Trong khi đó Tuydor Braun co mình giãy chết, khẩu súng trường rơi khỏi tay hắn và hắn đã trút hơi thở cuối cùng không nói được lời nào.
- Bố đã làm cái gì thế, bố? - trong cơn thất vọng Êrik trách bố - Sao bố lại tước mất của con cái khả năng cuối cùng để hỏi biết sự thật về bố mẹ của con? Sao bố không lao đến cái tên ấy, tước vũ khí của hắn, có hơn không?
- Con tưởng hắn chịu qui phục dễ dàng như thế sao? - Bác Hecsêbom đáp - Viên đạn thứ hai của hắn chắc chắn là dành cho con đó! Bố đã trả thù hắn về tội giết cái tên đáng thương kia, trừng trị hắn về tội đã gây ra ở Bas-Fruađ và có lẽ còn vì nhiều tội ác khác nữa! Và bố không hối hận chút nào về việc đã giết hắn... Còn điều bí mật về đời con, con ạ, trong hoàn cảnh chúng ta như thế này đây, thì có ý nghĩa gì?... Điều bí mật về cuộc đời cửa con chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ được chính thượng đế bảo ban cho!
Bác chưa kịp nói hết những lời ấy thì đã nghe một phát đại bác vang lên trên những tảng băng. Hình như đó là câu trả lời cho những ý nghĩ ảm đạm của bác ngư dân già. Nhưng, đúng hơn cả, và thậm chí không có gì nghi ngờ nữa, đây là sự trả lời hai phát súng vừa mới vang lên trên tảng băng trôi!
- Đại bác của "Aljaska"! Chúng ta được cứu rồi! - Êrik sung sướng reo lên và lao ngay tới núi băng gần nhất, từ trên đỉnh núi có thể nhìn bao quát chân trời rộng.
Đầu tiên, chàng không thấy gì hết, ngoài những tảng băng bị gió đẩy đi bồng bềnh trôi trên sóng biển với ánh nắng mặt trời Bắc cực.
Nhưng, ngay sau khi bác Hecsêbom bắn phát súng chỉ thiên, khẩu đại bác gần như đã đáp lại ngay và Êrik đã nhìn thấy ở phía Tây chân trời, trên nền mây xanh, một luồng khói đen đang tỏa.
Từ đấy trở đi, cứ cách vài phút lại vang lên những tiếng đại bác và súng trường, và "Aljaska" đã chạy hết tốc lực, vượt qua các tảng băng trôi, chẳng mấy chốc đã xuất hiện ở rìa phía Bắc bãi băng.
Êrik và bác Hecsêbom vui mừng phát khóc lên, ôm chầm lấy nhau. Họ vẫy khăn, tung mũ lên trời, cố bằng mọi cách báo hiệu cho các bạn của mình.
Cuối cùng, "Aljaska" đã dừng lại. Một chiếc xuồng từ mạn tàu được hạ xuống và không đầy hai mươi phút sau đã cập sát tảng băng.
Thật khó mà diễn đạt được bằng lời niềm vui sướng của bác sĩ Svariênkrôna, Brêđêzhor, Maljarius và Ôttô khi họ nhìn thấy những người bạn mà họ tưởng đã hy sinh, không bao giờ còn trở lại nữa, giờ đây vẫn còn sống và nguyên vẹn.
Thế là bắt đầu những câu chuyện hàn huyên không dứt về những thử thách, những khủng khiếp của cái đêm đáng sợ ấy, về những cuộc tìm kiếm uổng công vô ích những người mất tích và về nỗi thất vọng đã xâm chiếm cõi lòng tất cả những người bạn của họ và toàn đoàn...
Sáng hôm sau, sau khi hầu như hoàn toàn thoát khỏi những tảng băng vây hãm chung quanh, "Aljaska" đã mở được đường ra khơi bằng một số trái nổ. Phó thuyền trưởng Bêrêvit đảm nhận chỉ huy tàu, lập tức cho tàu chạy xuôi gió để đi tìm phần băng đã bị tách ra khỏi bãi băng. Đó là cuộc hành trình nguy hiểm nhất trong các hành trình mà "Aljaska" đã trải qua. Nhưng, nhờ kinh nghiệm mà đoàn thủy thủ tích luỹ được dưới sự lãnh đạo của thuyền trưởng trẻ, nhờ sự khéo léo điều chỉnh hướng đi, cuối cùng nó cũng an toàn thoát khỏi mọi sự rắc rối, phức tạp do những tảng băng trôi phiêu bạt gây nên. Tuy nhiên, ở đây có sự hỗ trợ của hoàn cảnh thuận lợi: "Aljaska" đã bơi cùng hướng với những tảng băng trôi, nhưng với tốc độ lớn hơn nhiều. May phước làm sao, cuộc tìm kiếm hoá ra không uổng công vô ích tí nào. Lúc chín giờ sáng, từ phía khuất gió đã tìm thấy tảng băng. Chẳng mấy chốc, từ trên "tổ quạ" cũng đã phân biệt được những đường nét quen thuộc của nó. Rồi sau đấy hai phát súng từ đó vẳng lại đã gây niềm hy vọng: Êrik và bác Hecsêbom vẫn còn sống. Tất cả mọi chuyện khác giờ đây đều không có ý nghĩa. Bây giờ "Aljaska" sẽ đi về hướng Bắc cực, và chẳng còn sức mạnh nào, cho dù đó là âm mưu quỷ kế, có thể cản trở được nó đến vùng biển này. Nhưng, nó phải chạy bằng buồm, bởi vì than không còn nữa...
- Và cũng không phải hoàn toàn bằng buồm! - Êrik tuyên bố - Tôi đã có những dự kiến của mình về việc này. Thứ nhất, chúng ta có thể bám sau bãi băng như tàu dắt vậy, tạm thời đi theo bãi băng trôi về hướng Nam hoặc hướng Tây. Như vậy, tránh cho ta khỏi phải vật lộn liên tục với những tảng băng trôi: chiếc "phà" băng của ta sẽ cản phá hết chúng ở phía trước. Thứ hai, chúng ta tranh thủ thời gian để khai thác nhiên liệu cần thiết ngay trên chiếc “phà” ấy, còn sau đó, khi nào tiện lợi thì ta sẽ tự lực.
- Con nói vậy là ý thế nào? Trong lòng những tảng băng ẩn náu những vỉa than chăng?... Bác sĩ tươi cười hỏi.
- Không, tất nhiên là không có những vỉa than, nhưng có thứ hoàn toàn có thể thay thế nhiên liệu cũng được. Đó là những vỉa "than động vật', dưới dạng mỡ hải mã. Con muốn thử dùng mỡ này, vì lò của chúng ta đã được thiết kế để dùng cả loại chất đốt đó mà.
Trước hết cần phải làm nghĩa vụ cuối cùng đối với hai người chết đã: người ta thả hai cái xác xuống nước cùng với một viên đại bác buộc vào chân.
Sau đó "Aljaska" ghé sát vào bãi băng với ý định cùng di chuyển theo nó, đồng thời được nó che chở. Như vậy có thể dễ dàng chuyển lên tàu số lương thực mà trong bất kỳ trường hợp nào cũng không thể để mất được. Khi công việc bốc chuyển đã xong, tàu vào đỗ ở đầu phía Bắc bãi băng, tại đây có chỗ tránh băng trôi rất an toàn. Sự đúng đắn của Êrik đã hoàn toàn được khẳng định: "Aljaska" được kéo theo với tốc độ bình quân tới 6 hải lý, như vậy là được, bởi vì nó chưa thoát khỏi khu vực nguy hiểm có băng trôi.
Trong khi đó lại có một tảng băng khổng lồ y như một lục địa nổi vậy cũng bám theo trôi về hướng Nam, đoàn thám hiểm của "Aljaska" tha hồ săn hải mã.
Mỗi ngày hai hoặc ba lần các nhóm thợ săn mang theo những chiếc lao, xiên và súng, cùng đàn chó giống Grơnlan lên bãi băng và vây bắt những con vật ở biển đang lim dim ngủ gần mặt nước. Hải mã bị họ bắn vào tai, sả nguyên con, tách mỡ ra, chất lên xe trượt tuyết và chở về tàu “Aljaska” với sự hỗ trợ của bầy chó. Việc săn bắn rất nhẹ nhàng và kết quả đến nỗi không đầy một tuần các kho đã đầy ắp mỡ hải mã.
Trôi theo bãi băng về hướng Tây Nam. "Aljaska" đã đạt được đến kinh độ 40 dưới vĩ tuyến 74 và như vậy là nó đã để lại Đất Mới ở phía sau, sau khi đi vòng qua đó từ phía Bắc.
Dưới tác động của ánh nắng mặt trời, đến thời điểm này, hòn đảo băng trôi đã giảm đi gần hai lần, phần còn lại của nó bị các vết nứt và các rãnh chia cắt nhỏ ra, rõ ràng đang dần dần tan rã hết. Đã sắp đến cái giờ phút bãi băng khổng lồ chỉ còn là một tảng băng trôi. Êrik không đợi chờ đến lúc ấy. Chàng ra lệnh cuốn neo và hướng mũi tàu về phía Tây.
Mỡ hải mã được đưa thẳng vào lò của "Aljaska", trộn thêm một ít than bụi, trở thành thứ nhiên liệu tuyệt vời, nhược điểm duy nhất của nó là mau làm tắc ống khói, do vậy mà ngày nào ống khói cũng phải thông. Còn nói về cái mùi riêng biệt của mỡ hải mã, chắc chắn nó làm cho các hành khách Địa Trung Hải khó chịu, nhưng đối với những thủy thủ Thụy Điển và Na Uy thì hầu như nó không gây sự bất tiện nào.
Lượng dự trữ nhiên liệu dồi dào đã giúp cho "Aljaska" chạy lò hơi đến phút chót và mặc dù bị ngược gió, nó vẫn nhanh chóng vượt qua khoảng cách giữa nó với các biển châu Âu. Ngày 5 tháng 9 “Aljaska” đã nhìn thấy Norđkap Ở Na Uy. Vì không thật cần thiết nên thậm chí nó đã không ghé vào Trômsiđ, mà vòng qua bán đảo Scanđinav, lại đi ngang Skaghêrak và trở về nơi xuất phát.
14 tháng Chín, "Aljaska" đã thả neo ở Xtôckhôm, ngay vùng nước mà ngày 10 tháng 2 đầu năm nó đã từ đó ra đi.
Như vậy là dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng hai mươi hai tuổi, cuộc hành trình vòng quanh thế giới đầu tiên trên vùng biển Bắc cực đã được hoàn thành sau bảy thảng bốn ngày.
Cuộc thực nghiệm địa lý kiểm tra và bổ sung hết sức nhanh chóng những kết quả thám hiểm vĩ đại của Norđenshelđ chẳng bao lâu đã có tiếng vang lừng lẫy khắp thế giới. Nhưng, đúng ra là báo chí còn chưa nói gì đến những công lao của thuyền trưởng "Aljaska". Và không phải chỉ bản thân chàng, mà thậm chí một số ít người khác gần gũi với chàng chưa chắc đã có thể đánh giá được đầy đủ ý nghĩa lớn lao của đoàn thám hiểm của chàng, và dẫu sao thì ngay cả Kaisa cũng tỏ ra ít nghi ngờ nhất về điều ấy.
Cô gái đã nở nụ cười độ lượng khi nghe kể về chuyến du hành.
- Thế thì cũng đáng tự nguyện dấn thân vào những nguy hiểm như vậy lắm. - Cô ta nói và chỉ giới hạn ở một lời nhận xét ấy mà thôi.
Tuy nhiên, hễ có dịp là cô ta lại nói bóng nói gió Êrik:
- Bây giờ, lão Ailen "vang danh" nọ không còn sống nữa, thế là cuối cùng chúng ta cũng đã thoát được cái công việc chán ngấy ấy!
Thật là khác nhau một trời một vực giữa những lời lẽ khô khan lạnh nhạt của Kaisa và lá thư tràn đầy nỗi xúc động chân tình và trìu mến mà sau đó chẳng bao lâu Êrik đã nhận được từ Nôrôê gửi đến!
Vanđa báo cho chàng biết cô và bà mẹ Katrina trong suốt những tháng ngày đằng đẵng vừa qua, đã phải lo lắng xiết bao, đã theo dõi hành trình "Aljaska" bằng trí tưởng tượng như thế nào. Cái tin các nhà du hành trở về bến cảng thân yêu đã đem lại cho họ những niềm sung sướng biết chừng nào!... Thậm chí nếu đoàn thám hiểm không đạt được những kết quả mà Êrik mong muốn thì chàng cũng chẳng phải buồn phiền gì. Bởi vì Êrik biết rất rõ rằng mặc dù chàng không có gia đình ruột thịt, nhưng đã có một gia đình khác ở một làng Na Uy nghèo nọ thương yêu trìu mến chàng và gửi gắm hết tâm trí cho chàng. Chẳng nhẽ chàng không thể dành thời gian để về thăm cái gia đình khi nào cũng coi chàng là người trong nhà và không bao giờ từ bỏ chàng ư? Chẳng nhẽ chàng không thể dành cho họ lấy được một tuần lễ ư? Bởi vì đây là nguyện vọng thầm kín của người mẹ nuôi của chàng và của đứa em gái út Vanđa của chàng kia mà...
Qua những lời tâm huyết ấy và qua mùi thơm tinh khiết của ba bông hoa được hái bên bờ vịnh bỏ vào phong bì, Êrik thấy như được sống lại thời thơ ấu của mình. Điều gì có thể làm cho trái tim buồn rầu của chàng bình phục trở lại và điều gì có thể giúp chàng mau chóng vượt qua nỗi thất vọng cay đắng, trước sự kết thúc không thành công của chuyến đi nếu không phải là sự quan tâm của những người thân yêu và gần gũi nhất?
Trong khi ấy dư luận đã phải thừa nhận một sự thật hiển nhiên và đánh giá một cách xứng đáng: Hành trình của "Aljaska" là sự kiện quan trọng không kém gì hành trình của "Vêga". Tên tuổi của Êrik từ nay đã được khắp nơi nhắc đến ngang hàng với tên tuổi quang vinh của Norđenshelđ. Tất cả các tờ báo đều đăng kín những bài vở nói về cuộc hành trình vòng quanh thế giới khác thường này. Tàu bè của tất cả các nước đậu ở cảng Xtôckhôm đều qui ước với nhau nhất loạt treo cờ để chào mừng thắng lợi mới của sự nghiệp hàng hải. Ở khắp nơi người ta nhiệt liệt đón chào chàng như đón một người chiến thắng trở về. Êrik ngượng nghịu và kinh ngạc. Các hội khoa học đều nhất trí thể hiện sự kính trọng đối với chàng thuyền trưởng trẻ và toàn đoàn thám hiểm của tàu "Aljaska". Các nhà cầm quyền dân sự, chính quyền các nước đều dự tính tặng giải thưởng quốc gia cho những người tham gia đoàn thám hiểm.
Tất cả những lời khen ngợi ấy và tất cả sự rùm beng ấy đã làm cho Êrik băn khoăn, bối rối hết sức. Bởi vì chính chàng biết rõ chuyến đi này chủ yếu chàng theo đuổi mục đích cá nhân, và điều đó làm cho chàng thấy xấu hổ về sự vinh quang bất ngờ của mình, hơn nữa lại là sự vinh quang được đề cao vô cùng. Chính vì vậy, chàng đã quyết định thành thật kể rõ ngay từ đầu điều gì đã khiến chàng ra đi một chuyến xa như thế, điều gì chàng cần tìm, nhưng đã không tìm thấy ở vùng biển Bắc cực. Nói một cách khác, chàng muốn công khai xác minh điều bí mật về nguồn gốc của mình và nguyên nhân tàu “Cintia" bị đắm.
Sự việc lập tức được một người không có râu, nhanh như sóc, nhỏ gần như một chú lùn, tự giới thiệu là phóng viên của một trong những tờ báo quan trọng ở Xtôckhôm, chộp lấy ngay. Con người kỳ cục ấy đã bất ngờ xuất hiện trên tàu “Aljaska” để "được tự phỏng vấn đích danh thuyền trưởng". Êrik nóng lòng được kể hết sự thật và tuyên bố công khai rằng chỉ vì nhầm lẫn mà mọi người coi chàng là một Khristôfor Kôlômbô (Nhà hàng hải đã tìm ra châu Mỹ) mới.
Và Êrik đã kể hết, không giấu giếm gì về lai lịch của mình; chàng đã được một ngư dân nghèo ở Nôrôê tìm thấy trên biển ra sao, đã được học với ngài Maljarius, được nuôi dưỡng và đào tạo tại nhà bác sĩ Svariênkrôna ở Xtốckhôm như thế nào, đã phỏng đoán Patric Ô Đônôgan nắm chiếc chìa khóa bí mật về cuộc đời chàng ra sao, bằng cách gì đã biết tên người Ailen ở trên tàu “Vêga”, chàng đã cùng với những người bạn tìm hắn và buộc phải thay đổi tuyến hành trình, rồi sau đó đã đến quần đảo Ljakhôv, tiếp đó, đến mũi Cheljuskin như thế nào... Êrik đã kể hết những điều ấy như muốn để thanh minh cho tiếng tăm lừng lẫy đã được phong tặng, nhưng bản thân chàng thấy không xứng đáng nhận. Và chàng kể hết mọi chuyện một cách tỉ mỉ chính là vì chàng thấy rất ngượng ngùng trước bao nhiêu là lời khen về những hành vi mà chàng thấy bình thường và tự nhiên nhất.
Trong khi đó, cây bút chì của ngài phóng viên Skirelius tốc ký lia lịa trên giấy. Những ngày tháng, tên người, những sự việc nhỏ nhất - tất cả đều được ghi chép một cách tỉ mỉ...
Ngày hôm sau, bài báo đã được đăng kín cả ba cột trên một tờ báo phổ biến nhất ở Thụy Điển và thật là hiếm thấy trong những trường hợp như vậy, sự chân thành của Êrik chẳng những không làm giảm bớt công lao của chàng, mà ngược lại, càng làm cho những công lao ấy tăng thêm sức nặng, còn tính khiêm tốn hiếm có của chàng và điều bí mật lãng mạn mà người ta rất quan tâm trong phần tiểu sử của chàng thì đã được dùng làm "mồi" đối với báo chí và công chúng. Bài báo của Skirelius chẳng bao lâu đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và truyền đi khắp châu Âu.
Ở Paris, buổi tối nọ, một tờ báo có đăng bài ấy, còn chưa ráo mực, đã lọt vào phòng khách được bài trí đơn sơ ở tầng ba một tòa biệt thự cổ trên đường Đêvaren .
Trong phòng khách có hai người đang ngồi - ông già đẹp lão, cao và một phụ nữ tóc bạc trắng, mặc đồ tang, nom còn trẻ, mặc dù trong toàn bộ phong thái của bà toát ra nét buồn vô hạn. Bà đưa kim lên tấm vải thưa một cách máy móc, trong khi những ý nghĩ của bà hướng về quá khứ và ánh mắt của bà mờ đi bởi một sự hồi tưởng đau đớn nào đó cứ ám ảnh bà hoài.
Ông già xem qua tờ báo mà người hầu vừa mới đưa vào cho ông.
Đấy là ông Đuyren, nguyên tổng lãnh sự và một trong những thư ký của Hội địa lý - chính là ông Đuyren đã có mặt trong bữa tiệc của ngài quận trưởng hàng hải ở Brest nhân dịp "Aljaska" đến cảng này.
Không có gì ngạc nhiên khi ông Đuyren đọc xong bài bút ký và tiểu sử của nhà hàng hải Thụy Điển trẻ tuổi. Cái tên Êrik đã làm cho ông phải rùng mình. Nhưng khi ông chăm chú đọc lại bài báo thì gương mặt phờ phạc của ông tái nhợt đi như sắp chết, hai tay cầm tờ báo run bắn lên, khiến cho người phụ nữ từ nãy đến giờ vẫn im lặng phải chú ý.
- Cha, cha thấy khó chịu trong người ạ? - Bà lo lắng hỏi.
- Cha thấy... Cái lò sưởi đốt nóng quá... Cha về phòng làm việc của cha, có lẽ ở đó không đến nỗi ngột ngạt lắm... Không sao đâu... Chỉ thấy hơi khó chịu trong người thôi. - Ông Đuyren trả lời và đi sang phòng bên.
Làm như không cố ý, ông mang tờ báo theo. Nếu như người con gái lúc ấy có thể đọc được những ý nghĩ của cha mình thì đó là ý định bằng mọi cách ông muốn giấu con gái bài báo đó.
Người con gái muốn theo cha sang phòng làm việc, nhưng đã kịp thời đoán ra rằng cha muốn được một mình, nên đành phải chiều theo tính thất thường của cha. Chẳng mấy chốc bà đã nghe thấy tiếng chân của cha đi lại trong phòng, còn cửa sổ, thì lúc mở, lúc đóng.
Mãi một tiếng sau bà mới kiên quyết hé mở cánh cửa ra vào, xem tình hình sức khỏe của cha thế nào. Ngài Đuyren đang ngồi sau bàn viết thư. Nhưng bà không để ý thấy mắt cha đẫm lệ...