chư hầu của Napoléon bao vây và thiết chặt nước Áo bốn bề.
Nỗi lo sợ bị xâm chiếm và những niềm hy vọng đặt vào lượng bao dung của anh chàng rể uy quyền vô thượng của mình đã làm cho Hoàng Đế Francis trở thành một tên đày tớ dễ bảo của Napoléon chẳng kém gì Frederick Wilhelm đệ tam đang kinh sợ khiếp đảm. Ở Vienna cũng vậy, trong mấy năm nay Napoléon chỉ nghe thấy dội đến tai những lời xu nịnh hèn hạ. Năm 1811, khi Hoàng Hậu Marie Louise sinh được một đứa con trai, kẻ kế nghiệp đế chế Napoléon, thì ở Vienna, để tỏ lòng sùng ái sâu sắc nhất đối với triều đình, người ta cho xuất bản một bức tranh vẽ Đức Mẹ Đồng trinh với những đặc điểm của Marie Louise ôm trong lòng một chú bé Jesus mà gương mặt là ông “vua La Mã” trẻ tuổi và ở trên những nhân vật ấy là vị Thượng Đế của quân đội, được người nghệ sĩ vẽ giống nét mặt của Napoléon, đang bay lượn trong mây mù Sabaoth[44]. Tóm lại, người ta không từ một sự tầm thường nào, dù có vụng về và không hợp đi nữa, để nhắc lại những tình cảm khâm phục hèn hạ, lòng sùng bái và mối hoan hỉ điên loạn của mình đối với kẻ độc tài của Paris. Bản năng và lý trí nói với những người thông minh và nhạy cảm nhất về chính trị, như Metternich chẳng hạn, rằng đế quốc của Napoléon chỉ là một hiện tượng nhất thời. Nhưng mặt khác, vào những năm 1810 - 1812 chính bản thân những người hoài nghi nhất cũng bắt đầu làm quen với cái nhận định cho rằng ngay trước mắt thì nhất thiết không thể đấu tranh thắng lợi được với Napoléon.
Nước Anh, với nhiều thuộc địa và biển cả, vẫn tiếp tục đương đầu, nhưng những tin tức về sự vỡ nợ, phá sản, nạn thất nghiệp về cuộc cách mạng đang đe dọa bùng nổ ở Anh chứng tỏ rằng quần đảo Anh đã bắt đầu thấy nghẹt thở trong vòng vây siết chặt của cuộc phong tỏa lục địa. Khi thấy các đội quân Pháp kéo đến, những người chăn cừu cùng khổ ở Tây Ban Nha trốn vào khe núi, vào rừng rậm để tiếp tục chiến đấu. Nhưng nước Áo không thể và cũng không muốn tiến hành một cuộc chiến đấu như vậy. Còn nước Nga? Hiển nhiên là yếu hơn Napoléon; bị thất bại nhục nhã ở Austerlitz trong mưu đồ cứu nước Áo nhưng không thành công nên Nga đã phản bội Phổ ở Tilsit. Dù cho hậu quả thế nào chăng nữa bây giờ cũng phải đi với Napoléon. Vì vậy, khi Napoléon yêu cầu ký một hiệp ước đồng minh chống lại nước Nga, giống như hiệp ước mà nước Phổ đã buộc phải ký với Napoléon vào tháng 2 năm 1812, thì triều đình Vienna không chút do dự gì trước những ý muốn của Hoàng Đế Pháp, cũng không mặc cả gì nhiều về sự đền bù sau này.
Ngày 14 tháng 3 năm 1812, một Hiệp Ước Pháp - Áo được ký tại Paris, theo hiệp ước này, nước Áo cam kết cung cấp cho Napoléon 3 vạn quân. Hoàng Đế bảo đảm là xứ Moldavia và xứ Walasia hiện đang bị quân đội của Nga Hoàng chiếm đóng sẽ được tước khỏi nước Nga.
Ngoài ra, sau này có thể sẽ đền bù cho Áo xứ Galicia hoặc một vùng đất đai khác nào đó tương đương và quyền sở hữu đất đai ấy của Áo được bảo đảm. Napoléon cần đến “hai cuộc liên minh” ấy với nước Phổ và nước Áo để tăng thêm lực lượng cho đại quân thì ít mà chính là để thu hút một phần lực lượng quân Nga về phía Bắc và về phía Nam chứ không cho dồn cả vào con đường thẳng từ Kovno đi Vilna, Vitebsk, Smolensk, Moscow là trung tâm tiến công sau này của Napoléon. Đối với cuộc chiến tranh sắp xảy ra này, nước Phổ phải cam kết cung cấp cho Napoléon 2 vạn quân và nước Áo 3 vạn. Ngoài ra, với danh nghĩa là những khoản đảm phụ còn đọng lại chưa trả được, nước Phổ phải cung cấp cho quân đội Napoléon 2 vạn tấn lúa mạch, 4 vạn tấn lúa mì, hơn 4 vạn con bò và 70 triệu chai rượu mạnh.
Vào đầu mùa xuân, sự chuẩn bị về mặt ngoại giao của cuộc chiến tranh đã xong xuôi. Vụ mùa năm 1811 bị thất bát nặng, trong thời gian từ cuối mùa đông năm ấy và những tháng đầu năm 1812, một số vùng ở Pháp lâm vào cảnh đói kém, do đó, ở thôn quê, có nơi bị rối loạn và tình hình ấy đe dọa lan ra những nơi khác. Tình thế ấy đã làm cho Napoléon phải lùi chiến dịch chậm lại mất một tháng rưỡi hay hai tháng. Những hoạt động của bọn lũng đoạn và đầu cơ đã làm tăng thêm tình hình nhộn nhạo và mối căm phẫn ở nông thôn, và sự rối loạn ấy cũng là lý do làm chậm việc mở chiến dịch của Napoléon. Trong cuốn Gia Đình Thần Thánh, Marx đã nêu sự kiện này và kết luận đúng đắn rằng những hoạt động của bọn đầu cơ lũng đoạn đã góp phần vào sự thất bại của chiến dịch nước Nga và sự lung lay đầu tiên của đế quốc Pháp. Cũng cần phải chú ý một điểm nữa là việc trưng binh, tiến hành rất ì ạch từ sáu năm nay (kể từ sau trận Austerlitz) lần này đã dẫn đến kết quả là vào năm 1811 và đầu năm 1812 số người trốn binh dịch tăng lên nhiều một cách đặc biệt, những người bị gọi ra tòng quân bỏ trốn vào rừng ẩn náu, chui vào hang nấp kín. Những khó khăn về mặt kinh tế, hậu quả của những cuộc chiến tranh liên miên và của nạn thuế má nặng nề (đặc biệt là cuộc chiến tranh trường kỳ ở Tây Bạn Nha) đã làm cho đông đảo quần chúng nông dân bất bình, điều này được thể hiện ở sự trốn tránh nghĩa vụ binh dịch ngày càng phát triển. Trong khi kêu ca là do nạn trưng binh mà mất nguồn nhân công nông nghiệp rẻ tiền, bọn địa chủ cũng đã bắt đầu tỏ thái độ bất bình. Napoléon buộc phải dùng những đội quân lưu động đi càn bắt những người trốn tránh trong rừng để cưỡng ép họ tòng quân.
Nhờ những biện pháp áp bức như vậy, nên dù sao việc chiêu binh trước khi bước vào cuộc chiến tranh năm 1812 cũng đạt được gần đủ số quân mà Napoléon mong muốn.
Vào cuối mùa xuân năm 1812, toàn bộ sự chuẩn bị về quân sự và ngoại giao của chiến dịch đã xong xuôi và đã có những phần được sắp đặt xong cả về chi tiết. Toàn thể Châu Âu chư hầu sẵn sàng ngoan ngoãn đi đánh nước Nga. Ông Hoàng Đế đã quyết định chia cắt nước Tây Ban Nha : Năm 1811 ông đã tách ra khỏi lãnh thổ của anh ông ta là Joseph Bonaparte, người đã được ông ta phong làm vua nước Tây Ban Nha, tỉnh Catalonia, một tỉnh giàu có và có nền công nghiệp phát triển nhất của Tây Ban Nha, để sáp nhập tỉnh đó vào nước Pháp và chia làm bốn quận. Việc ấy, đã làm giầu cho nền thương nghiệp Pháp, được Napoléon coi là có tính chất trừng phạt dân Tây Ban Nha “phiến loạn”. Nhưng cuộc “phiến loạn” ấy kéo dài cả ở những quận Catalonia mới của nước Pháp chiếm đóng của Tây Ban Nha, mặc dầu về danh nghĩa thì đất đai là “độc lập”, thuộc quyền cai trị của vua Joseph Bonaparte. Các Thống Chế Soult, Marmont, Suchet được để lại ở Tây Ban Nha chỉ huy các lực lượng quan trọng và hoàn chỉnh. Chủ ý của Napoléon là dùng những lực lượng ấy để chống lại sự ức chế của quân Anh đang chiến đấu trên bán đảo Tây Ban Nha dưới quyền chỉ huy của Wellington và chống lại nghĩa quân Tây Ban Nha, những “quân du kích” đang tiếp tục cuộc chiến đấu một mất một còn của họ đã từ hơn bốn năm nay.
Nước Anh lúc nào cũng đứng rình sau lưng Napoléon, nhưng về mặt này xem chừng không có một nguy cơ trước mắt nào đáng sợ cả, đó là không kể đến tình thế nguy ngập trong nội tại nước Anh không kể đến sự tàn phá do cuộc phong tỏa lục địa này gây nên, đến nạn thất nghiệp, đến phong trào công nhân chống lại mạnh mẽ việc cơ khí hóa (và đến sự phá hoại máy móc ở những vùng công nghiệp); chính sách khôn khéo của Napoléon dành cho người Mỹ một số đặc quyền về thương mại và chấp thuận cho họ nhiều khoản ngoại lệ cũng đã góp phần làm nổ ra cuộc chiến tranh giữa Anh và Mỹ. Cuộc chiến tranh ấy do tổng thống Mỹ tuyên bố ngày 15 tháng 6 năm 1812, chín ngày trước khi Napoléon đặt chân lên đất Nga. Cuộc xung đột vũ trang với Châu Mỹ làm cho nước Anh suy yếu trong cuộc vật lộn với đế quốc Pháp.
Hậu phương được an toàn, đường đi thênh thang, Napoléon điều động một số lực lượng vũ trang đông gấp bội lần so với những lực lượng mà Napoléon đã từng chỉ huy trong các cuộc chiến tranh trước; trước mặt Napoléon là một kẻ thù đã từng bị ông ta đánh bại nhiều lần.
Các nhà ngoại giao đoán trước một thảm họa. Nhưng tuyệt đại đa số trong bọn họ, kể từ những người thông minh nhất như Metternich, những người thận trọng nhất như Hardenberg, những người sôi sục căm thù Napoléon nhất như Joseph Meterger đều cho rằng thảm họa ấy sẽ vô cùng khủng khiếp đối với nước Nga, sẽ là một cơn giông tố chưa từng thấy trong lịch sử nước này, kể từ thời bị quân Mông Cổ xâm lược, đang sắp tràn vào.
Số quân cần thiết cho chiến dịch của Napoléon lúc ấy ước chừng nửa triệu người, không kể số 5 vạn quân mà nước Áo và nước Phổ phải cung cấp cho Napoléon. Trong số quân này, có hơn 20 vạn là do các nước chư hầu khác cung cấp như Ý, Illyria, vương quốc Westphalia xứ Bavaria, Württemberg, Baden, Saxony, tất cả các vương quốc Đức khác trong Liên Bang Sông Rhine, Đại Công Quốc Warszawa có 9 vạn người Ba Lan phục vụ trong quân đội Napoléon. Nước Bỉ, nước Hà Lan, các thành phố đồng minh thương nghiệp ở miền Tây Bắc nước Đức không được coi là các nước chư hầu, mà là một thành viên của đế quốc Pháp.
Sau khi nghe ngóng tất cả những lời dự đoán ấy, tướng De Voorde, người xứ Bavaria đã đánh bạo hỏi một cách rụt rè rằng: “Dù sao, tránh một cuộc chiến tranh với nước Nga có phải vẫn lợi hơn không?”. Ông Hoàng Đế trả lời: “Trong ba năm nữa, ta sẽ làm chủ thế giới”.
Hồi sáu giờ sáng ngày 9 tháng 5 năm 1812, Napoléon cùng Hoàng Hậu Marie Louise rời lâu đài Saint Cloud để bắt theo đại quân đã đang đi qua nước Đức bằng nhiều đường khác nhau tiến về phía Ba Lan và dần dần tập trung ở bên sông Vistula và Niemen. Ngày 16 tháng 5, Hoàng Đế vào Dresden, đi bên cạnh có vua xứ Saxony đã ra đón Hoàng Đế từ ngày hôm trước. Các vua chúa và đại công tước các nước chư hầu đều đã tụ họp ở thủ đô xứ Saxony để chào mừng vị chúa tể của họ, và trong số đó có cả vua nước Phổ Frederick Vinhem đệ tam. Hoàng Đế Áo Francis cũng đã tới, cùng với Hoàng Hậu. Napoléon lưu lại Dresden mười lăm ngày ở giữa đám triều đình tôi đòi ấy. Tất cả các vị vua chúa ấy, kể cả bố vợ Napoléon là Hoàng Đế nước Áo, đều bỏ mũ khi gặp Napoléon, và chỉ có Napoléon là vẫn đội chiếc mũ nhỏ nổi tiếng của mình. Nói chung, Napoléon tỏ thái độ tốt với họ, thỉnh thoảng lại ban cho họ một cái véo tai mà lúc ấy họ cũng không còn cảm thấy vui thích nữa; Napoléon trêu ghẹo họ một cách thú vị, thưởng cho những người xứng đáng nhất một cái phát vào lưng, hoặc khiển trách tàn tệ một số ở giữa đám đông, nhưng ở Dresden ít người bị khiển trách như vậy. Sự xu nịnh lần này thật là quá quắt, không có gì kìm giữ, không bờ bến, không hạn độ, đến nỗi trong những ngày phù hoa tráng lệ ấy lên đến độ cao nhất, có một kẻ nào đó đã đi đến chỗ công nhiên nêu lên giả thuyết rằng con người đi chinh phục thế giới ấy bản chất là thần thánh, hoặc có thiếu thì cũng chỉ chút đỉnh thôi. Tất cả những kẻ ấy dù là vua chúa hay không, tất cả những kẻ bợ đỡ ấy, dù là người Đức hay không, Napoléon đều coi họ như những nô lệ, nông nô đầy khiếp sợ mình. Họ đều tin tưởng vào thắng lợi của Napoléon trong cuộc chiến tranh chống nước Nga. Lúc bấy giờ đâu đâu người ta cũng cầm chắc là như thế; ở Châu Âu, ở Châu Mỹ, trong các triều đình, trong văn phòng các nhà doanh nghiệp lớn, trong các hãng buôn. Chỉ riêng nước Anh vẫn tiếp tục đợi phút diệt vong của Napoléon và không chú ý đến sự gì cả, không đếm xỉa đến số 60 vạn quân của Napoléon và không muốn thừa nhận ông Hoàng Đế ấy; những người nông dân và những “kẻ hạ tiện” ở thành thị Tây Ban Nha vẫn chiến đấu quyết liệt như trước, họ đã nhổ vào mặt các sĩ quan của Napoléon khi họ bị trói giật cánh khuỷu để đem đi xử bắn. Chỉ có nước Anh và Tây Ban Nha là không có đại biểu trong các cuộc vui vầy huy hoàng ở Dresden ở các cuộc duyệt binh, ở các cuộc chiêu đãi, ở cuộc “triển lãm” quái gở về sự hèn hạ của con người, về sự xiểm nịnh và sự sợ hãi bỉ ổi nhất ấy.
Niềm tin tưởng phổ biến đó vào thắng lợi của Napoléon hình như hoàn toàn có căn cứ. Đánh nước Nga là vô số các trung đoàn của một quân đội có tổ chức cao hơn hẳn; chỉ huy các đạo quân ấy là một danh tướng mà tài dụng binh đã được thừa nhận là trội hơn cả Alexander Đại Đế, hơn cả Hannibal, Caesar; tính đến năm 1812, viên danh tướng ấy đã thắng những trận lớn nhỏ nhiều hơn của cả ba vị danh tướng trên cộng lại “Cuộc liên minh” của Napoléon với nước Áo và nước Phổ, quyền bá chủ Châu Âu đã làm tăng thêm quân số và bảo vệ cho hậu phương của ông ta. Địch thủ của Napoléon là nước Nga chỉ có một đội quân ít hơn ba lần để chống cự lại và các tướng lĩnh chỉ huy thì đã từng bị Napoléon và các Thống Chế của ông ta đánh bại nhiều lần. Chính Napoléon nhận định rằng nước Nga chẳng có một tướng tài nào ngoài hoàng thân Bagration; và đó cũng là dư luận của tất cả Châu Âu. Lúc bấy giờ niềm tin của Napoléon thật là vô hạn. Nhưng cũng nên chú ý là trong năm 1812, ý kiến của Napoléon đã thay đổi nhanh chóng.
Ở Smolensk, khi ngắm cửa sổ điện Kremlin, Napoléon đã nói thế này nhưng khi nhìn Moscow bốc cháy thì Napoléon lại nói thế khác và trong khi rút lui lại nói khác nữa. Ấy vậy mà khi vừa mới vào giai đoạn đầu của chiến dịch, tức là khi đi từ Dresden rồi vượt sông Niemen thì rõ ràng là Napoléon đã nghĩ đến cái mục tiêu thích thú nhất trong mơ ước: đó là Phương Đông, là sự chiếm lấy Ấn Độ, nghĩa là nghĩ đến cái kế hoạch mà Napoléon đã phải từ bỏ ngày 20 tháng 5 năm 1789, khi ông ta ra lệnh không vây hãm thành Acre nữa và dời quân khỏi Syria để trở về Ai Cập. Nếu Hoàng Đế Alexander đại đế cũng đã xuất phát từ một cứ điểm xa xôi như Moscow mà đã đến được sông Hằng thì tại sao ông ta, Napoléon lại sẽ không làm được như thế? Napoléon đã lý giải như vậy với Narbonne một trong những người tin cẩn đôi khi được Napoléon thật thà bàn bạc. Một khi mà Moscow đã bị thất thủ, nước Nga đã đánh bại, Nga Hoàng sẽ phải ký hòa ước hoặc sẽ bị chết trong cơn tai biến của triều đình thì lúc ấy ai sẽ ngăn cản được quân đội Pháp và các nước chư hầu tiến đến tận sông Hằng? Và chỉ cần lưỡi gươm của nước Pháp đâm vào con sông ấy là toàn bộ cái lâu đài thương mại phồn vinh kia của nước Anh sẽ sụp đổ. Đem đối chiếu những cuốn hồi ký với những tài liệu xác thực, ta có thể tin được vào sự dẫn chứng trên. Hoạt động ngoại giao của Napoléon ở Thổ, ở Ba Tư, ở Ai Cập, không bao giờ lại sôi nổi như năm 1811 - 1812. Chính vào những năm ấy, việc lãnh sự Pháp Nercia đã chạy theo những chỉ thị mật của Napoléon: Phải tiến hành việc điều tra cần thiết về những miền ấy để chuẩn bị cho chiến dịch sau này của quân đội Pháp. Ai Cập và Syria phải làm điểm xuất phát của một đường tiến quân phụ vào Ấn Độ, đã bị bỏ dở năm 1799 ở dưới chân thành Acre. Cũng nên nhắc đến một việc là Napoléon đã cử bá tước Narbonne, vẫn con người đã được Napoléon tâm sự về những dự kiến viễn chinh Ấn Độ sau cuộc chiến thắng “tiêu non”[45] nước Nga “từ Moscow đến sông Hằng”, từ Dresden đến gặp Aleksandr lúc ấy ở Vilna để làm như cố cứu vãn hòa bình một lần cuối cùng nữa. Thực ra, Narbonne đã hoàn toàn biết rõ mệnh lệnh của Napoléon là phải làm chậm lại cuộc tiến công bất thần của quân Nga vào Warszawa bằng cuộc thương lượng vô ích. Sứ mệnh của Narbonne không mang lại kết quả, đó là điều tất nhiên. Trong tâm trí Napoléon, chiến tranh đã được định đoạt, không gì làm thay đổi được nữa. Đội quân 40 vạn người của Napoléon đã hành quân qua nước Phổ tiến về phía sông Niemen, và chỉ đợi lệnh là tiến vào đất Nga.
Napoléon đã từ Dresden đến Poznan và ở lại đó vài ngày. Giai cấp quý tộc Ba Lan đã đón tiếp Napoléon nồng nhiệt hơn cả năm 1807, trước hết vì lần này người Ba Lan có thể hy vọng thật sự khôi phục được nước Ba Lan theo như biên giới cũ, hoặc ít ra cũng chiếm được của Nga đất Litva và Bạch Nga. Vì vậy nhiệt tình của quý tộc Ba Lan đối với Napoléon có thể tự do cởi mở không chút ngại ngùng.
Nhưng tính tình nôn nóng, dễ nổi giận, lại đang tập trung tất cả tâm trí vào những vấn đề chiến tranh nên ông Hoàng Đế không hài lòng lắm khi thấy bọn tiểu quý tộc Ba Lan ăn mặc chải chuốt, tóc sấy điểm tô son phấn, đến tỏ lòng trung thành sùng bái đối với mình. Napoléon nói cho họ biết rằng ông ta muốn thấy họ đi ủng kỵ mã, đeo kiếm bên sườn, noi gương tổ tiên họ khi quân Tatar và Cossacks tiến vào đất nước, vì mọi người đang sống trong thời buổi đòi hỏi phải vũ trang từ đầu đến chân và bàn tay sẵn sàng đặt trên đốc kiếm. Napoléon đã nói như vậy với bọn quý tộc tiếp đón ông ta ở Poznan, vào ngày 28 tháng 5 năm 1812 do Gordievsky, tổng giám mục địa phận, chủ trì. Bọn quý tộc Ba Lan vội vã hiểu lời phát biểu ấy như một lời chúc tụng. Napoléon không bao giờ tỏ ra sắc sảo về mặt xã giao đặc biệt là khi đang đi chiến dịch.
Từ Poznan, Napoléon đi đến Toner rồi từ Toner đi Danzig lưu lại đây bốn ngày để điều động thêm nhiều đơn vị bộ đội mới, từ Danzig, Napoléon đi Königsberg, ở lại đó năm hôm (từ 12 đến 17 tháng 6) và dùng toàn bộ thời gian ấy để giải quyết việc quản lý bộ đội và việc tổ chức tiếp tế, ngày 20 tháng 6 Napoléon đến Gumbinnen ông đã hạ nhật lệnh cho toàn quân.
“Hỡi các binh sĩ! Cuộc chiến tranh Ba Lan lần thứ hai đã bắt đầu. Cuộc chiến tranh thứ nhất đã kết thúc ở Friedland và ở Tilsit; ở Tilsit, nước Nga đã thề liên minh mãi mãi với nước Pháp và sẽ chiến tranh với nước Anh. Ngày nay họ bội ước; họ không muốn giải thích chút gì về hành động kỳ quặc của họ, họ muốn quốc huy của đế quốc Pháp không vượt qua sông Rhine để họ tùy ý muốn làm gì những bạn đồng minh của chúng ta ở đó thì làm. Nước Nga đã bị số mệnh lôi cuốn và định mệnh của họ sẽ đến với họ. Họ tưởng chúng ta bạc nhược rồi chăng? Chúng ta không còn là những binh sĩ Austerlitz nữa chăng? Nước Nga đặt chúng ta vào thế hoặc chịu ô nhục thanh danh hoặc phải chiến tranh: Con đường chúng ta chọn đã rõ ràng. Chúng ta hãy tiến lên, hãy vượt qua sông Niemen và tiến hành chiến tranh ngay trên đất nước họ. Cuộc chiến tranh Ba Lan thứ hai này sẽ đem lại vinh quang cho quân đội Pháp.
Những hòa ước mà chúng ta sẽ ký sẽ mang trong bản thân chúng sự bảo đảm; chúng ta sẽ chấm dứt cái ảnh hưởng bi thảm mà nước Nga dội vào trong công việc của Châu Âu từ mười năm nay”.
Lời tuyên bố của Napoléon được coi là lời tuyên chiến chính thức.
Hai ngày sau, trong đêm 24 tháng 6 năm 1812 (12 tháng 6 theo lịch cũ) Napoléon ra lệnh vượt sông Niemen và 300 kỵ binh thuộc trung đoàn Ba Lan thứ 13 là những kẻ đầu tiên vượt sông. Ngày hôm ấy và trong những ngày tiếp theo, toàn bộ cận vệ cũ và mới, rồi đến quân kỵ binh của Murat và đằng sau là các Thống Chế dẫn đầu các quân đoàn của họ đã nối đuôi nhau vô cùng vô tận sang bờ phía sông Niemen. Quân Pháp không còn trông thấy một bóng người. “Trước mặt chúng tôi là sa mạc, đất màu nâu và vàng nhạt, cây cỏ úa cằn và những cánh rừng xa xôi tít tận chân trời”. Một trong số những người còn sống sót sau chiến dịch đã kể lại như vậy và quang cảnh đã như một điềm chẳng lành. Napoléon không nhận thấy một dấu hiệu gì như thế cả. Bao giờ cũng vậy, khi đi chinh chiến Napoléon hoạt bát, nhanh nhẹn hơn thường ngày rất nhiều. Chiến dịch vĩ đại nhất của Napoléon từ trước đến giờ bắt đầu, và cứ theo cách chuẩn bị của Napoléon, ta có thể cho rằng Napoléon hiểu rất rõ điều đó. Có thể đây là chiến dịch cuối cùng ở Châu Âu và là chiến dịch đầu tiên ở Châu Á của Napoléon; cũng có thể là năm nay Napoléon buộc phải kết thúc chiến dịch ở Smolensk và để lại đến năm sau mới tiến hành nốt (Moscow và Peterburg) Napoléon nói đến xứ Ấn Độ và sông Hằng, với các Thống Chế thì Napoléon nói đến việc đóng bản doanh nghỉ quân ở Smolensk.
Xung quanh có các tướng tá và một đoàn tùy tùng đông nườm nượp, đi trước là đội kỵ binh của Murat, Napoléon thẳng tiến đến sông Vilna, không gặp một sức kháng cự nào.