"Kunta này, tôi biết là mình thương cụ làm vườn í như thế nào rồi, cơ mà chả phải đã đến lúc mình nên rút ra khỏi đó mà hòa với người sống hay sao?". Anh chỉ trừng trừng nhìn chị. "Thôi tùy mình, cơ mà chủ nhật tới, đầy hai năm Kitzi mà mình cứ mang bộ mặt ỉu xìu í thì còn sinh nhật, sinh nhiếc gì nữa?"
"Tui sẽ tươi tỉnh", Kunta sững sờ nói, hy vọng Bel sẽ không đoán ra là anh đã quên tịt chuyện đó.
Anh có năm ngày để làm một món quà cho Kitzi. Đến chiều thứ năm, anh đã đẽo xong một con búp bê Manđinka rõ đẹp bằng gỗ thông, lấy dầu lanh pha muội đen xát lên, rồi đánh bóng cho đến khi nó óng ánh như những đồ chạm gỗ mun ở quê anh. Và Bel, từ lâu đã khâu xong cho con bé một cái áo váy, đang lúi húi ở trong bếp làm hai cây nến hồng bé tí xíu để cắm lên chiếc bánh kem sô-cô-la định đến tối chủ nhật sẽ mời thím Xuki và chị Manđi tới cùng ăn - thì Ruxbi, xà ích của mexừ Jon đánh xe đến.
Bel phải cắn lưỡi lại khi ông chủ hớn hở gọi chị vào báo cho biết là "mămzen" An đã gạ được bố mẹ cho ở với chú cả đợt nghỉ cuối tuần và tối mai sẽ đến. "Nhớ dọn sẵn một buồng khách nhé", ông chủ nói, "Mà sao chị không làm một chiếc bánh ngọt hoặc cái gì đó cho ngày Chủ nhật? Cháu gái tôi bảo là con bé nhà chị sắp mừng sinh nhật và nó muốn liên hoan - riêng hai đứa với nhau thôi - trên buồng của nó. An cũng hỏi là để con bé ngủ đêm với nó ở trên nhà này có được không và tôi bảo được, cho nên hãy sửa soạn một ổ nằm trên sàn ở chân giường nhé”.
Khi Bel báo tin này cho Kunta - đồng thời nói thêm rằng chiếc bánh mình sắp làm sẽ phải dọn lên ở ngôi nhà lớn chứ không phải ở lều của họ, rằng Kitzi sẽ bận liên hoan với "mămzen" An nên không tổ chức liên hoan gia đình được - Kunta giận đến nỗi không nói được, thậm chí không nhìn chị nữa. Tập tễnh ra ngoài, anh đi thẳng đến nhà kho, nơi anh giấu con búp bê dưới một đống rơm và lôi nó ra.
Anh đã nguyện với Chúa Ala rằng loại chuyện như thế này sẽ không bao giờ xảy đến với Kitzi của anh - nhưng anh làm gì nổi? Anh thấy nao lên một cảm giác bị ức đoạn đến lộn mửa, tới mức anh bắt đầu hiểu ra tại sao những người da đen nọ cuối cùng đã đi đến chỗ tin rằng chống lại bọn tubốp cũng vô ích như một bông hoa cố ngóc đầu lên khỏi lớp tuyết đang rơi vậy. Nhưng rồi nhìn trân trân vào con búp bê, anh nghĩ đến câu chuyện anh đã nghe về người mẹ da đen đã đập đầu đứa con nhỏ của mình vào bục bán đấu giá đến phòi óc và thét lớn: "Ta không chịu để con gái ta chịu cái phận mà các ngươi đã gây cho ta đâu!". Và anh giơ con búp bê lên quá đầu, định ném nó vào tường, rồi lại hạ nó xuống. Không, anh không thể làm thế với Kitzi được. Nhưng còn chuyện trốn chạy thì sao? Chính bản thân Bel cũng đã từng nhắc đến chuyện ấy. Liệu chị có thực sự muốn đi khỏi không? Và nếu có, liệu họ có thể thành công được không - với tuổi của họ hiện nay, với một đứa bé mới chập chững biết đi? Trong nhiều năm, anh đã tạm gác đi ý đó, không suy tính gì nữa, nhưng giờ đây anh đã thuộc cả vùng như chính cái đồn điền này. Biết đâu…
Buông con búp bê xuống, anh đứng dậy và đi về lều. Nhưng anh chưa kịp mở miệng thì Bel đã nói: "Kunta, tôi cũng đau xót như mình, nhưng hãy nghe tui nói! Tui thà chết còn hơn để con gái mình lớn lên thành một đứa cày thuê cuốc mướn như cái thằng bé Nâuơ. Nó mới hơn Kitzi có hai tuổi mà họ đã bắt đầu đem nó ra ngoài đồng nhổ cỏ, xách nước. Bất kể mình có những cảm nghĩ khác như thế nào, nhưng xem ra mình cũng phải đồng ý như thế". Cũng như thường lệ, Kunta chẳng nói chẳng rằng, nhưng trải qua một phần tư thế kỷ làm công việc của kẻ nô lệ, anh đã thấy khá đủ để hiểu rằng cuộc đời của một cố nông là kiếp trâu ngựa, và anh thà chết còn hơn phải chịu trách nhiệm về việc khép con gái mình vào một số phận như vậy.
Rồi mấy tuần sau, vào một buổi tối, anh về tới nhà thì thấy Bel đã đợi sẵn ở cửa, tay cầm cốc sữa lạnh mà bao giờ anh cũng thèm sau một cuốc xe dài. Khi anh ngồi xuống chiếc ghế đu chờ bữa ăn tối, chị đến sau lưng anh, và không đợi anh yêu cầu, xoa bóp lưng cho anh vào đúng cái chỗ mà chị biết thể nào cũng đau rần sau một ngày cầm cương. Khi chị đặt trước mặt anh chiếc đĩa đựng món ăn ưa thích nấu theo lối Phi của anh, Kunta biết là hẳn chị đang tìm cách xoa dịu anh vì một chuyện gì đó, nhưng anh đã đủ kinh nghiệm để hiểu rằng chưa cần phải hỏi rõ đầu đuôi ra sao vội. Suốt buổi ăn tối, chị nói chuyện ríu rít hơn mọi khi về những điều vặt vãnh và anh đã bắt đầu thắc mắc không biết bao giờ chị mới đi vào vấn đề thì, khoảng một giờ sau bữa tối, khi hai người chuẩn bị đi nằm, chị bỗng ngừng nói một hồi lâu, hít một hơi thật sâu rồi đặt tay lên cánh tay anh. Anh biết đã đến lúc.
"Kunta, tôi không biết đưa đẩy chuyện này với mình ra sao, cho nên tôi đành nói toẹt ra thôi. Mexừ bảo với tôi là ông đã hứa với “mămzen” An sẽ thả Kitzi ở nhà mexừ Jon chơi với nó một ngày, khi ông đi ngang qua đó trong chuyến thăm bệnh ngày mai".
Thế này thì quá lắm. Phải ngồi yên mà nhìn Kitzi bị từ từ biến thành một con chó cưng lễ độ cũng đã đủ nhục nhã, nhưng bây giờ, khi nó đã thuần nhà, họ lại muốn anh mang con vật đến giao cho kẻ canh giữ mới. Kunta nhắm mắt lại, tự vật lộn để nén cơn cuồng nộ, rồi nhảy chồm khỏi ghế - phũ phàng giật tay khỏi Bel - rồi lao ra cửa. Trong khi chị nằm trên giường thao thức suốt đêm ấy, thì anh ngồi thức trắng trong chuồng ngựa, dưới bộ đồ trắng. Cả hai cùng khóc.
Sáng hôm sau, khi đỗ xe trước cửa nhà mexừ Jon, Kunta chưa kịp bế Kitzi đặt xuống đất thì "mămzen" An đã chạy ra đón. Thậm chí nó cũng không chào tạm biệt, Kunta cay đắng nghĩ thầm, tai nghe rộn tiếng cười khanh khách của hai bé gái đằng sau lưng trong khi anh lái ngoặt đôi ngựa vòng lại để ra đường cái.
Chiều đã muộn và anh đã đợi ông chủ mấy giờ liền bên ngoài một đại sảnh ở vào quãng hai mươi dặm mé dưới, theo đường cái, khi một người nô lệ ra bảo anh rằng mexừ Uolơ có thể phải ở lại suốt đêm trông nom bà chủ ốm của họ và nhắn Kunta ngày mai trở lại đón ông. Cau có, Kunta làm theo; đến nhà "mămzen" An, thấy nói là cô bé xin với mẹ để cho Kitzi ở lại qua đêm. Nhẹ hẳn người khi bà mẹ ốm yếu nọ trả lời là hai đứa ồn ào quá làm bà nhức đầu, Kunta vội vã rong xe lăn bánh trở về, với Kitzi nhấp nhổm nảy lên nảy xuống bên cạnh, trên chiếc ghế ngồi lái chật chội.
Trong khi rong ruổi trên đường, Kunta vụt nghĩ rằng đây là lần đầu tiên hai cha con hoàn toàn một mình với nhau, kể từ cái đêm anh nói cho con biết tên nó là gì. Anh cảm thấy một nỗi hồ hởi kỳ lạ mỗi lúc một tăng lên trong khi xe lăn bánh trong hoàng hôn sẫm dần. Song anh cũng cảm thấy mình có phần dại khờ. Tuy đã suy nghĩ rất nhiều về những dự định và trách nhiệm của mình với đứa con đầu lòng này, anh vẫn thấy phân vân không biết nên hành động ra sao. Đột nhiên, anh bế phắt Kitzi lên lòng. Một cách vụng về, anh sờ nắn chân, tay, đầu nó trong khi nó giẫy giụa và giương mắt nhìn anh, ngỡ ngàng. Anh lại nhấc bổng nó lên, thử xem nó nặng chừng nào. Rồi, rất trịnh trọng, anh đặt dây cương vào lòng bàn tay nhỏ xíu, âm ấm của nó - phút chốc, tiếng cười vui sướng của Kitzi vang lên như âm thanh tuyệt diệu nhất trước, nay anh từng nghe thấy.
"Con gái bé xinh xẻo", cuối cùng anh nói với nó. Con bé chỉ nhìn anh. "Con giống hệt em trai Mađi của bố".
Nó vẫn chỉ nhìn anh, không nói. "Fa!", anh chỉ vào mình. Con bé nhìn ngón tay anh. Đập khẽ vào ngực mình, anh nhắc lại: "Fa!" song nó lại hướng sự chú ý trở về với đôi ngựa. Tay giật cương lách tách, miệng nó hét: "Hấp!" bắt chước một tiếng hô nào đó nó đã nghe thấy anh thốt ra. Nó ngước lên, hãnh diện mỉm cười với anh, nhưng mặt anh tỏ vẻ phật ý đến nỗi nụ cười nhanh chóng tắt đi và xe chạy nốt đoạn đường còn lại trong im lặng.
Mấy tuần sau, trên đường trở về sau một cuộc viếng thăm "mămzen" An lần thứ hai, xe đang chạy, bỗng nhiên Kitzi ngả người về phía Kunta, dí ngón tay nhỏ bụ bẫm vào ngực anh và nháy mắt nói: "Fa!".
Anh sướng run cả người. "Ec tu mo Kitzi leh!". Anh vừa nói vừa cầm lấy ngón tay con bé chỉ vào nó: "Con tên Kitzi". Anh ngừng một lát: "Kitzi". Nó bắt đầu mỉm cười, ra điều công nhận tên mình. Anh chỉ vào mình: "Kunta Kintê".
Nhưng Kitzi chừng như bối rối. Nó chỉ vào bố nói: "Fa!". Lần này cả hai cha con cùng cười toét miệng.
Đến độ giữa mùa hè, Kunta rất khoái vì thấy Kitzi rất mau thuộc những chữ anh dạy nó - và xem vẻ nó rất thích những chuyến đi xe ngựa với bố. Anh bắt đầu nghĩ rằng có thể còn hy vọng ở nó. Rồi một hôm, tình cờ nó nhắc đến một đôi chữ Manđinka trong khi chỉ có một mình nó với Bel. Bel liền gửi Kitzi đến lều thím Xuki ăn tối và chờ sẵn Kunta khi anh trở về đêm hôm ấy.
"Ông mất trí rồi sao hở người đời?", chị rít lên, "ông phải biết chú ý hơn cho tui chứ - ai lại giở giói nhiễu sự ra như thế để đẩy con bé và cả bọn ta đến chỗ mang tai mang vạ! Tốt hơn, ông hãy cố nhồi vào cái đầu rắn cấc của ông rằng nó không phải người Phi!". Chưa bao giờ Kunta giận Bel đến thế, chỉ thiếu chút xíu nữa là anh đánh chị. Chẳng những chị đã phạm cái tội không thể tưởng tượng được là to tiếng với chồng mà quá quẩn hơn nữa, chị còn bác bỏ cả huyết thống và hạt giống của anh. Lẽ nào người ta lại chẳng có thể thốt lên một chữ của tiếng nói thừa kế đích thực từ tổ tiên mình mà không sợ một tên tubốp nào đó trừng phạt? Tuy nhiên, một cái gì đó báo động cho anh là đừng có trút nỗi giận dữ anh cảm thấy, vì mọi cuộc va chạm trực diện với Bel có thể bằng cách nào đó chấm dứt những chuyến đi chơi xe ngựa với Kitzi. Nhưng rồi anh lại nghĩ chị không thể làm thế mà không cho ông chủ biết vì sao, và hẳn chị không đời nào dám nói ra lý do ấy. Ngay cả như thế, anh vẫn không hiểu nổi ma quỷ nào ám anh đến nỗi hóa u mê đâm đầu đi lấy một ả đàn bà sinh trưởng trên đất của tubốp.
Ngày hôm sau, trong khi chờ ông chủ hoàn thành một cuộc thăm bệnh tại gia ở một đồn điền gần đó, một tay lái xe khác kể cho Kunta câu chuyện mới nhất anh ta nghe được về Tuxên, một nô lệ cũ đã tổ chức nên một đạo nghĩa quân da đen lớn ở Haiti và đang lãnh đạo họ chiến đấu thắng lợi, không những chống người Pháp mà cả bọn Tây Ban Nha và bọn Anh nữa. Tuxên - gã lái xe kia nói - đã học hỏi về chiến tranh qua việc đọc những cuốn sách về các chiến sĩ trứ danh ngày xưa tên là "Alêcxan Đại đế" và "Juliuyt Xêza", những sách này do chủ cũ của anh ta cho, và về sau, anh đã giúp người này trốn từ Haiti sang "Hợp Xẻng Cuốc". Trong mấy tháng qua, đối với Kunta, Tuxên đã trở nên một vị anh hùng, tầm cỡ chỉ đứng sau người chiến sĩ thần thoại Xunđiata của dân tộc Manđinka, và Kunta hầu như không đủ kiên nhẫn chờ đến lúc trở về truyền đạt câu chuyện mê ly này cho những người khác.
Anh quên khuấy không kể cho họ nghe. Bel đến gặp anh ở chuồng ngựa báo tin là Kitzi bị sốt và nổi hạch. Ông chủ gọi đó là "quai bị", và Kunta đâm lo hoài, mãi đến khi Bel bảo anh bệnh ấy là bình thường ở trẻ con. Sau đó, khi được biết "mămzen" An được lệnh phải cách ly cho đến khi Kitzi khỏi - ít nhất là hai tuần - thậm chí anh còn hơi thinh thích là đằng khác. Nhưng Kitzi mới ốm được mấy ngày, gã xà ích Ruxbi của mexừ Jon đã mang đến một con búp bê tubốp quần áo đầy đủ, quà của "mămzen" An. Kitzi đâm mê nó. Cô bé ngồi trong giường, ghì chặt con búp bê, chao qua chao lại, lim dim mắt trầm trồ "Xinh quá là xinh". Kunta chẳng nói chẳng rằng bỏ đi, và lao sầm sầm qua sân đến nhà kho. Con búp bê vẫn trên tầng gác, ở chỗ anh bỏ bẵng nó mấy tháng trước đây. Lấy tay áo lau thật sạch, anh mang nó về lều và gần như dúi nó vào người Kitzi. Con bé cười vang, thích thú khi trông thấy nó, Bel cũng phải khen. Nhưng sau mấy phút, Kunta có thể thấy là Kitzi thích con búp bê tubốp hơn, và lần đầu tiên trong đời, anh nổi giận với con gái.
Anh chẳng thấy sung sướng gì hơn khi nhận thấy hai cô bé hăm hở biết bao để bù lại những tuần lễ vắng nhau. Mặc dù đôi khi Kunta được sai đưa Kitzi đến chơi đằng nhà "mămzen" An, nhưng chẳng ai lạ gì là "mămzen" An vẫn ưng đến nhà chú hơn, bởi vì mẹ nó thường chưa chi đã kêu nhức đầu vì hai đứa làm ồn, và, theo lời chị bếp Ômêga, thậm chí còn giở đến ngón võ cuối cùng là giả vờ ngất nữa. Song, chị bếp nói, bà chủ đã gặp địch thủ là cô con gái miệng lưỡi leo lẻo. Một hôm, Ruxbi kể với Bel là có lần bà chủ gã quát con gái: "Mày ăn nói, đi đứng hệt như bọn nhọ!" và "mămzen" An liền vặc lại: "Phải, bọn nhọ vui hơn chúng ta vì họ chẳng có gì để mà lo cả!". Song, ở nhà mexừ Uolơ, hai con bé muốn làm ồn thế nào cũng được. Những lần lái xe trên lối đi dọc theo những vạt trồng hoa, dù đi ra hay đi vô, chả mấy khi Kunta không nghe thấy hai đứa hò hét đâu đó trong khi chúng chạy nhảy lung tung trong nhà, ngoài sân, ngoài vườn và - mặc dầu Bel cố hết sức ngăn chặn - thậm chí cả ở chuồng gà, chuồng lợn, kho thóc cũng như các lều bỏ ngỏ ở xóm nó.
Một buổi chiều, trong khi Kunta đi vắng với ông chủ, Kitzi dẫn "mămzen" An về lều chỉ cho xem quả bầu đựng những hòn sỏi của Kunta mà kỳ lên quai bị phải nằm nhà, nó đã khám phá ra và rất mê. Tình cờ, vừa đúng lúc Kitzi thò tay vào bên trong miệng bầu, Bel bước vào lều, nghé mắt nhìn và hét lên: "Tránh xa những viên đá của bố mày ra! Cái í là để bố biết mình bao nhiêu tuổi đấy!". Hôm sau Ruxbi mang đến cho ông chủ một bức thư của ông anh trai và năm phút sau, mexừ Uolơ gọi Bel vào phòng khách, giọng gay gắt của ông ta khiến chị lo sợ ngay cả trước khi rời khỏi bếp, "mămzen" An đã kể cho bố mẹ về một cái gì đó nó thấy ở trong lều chị. Câu chuyện bỏ đá vào quả bầu mỗi lần đầy tháng là cái thuật chiêu hồn gì của dân Phi châu vậy? ông ta hỏi.
Đầu óc loáng thoáng các ý nghĩ rất nhanh, Bel bật ra: "Đá? Đá gì, mexừ?" "Chị thừa biết ta muốn nói gì", ông chủ nói.
Bel cười gượng, thắc thỏm: "Ồ, cháu biết ông chủ nói chuyện gì rồi. Không đâu, mexừ, chả làm gì có chuyện chiêu hồn. Chả là cái lão nhọ Phi nhà cháu không biết đếm, có thế thôi mexừ ạ. Thành thử cứ sang tuần trăng mới là nó bỏ một hòn đá con vào quả bầu để xem tất cả bao nhiêu hòn mà luận ra tuổi của nó."
Mexừ Uolơ mặt vẫn cau có, ra lệnh cho Bel trở về bếp. Mười phút sau, chị sầm sầm bước vào lều, giựt phắt Kitzi ra khỏi lòng Kunta, và xòe tay phát vào mông nó - gần như thét lên: "Từ rày mà còn đưa cái con bé đó vào đây nữa là tao vặn cổ mày, nghe chưa?"
Sau khi tống cổ bé Kitzi khóc khóc mếu mếu vào giường ngủ, Bel cố trấn tĩnh lại, đủ để giải thích cho Kunta rõ chuyện. "Tui biết là sỏi với bầu thì chả có hại gì", chị nói, "cơ mà thế cũng đủ tỏ cho mình thấy như tui đã biểu là những cái trò Phi phiếc í chỉ mang tai mang họa thôi! Mà mexừ là chả bao giờ có thể quên chuyện gì đâu nhé!"
Kunta cảm thấy một nỗi phẫn uất bất lực đến nỗi anh không ăn được cơm tối. Sau hơn hai mươi vụ mưa đánh xe cho ông chủ, hầu như hằng ngày, Kunta lấy làm kinh ngạc và giận điên người về nỗi anh chỉ bỏ những hòn sỏi vào một quả bầu để ghi nhớ tuổi mà cũng thành vấn đề nghi vấn.
Phải thêm hai tuần nữa, sự căng thẳng mới dịu xuống đến mức "mămzen" An có thể tiếp tục đến chơi, nhưng một khi đã trở lại như cũ thì cứ y như là sự biến kia không hề xảy ra vậy; Kunta đâm gần như phiền não. Đang kỳ quả chín rộ, hai cô bé sục tới, sục lui những dãy hàng rào đầy dây nho, tìm ra những mảng dâu dại màu xanh thẫm và trở về nhà với những xô đầy, tay và miệng đỏ nhoe đỏ nhoét. Có những ngày khác, chúng mang về những kho báu gồm vỏ ốc sên, tổ chim hồng tước hoặc cái đầu mũi tên cáu bẩn bám đầy, vui sướng trưng tất cả ra khoe với Bel trước khi giấu vào một nơi nào đó rất bí mật, sau đó chúng xoay ra chơi nắm bùn. Đến giữa chiều, sau khi rùng rùng kéo vào nhà bếp, bùn bê bết đến tận khuỷu tay và bị xua trở ra để rửa ráy ở ngoài giếng, đôi bạn mệt phờ nhưng hớn hở ấy xà vào ăn bữa ăn qua quít mà Bel đã sắp sẵn cho chúng rồi cùng nhau nằm xuống một tấm nệm làm một giấc. Nếu "mămzen" An ở lại đêm thì sau bữa tối với ông chủ, nó rốn lại cùng chú đến giờ đi ngủ, bấy giờ ông ta bèn bảo nó ra nói với Bel là đến giờ kể chuyện. Và Bel liền đưa con bé Kitzi cũng mệt phờ như vậy, và kể tiếp cho cả hai những chuyện phiêu lưu của chú thỏ bị cáo lừa, nhưng cuối cùng lại cho cáo vào tròng.
Kunta, trước tình thân ngày càng sâu đậm giữa hai con bé, càng hậm hực hơn cả khi anh thấy nó chớm nở trong nôi Kitzi. Một phần trong tâm tưởng - anh phải công nhận như vậy - anh hài lòng thấy Kitzi được tận hưởng thời thơ ấu một cách tốt đẹp đến thế và anh đã đi đến chỗ đồng ý với Bel rằng dù là một vật cưng của đám tubốp vẫn còn hơn suốt đời làm lụng ngoài đồng. Song anh dám chắc thỉnh thoảng anh có thể cảm thấy ngay cả Bel cũng hơi khó chịu thế nào ấy khi chị nhìn thấy hai con bé nô đùa với nhau thân thiết đến thế. Anh dám nghĩ rằng, ít ra cũng có vài lần, Bel cảm thấy và lo sợ những điều giống anh. Có những đêm trong lều mình, ngắm chị vuốt ve Kitzi trong lòng và ê a một bài hát "Jêxu" của chị, anh có cảm giác rằng, trong khi nhìn xuống khuôn mặt thiêm thiếp ngủ của con bé, chị sợ cho nó, chị muốn cảnh cáo nó về việc quan tâm quá đáng đến bất cứ một tubốp nào, cho dù đôi bên có vẻ quý mến nhau đến đâu mặc lòng. Kitzi còn nhỏ quá, chưa hiểu nổi những điều đó, nhưng Bel thừa biết việc tin tưởng ở đám tubốp có thể dẫn đến những đau đớn xé gan xé ruột như thế nào; bọn chúng đã chẳng bán đi hai đứa bé sơ sinh đầu tiên của chị đấy sao? Thật không có cách nào đoán được điều gì đang chờ đợi Kitzi trong tương lai, chẳng những đối với riêng nó, mà còn đối với cả anh và Bel nữa. Song có một điều anh biết chắc: Chúa Ala sẽ báo oán khủng khiếp lên đầu bất kỳ tubốp nào làm hại Kitzi của vợ chồng anh.