ếu như quyết tâm chiến đấu trên mặt đất của Hà Nội được cô đọng qua hình ảnh người lính Trường Sơn (Đường mòn Hồ Chí Minh) thì quyết tâm chiến đấu dưới lòng đất được thể hiện rõ nhất bằng hình ảnh những du kích Củ Chi. Cả hai đều trải qua vô vàn khó khăn; cả hai đều chiến đấu đầy quyết tâm; cả hai đều chịu thương vong nặng nề; và cả hai – khi đối mặt với kẻ thù vượt trội về công nghệ - đã chứng minh được ý chí thép mãnh liệt.
Sự hình thành hệ thống địa đạo là một bằng chứng về lòng kiên trì, quyết tâm cống hiến và kỹ năng của du kích Củ Chi trong suốt ba mươi năm. Quá trình phát triển hệ thống địa đạo đã trải qua một thay đổi lớn – ban đầu chỉ sử dụng vào mục đích phòng thủ nhưng sau đó lại được dùng làm bàn đạp tấn công. Và khi kẻ thù quyết tâm khuất phục du kích đại đạo, liên tục thay đổi chiến thuật để đánh bật họ khỏi lòng đất, thì họ đã chứng tỏ một quyết tâm mãnh liệt hơn, đối phó lại với những thay đổi chiến thuật. Trong cuộc đọ sức về ý chí dưới lòng đất, du kích địa đạo là những tường thành vững chãi, không bao giờ bị đánh bật.
Trong chiến tranh, có nhiều hệ thống địa đạo khác nhau đã được đào ở nhiều nơi, nhưng địa đạo Củ Chi là ấn tượng nhất. Là một hệ thống rộng lớn (một xa lộ ngầm vào lúc cao điểm có tổng chiều dài 340 cây số, kết nối hầu hết thôn làng lại với nhau), sự hiện diện trong suốt cuộc chiến của hệ thống địa đạo ngay bên rìa của thủ đô quân thù là nguồn cơn của nỗi bẽ bàng lớn đối với cơ quan Sài Gòn cũng như niềm tự hào bất tận của du kích quân.
Thiếu tướng đã quá cố Trần Hải Phụng, tư lệnh của lực lượng tại địa đạo Củ Chi, đã cho chúng ta một hình dung cơ bản về quy mô của ma trận dưới lòng đất: “Chỉ riêng một hệ thống địa đạo đã rộng tới 16.000 hécta – một khu vực bao gồm sau ngôi làng”. Địa đạo lớn tới mức người ta đã phải đặt “biển chỉ đường” tại một vài nơi để người mới đến khỏi đi lạc.
Nằm cách Sài Gòn bảy mươi cây số về hướng Tây Bắc, địa đạo Củ Chi ra đời vào năm 1945, theo sau thất bại của quân Nhật trong Thế chiến thứ II và việc Pháp nỗ lực tái chiếm đóng Việt Nam. Lúc bấy giờ, người Việt Nam đã ngay lập tức khẳng định sẽ phản đối việc Pháp tiếp tục chiếm đóng.
Thế là người Pháp chuẩn bị cuộc chiến với một quân đội Việt Nam được trang bị yếu hơn và với quân số ít hơn. Giới lãnh đạo Pháp đã lập luận rằng Việt Minh làm sao có thể chống chọi với một quân đội phương Tây hiện đại và đông đảo hơn? Nhưng người Pháp đã không chuẩn bị kỹ cho những gì diễn ra sau đó. Paris đã không thể chủ động viết kịch bản cho cuộc chiến ở Việt Nam – một kịch bản với nhiều chiến dịch lớn để dồn ép Việt Minh. Thay vào đó, Hà Nội đã viết kịch bản – đó là những trận chiến nhỏ lẻ mà trong đó Việt Minh chủ động quyết định khi nào và ở đâu sẽ diễn ra chiến sự. Khi Hà Nội triển khai chiến lược sử dụng những đơn vị nhỏ để chiến đấu và Paris không thể triển khai được lực lượng lớn, người Pháp đã bị sa vào một cuộc chiến tranh du kích. Rắc rối càng phát sinh khi chiến tranh nhanh chóng trở thành cuộc chiến tranh toàn dân – một hình thức chiến tranh mà người ta rất khó nhận diện quân địch. Người Pháp nhận thấy rằng đối phương không bao giờ mặc đồng phục, tham gia chiến đấu ở mọi độ tuổi và giới tính. Điều này gây ra khó khăn lớn trong việc nhận diện (tương tự như sau này người Mỹ đối mặt) đâu là bạn đâu là thù.
Tướng Phụng kể về giai đoạn khai sinh địa đạo:
“Sự hình thành địa đạo Củ Chi là một hệ quả từ cuộc chiến toàn dân của chúng tôi. Là cuộc chiến tranh nhân dân, có nghĩa là không cần phải gia nhập quân đội rồi mới chiến đấu – mà chiến đấu ngay tại nhà mình. Năm 1945, chúng tôi bắt đầu tấn công các mục tiêu ở Sài Gòn. Khi người Pháp phản công, chúng tôi rút về làng. Quân Pháp sau đó tìm cách tàn phá thôn làng và đuổi dân đi chỗ khác. Nhưng chúng tôi quyết tâm bám trụ, vì thế chúng tôi đào hầm ở những nơi chiến sự có khả năng xảy ra. Sau đó các hầm được kết nối lại với nhau. Vì thế, trong năm sau, chúng tôi đã mở rộng hệ thống hầm và địa đạo kết nối. Người dân kêu gọi quân đội giúp đào hầm. Công việc đào hệ thống hầm Củ Chi bắt đầu vào cuối năm 1946, tại thôn Tân Phú Trung”.
Ban đầu hệ thống hầm ngầm và địa đạo kết nối ra đời với mục đích phòng thủ, nhưng Tướng Phụng giải thích rằng điều đó đã thay đổi: “Về sau, quân Pháp tìm cách mở rộng chiến tranh tại miền Nam và đánh chiếm làng xóm. Chúng tôi cho rằng địa đạo có thể được sử dụng làm bệ phóng để tấn công quân Pháp. Cuối cùng, hệ thống địa đạo kết nối đã được mở rộng ra các thôn xóm khác. Tân Phú Trung là làng đầu tiên có hệ thống địa đạo hoàn thiện. Nó được hoàn tất vào đầu năm 1947, thời điểm quân Pháp mở chiến dịch trên bộ rất lớn nhằm vào chúng tôi. Vì điều này cũng như tính hiệu quả của địa đạo mà chúng tôi đã quyết định tiếp tục đào thêm. Từ đó, các làng khác cũng đào địa đạo. Ban đầu, chúng tôi chỉ cặm cụi đào – miễn sao có thể chui xuống lòng đất là được – nhưng không chú trọng việc kết nối hầm lại với nhau. Sở dĩ như vậy là vì chúng tôi chỉ nghĩ rằng hầm là phương tiện phòng thủ, giúp trốn tránh quân Pháp. Không có hầm, chúng tôi có thể bị đánh bật ra khỏi làng mạc. Nhưng sau đó chúng tôi nhận thấy rằng hầm hào cũng có thể được sử dụng để tấn công – vì giúp chúng tôi tiến vào sát nách kẻ thù và bất ngờ ra tay. Việc phát triển hệ thống hầm ngầm song hành cùng với phát triển căn cứ trên mặt đất của quân thù. Chức năng tấn công của địa đạo được duy trì trong thời chống Pháp và cả cuộc chiến chống Mỹ. Khác biệt duy nhất đó là hệ thống đường hầm thời chống Mỹ được mở rộng hơn và sâu hơn”.
Tướng Phụng cho biết việc đào địa đạo Củ Chi được triển khai theo ba giai đoạn khác nhau: “Hệ thống hầm ngầm được đào liên tục, từng giai đoạn một. Giai đoạn thứ nhất diễn ra suốt thời kỳ chín năm kháng Pháp. Giai đoạn thứ hai gồm hai bước nhỏ:
Từ 1954 đến 1959, khi xung đột diễn ra trên mặt trận chính trị chứ không phải trên chiến trường, địa đạo ít được mở rộng, quân của chúng tôi luôn tránh đụng độ và chỉ sử dụng nơi này để trú ẩn.
Từ 1959 đến 1964, khi tình thế cho thấy cuộc chiến chống (Ngô Đình) Diệm không thể dừng lại ở mặt trận chính trị, chúng tôi bắt đầu triển khai tấn công và mở rộng phạm vi hoạt động.
Giai đoạn ba diễn ra vào cuối năm 1964 khi Mỹ đổ quân vào Việt Nam và chúng tôi nhận thấy rằng chiến tranh sẽ sớm trở nên khốc liệt. Cần phải mở rộng mạng lưới địa đạo ngay lập tức, làm cho địa đạo lớn hơn và phức taph hơn. Để bảo vệ hầm ngầm tốt hơn, chúng tôi triển khai bố phòng trên mặt đất, làm ra nhiều loại bẫy nguy hiểm và sử dụng cả mìn chống tăng”.
Thời điểm quân Pháp bại trận vào năm 1954, hệ thống địa đạo chỉ có quy mô chừng mười phần trăm so với hệ thống dài 350 cây số khi Sài Gòn thất thủ năm 1975. trong giai đoạn 1954-1959, công việc đào địa đạo được triển khai nhỏ giọt; còn giai đoạn 1959-1964 thì ngưng trệ hoàn toàn; phần lớn việc đào địa đạo diễn ra trong thời gian Mỹ tham chiến.
Với một kế hoạch đào hầm đấy tham vọng bắt đầu từ cuối năm 1964, hệ thống địa đạo Củ Chi đã được chuẩn bị kỹ càng để đối phó với cuộc tấn công đầu tiên của quân Mỹ ở vùng này – Chiến dịch Crimp1 – vào tháng 1 năm 1966.
Điều lưu ý là Chiến dịch Crimp không nhằm mục đích đánh bật Việt Cộng ra khỏi địa đạo, bởi lúc bấy giờ người Mỹ vẫn chưa hề biết đến sự hiện diện của hệ thống hầm ngầm. Mục đích chính của Chiến dịch Crimp là vây hãm quân du kích hoạt động ở khu vực Củ Chi. Chiến dịch bao gồm một cuộc tấn công ở rừng Hố Bò, phía Tây “Tam giác sắt”. (Tam giác sắt là một khu vực Việt Cộng hoạt động mạnh, nằm giữa sông Thị Tính và sông Sài Gòn. Khái niệm “tam giác” nhằm chỉ nơi ở giữa ba vùng đất – Bến Cát, Trảng Bàng và Củ Chi. Du kích quân có thể đi lại an toàn trong khu vực này vào ban ngày thông qua hệ thống địa đạo Củ Chi mà không một lần đặt chân lên mặt đất).
Crimp là một chiến dịch “trên đe dưới búa” – lực lượng Mỹ trên sông Sài Gòn đóng vai trò là cái đe, còn cuộc càn quét dó Sư đoàn Lục quân số 1, biệt danh “Anh cả đỏ” 2, đóng vai trò như cái búa. “Anh cả đỏ” đổ quân xuống Bắc Củ Chi, chuẩn bị quét sang vùng Đông Nam, hướng về phía sông Sài Gòn để vây hãm du kích quân.
Kế hoạch này rất đơn giản và có vẻ như sẽ dễ dàng bẫy được bất cứ du kích quân nào trong vùng. Sau khi đổ xuống từ trực thăng, Sư đoàn số 1 của Mỹ lập tức bị đối phương tấn công bằng súng nhỏ. Hỏa lực tiếp tục mạnh lên khi Sư đoàn 1 tiến về phía sông Sài Gòn. Tuy nhiên, mỗi lần quân Mỹ tìm cách rượt đuổi, họ lại không thể định vị được kẻ tấn công – dường như du kích quân đột nhiên bốc hơi hết vậy.
Quân Mỹ phát hiện một số hầm ngầm và hào nhưng tất cả đều trống. Khi quân Mỹ tới được bờ sông Sài Gòn thì đã chịu tổn thất lớn – và không hề tìm thấy một lính Việt Cộng nào. Người Mỹ bắt đầu bấn lên với cảm giác như đang đối đầu với một kẻ địch vô hình vậy.
Thế rồi cơ chế giúp Việt Cộng biến mất đã sớm bị phát hiện.
Khi Sư đoàn 1 quành lại khu vực Tam giác sắt một lần nữa, một lính cảnh giới đã phát hiện ra một cửa sập được ngụy trang kỹ càng dẫn tới đường hầm bên dưới. Giữa lúc binh sĩ Sư đoàn 1 đang kiểm tra lối vào hầm thì một du kích quân trồi lên từ cánh cửa sập gần đấy. Khẩu súng tự động trong tay khạc lửa vào khu vực xung quanh trước khi anh ta chui tọt xuống hầm. Lính Sư đoàn 1 sau đó lần xuống lối vào địa đạo thứ hai này. Nhưng khi họ vừa chui xuống thì có tay súng thứ hai trồi lên từ một cửa địa đạo thứ ba xả súng vào họ. Các quân nhân Sư đoàn 1 nhanh chóng nhận ra rằng họ đang đối diện với một tình huống hoàn toàn mới. Chương trình huấn luyện trước đây chưa từng chuẩn bị cho Sư đoàn 1 kỹ năng đối phó với du kích quân tại mặt trận dưới lòng đất.
°°°
Thiếu tướng Phụng đánh giá về Chiến dịch Crimp: “Chiến dịch Crimp diễn ra vào tháng 1 năm 1966 nhưng chúng tôi đã chuẩn bị đối phó từ tháng 9 năm trước. Chúng tôi tiên liệu được tình hình khi thấy Mỹ đổ quân vào Việt Nam vào đầu năm 1965. Thật dễ dự đoán rằng mình sẽ phải đánh nhau với họ vào cuối năm đấy hoặc đầu năm tới. Các cuộc họp với tình báo viên và những người phân tích tình hình quân sự đang theo dõi diễn biến dọc mặt trận được tổ chức đều đặn. Những người phân tích nói rằng quân Mỹ sẽ sớm mở một trận càn vào khu vực này bởi lực lượng Sài Gòn lúc đó vẫn còn khá mỏng.
Năm 1965, tôi nhận báo cáo về số lượng quân Mỹ được đổ vào, quân đến vào lúc nào và ở đâu. Tôi còn nhận được báo cáo về tên gọi và cơ cấu của các lực lượng tham gia Chiến dịch Crimp cùng chiến thuật của nó. Chúng tôi biết rõ hướng tấn công; biết tất cả những điều này trước đó hàng tháng trời, dù không biết đích xác thời điểm Chiến dịch Crimp được phát động. Bởi “Anh cả đỏ” đã chuyển đến ở Long Bình, bởi rất nhiều hàng quân nhu được chuyển đến căn cứ này, và bởi máy bay do thám liên tục quần trên đầu chúng tôi nên có thể dự đoán rằng một chiến dịch sắp sửa diễn ra.
Người Mỹ là những chiến binh cừ khôi với vũ khí vượt trội về công nghệ, nên trong quá trình chuẩn bị đối phó, chúng tôi nỗ lực tìm hiểu chiến thuật tấn công mà họ sẽ áp dụng. Nhiều nhóm trinh sát được cử đi làm nhiệm vụ này”.
Trong Chiến dịch Crimp, một nhóm lính mới có biệt danh “chuột chũi” đã được triển khai khi quân Mỹ tìm cách đánh bật du kích ra khỏi hầm ngầm. Cửa vào hầm thường rất nhỏ - quá nhỏ sơ với cơ thể trung bình của người Mỹ. Vì thế, những bính sĩ nhỏ con xung phong bò vào hầm để thám xét. Nếu may mắn thì lính chuột chũi có thể gặp hầm trống không; nhưng sẽ là thảm họa nếu sa vào bẫy hoặc đối mặt với du kích quân – những tình huống thường có lợi cho phía phòng thủ.
Đại tá Châu Lâm được điều tới Củ Chi vào năm 1962 và ở đó suốt cuộc chiến tranh. Vào thời điểm Chiến dịch Crimp nổ ra, ông đang là trung úy. Ông nhận xét về kết cục của Chiến dịch Crimp:
“Trong Chiến dịch Crimp, người Mỹ không định đánh nhau với chúng tôi dưới địa đạo. Họ chỉ muốn đánh bẫy chúng tôi và phá hủy căn cứ tiếp viện ở đó. Đây là lần đầu tiên địch biết được chúng tôi có hệ thống địa đạo ở Củ Chi. Đối với họ, và xét ở góc độ mục tiêu của Chiến dịch Crimp, có thể nói đây là một chiến dịch thất bại”.
Một nguyên tắc chiến tranh được các tư lệnh quân đội quán triệt qua hàng thế kỷ đó là, nếu điều kiện cho phép, phải huy động càng nhiều quân càng tốt. Nhưng du kích quân ở Củ Chi lại không nghĩ như thế. Bên dưới hầm ngầm, lực lượng càng nhỏ thì khả năng thành công càng cao – bởi lẽ càng ít người thì di chuyển càng dễ.
Ông Lâm giải thích: “Chúng tôi có ít người và luôn triển khai cách đánh đem lại lợi thế cho lực lượng nhỏ”.
Nguyên tắc càng ít càng tốt được quân Việt Cộng áp dụng trong suốt Chiến dịch Crimp. Trong khi hơn 8.000 quân Mỹ và Đồng minh càn quét về hướng sông Sài Gòn, vài trăm du kích quân – thường được tổ chức theo nhóm ba, bốn người – liên tục gieo rắc nỗi kinh hoàng cho đối phương.
“Chúng tôi chia quân ra thành từng nhóm nhỏ và sẵn sàng chiến đấu ngay khi quân Mỹ vừa đổ bộ xuống”, ông Lâm cho biết. “Họ không biết chúng tôi ở đâu. Chúng tôi nổ súng khi họ tiến lên, sau đó lại chui xuống hố rồi chuyển qua vị trí khác và tiếp tục đánh bất thần. Chúng tôi bắn trúng nhiều người, và khi họ dừng lại để cứu thương hoặc quy tập người chết, chúng tôi tiếp tục tràn lên đánh. Khi họ đuổi theo thì chúng tôi biến mất. Họ bị bất ngờ trước chiến thuật này, và lúc đầu thì họ chẳng biết các cuộc tấn công được triển khai từ hướng nào”.
Ông Lâm chỉ rõ tính hiệu quả trong chiến thuật của Việt Cộng: “Với lực lượng nhỏ hơn nhiều, chúng tôi vẫn có thể đánh lui được một đội quân rất lớn”. Ông nói tiếp: “Tuy nhiên, phải nói là chiến thuật mà người Mỹ áp dụng để đối phó với địa đạo cũng rất ghê gớm”.
Mỹ bắt đầu triển khai đối pháp để chống lại địa đạo. Họ bơm khói vào hầm để xác định các cửa ra vào còn lại. Phương cách này không khiến du kích quân phải chui ra khỏi hầm, nhưng nó giúp người Mỹ đoán biết được quy mô khổng lồ của hệ thống địa đạo khi khói bay ra ở những lối ra vào khác.
Hơi cay (CS) – một loại chất không gây chết người thường được dùng chống bạo động – cũng được sử dụng để đẩy du kích ra khỏi các đường hầm. Việc bơm khí CS đã khiến các nạn nhân sợ hãi khi mắt, mũi, miệng của họ bị bỏng rát. Ở trên mặt đất, có rất nhiều cách để chạy thoát khỏi một vụ tấn công bằng khí CS – nhưng đối với người dưới hầm, lối đi rất hạn chế nên nỗi kinh hoàng càng khủng khiếp hơn. Khác với lính Mỹ, quân Việt Cộng không được trang bị mặt nạ chống khí độc. Vì thế, họ chỉ có thể chịu đựng những luồng khí bỏng rát và tiếng thét của họ chìm vào sâu trong lòng địa ngục; hoặc tìm lối thoát ra khỏi hầm để rồi đối mặt với cái chết hay bị bắt.
°°°
“Ban đầu, người Mỹ dùng lựu đạn hoặc thuốc nổ để phá hầm nhưng không mấy thành công bởi cách thức này chỉ phá được một phần địa đạo nhỏ”, Tướng Phụng kể. “Sau này, họ dùng vòi phun hơi cay sâu vào lòng địa đạo. Mục đích của việc xịt hơi cay là khiến cho người trong hầm nghẹt thở hoặc phải chuyển qua vị trí khác. Nhưng ngay cả phương pháp này rốt cuộc cũng không hiệu nghiệm vì chúng tôi đã biết được các đối phó”.
Nguyễn Thành Linh, một trung úy vào thời điểm Chiến dịch Crimp được triển khai, đã mô tả về hình dạng đường hầm và phương cách đối phó với khí CS:
“Địa đạo có các tầng khác nhau. Tầng thứ nhất sâu chừng một mét rưỡi tới hai mét. Việc chia địa đạo thành nhiều tầng là để bảo vệ người trú ẩn trong các vụ nổ. Đó không hẳn là tầng hầm theo cách hiểu thông thường, mà là các đoạn hầm ngắn được đào ở độ sâu khác nhau. Chỉ có hệ thống hầm chính mới được thiết kế như thế này. Sau khi đường hầm chính kéo dài khoảng năm mét, người ta bắt đầu đào xuống dưới, ở độ sâu cách tầng thứ nhất chừng hai mét. Một vài hầm có tầng thứ ba, được đào ở độ sâu cách tầng thứ hai chừng một mét rưỡi tới hai mét. Độ rộng đường hầm chỉ đủ cho một người bò. Vì thế, di chuyển qua một đoạn hầm dài hai cây số có thể mất tới hai tiếng đồng hồ. Tầng hầm càng sâu thì càng khó di chuyển vì độ rộng giảm xuống.
Khí được bơm vào hầm chính sẽ khó lan xuống tầng phía dưới. Tuy nhiên, nếu khí được bơm vào tầng dưới thì chắc chắn sẽ lan lên tầng phía trên rất nhanh. Một khi khí vào cả ba tầng thì sẽ rất nguy hiểm cho người trong hầm. Vì thế chúng tôi đã thiết kế cửa sập để ngăn mỗi tầng lại. Nếu ở tầng dưới nghe phía bên trên có người gào thét khi bị trúng khí thì chúng tôi sẽ sập cửa lại để ngăn khí lan tỏa”.
Một phương pháp khác được sử dụng để chống khí CS đó là kiểu thiết kế đoạn nối địa đạo hình chữ U. Hầm chữ U được đào xuống sàn ở phía cuối địa đạo chính, sâu xuống một mét rưỡi, sau đó chạy ngang một đoạn ngắn rồi đi ngược trở lại ngang bằng với tầng hầm thứ nhất. Điểm nối chữ U này giống như một khúc ngoặt ở đường hầm chính. Trong vài trường hợp, miệng hầm chữ U có một cửa sập được ngụy trang kỹ, khiến cho lính chuột chũi tưởng rằng họ đã tới cuối hầm chính. Đôi lúc hầm được bơm đầy nước để ngăn khí CS hoặc khói lan từ phần này sang phần khác của hầm chính. Có thể ngăn được hơi cay nhưng hầm nối hình chữ U lại trở thành một chướng ngại đối với người di chuyển dưới hầm, bởi tới những điểm nối này họ phải nín thở lặn xuống nước để sang phần hầm chính bên kia.
Khi bị trúng khí CS thì các du kích quân hầu như chẳng thể làm được gì nhiều để đối phó. “Bộ đội được hướng dẫn rằng trong trường hợp không thể chạy thoát thì hãy đái lên khăn tay rồi trùm lấy miệng và mũi”, ông Nguyễn Thành Linh kể. “Theo hiểu biết của chúng tôi về đông dược, chất amoniac có trong nước tiểu làm giảm đau đớn vì bỏng hơi cay. Đây cũng là cách làm giảm đau khi da bị cháy nắng. Trong trường hợp ấy”, ông Linh nói thêm, “sử dụng nước tiểu không có gì khó cả”.
Một phương pháp khác mà quân Mỹ sử dụng để đẩy Việt Cộng ra khỏi hầm ngầm cũng tương tự như cách mà dân Mỹ hay làm để xua lũ chuột chũi khỏi kho bãi.
“Khi việc sử dụng hơi cay không mấy thành công, người Mỹ đổi qua dùng nước”, Tướng Phụng giải thích. “Địa đạo cách không xa sông Sài Gòn nên họ thường lấy máy bơm và dùng ống dài để bơm nước làm ngập hầm. Nhưng cũng giống như tàu thủy, hệ thống địa đạo của chúng tôi sử dụng cửa không thấm nước để ngăn các phần hầm khác nhau. Chúng tôi cũng không đứng yên nhìn người Mỹ lắp máy bơm. Mỗi lần thấy họ đặt máy là chúng tôi xả súng vào máy móc và người vận hành để họ không làm được”.
Trong những ngày cuối của Chiến dịch Crimp, người Mỹ càng thất vọng bẽ bàng hơn khi một chiến thuật mới đưa vào đã thu được rất ít kết quả.
“Sau khi xác định được một nơi nghi vấn có hầm ngầm, người Mỹ liền cho xe tăng chạy qua chạy lại để làm sập hầm”, Đại tá Lâm cho biết. Nhưng phương pháp này không mấy thành công bởi Việt Cộng trong quá trình chuẩn bị đối phó Chiến dịch Crimp đã tiên liệu được nên đào hầm rất sâu, đến mức sức nặng của con quái vật bằng thép khổng lồ phía trên chẳng thể làm sập được.
Phương cách hiệu quả nhất để chống hầm ngầm đó là không kích. Chiến thuật này được thực hiện bằng các loại bom 500 và 750 cân Anh của máy bay B-52 hoặc bom khoan do các máy bay nhỏ hơn thả xuống.
“Chúng tôi thường biết trước thời điểm ném bom”, Tướng Phụng nói. “Chúng tôi thường quan sát các dấu hiệu cho thấy sắp sửa có oanh tạc. Một trong những phương pháp đó là theo dõi hoạt động ở căn cứ không quân. Trinh sát sẽ thông báo về thời gian máy bay được tập hợp trên phi trường để chuẩn bị cất cánh. Một dấu hiệu khác đó là việc quân Việt Nam Cộng hòa đột ngột rút khỏi một số khu vực được dự đoán là mục tiêu tấn công của máy bay Mỹ”.
Một trong những chiến thuật được du kích địa đạo áp dụng để tránh bom B-52 dựa trên niềm tin rằng sét không đánh một nơi hai lần.
“Máy bay B-52 thường để lại một dải hố bom ở những nơi mà nó bay qua”, ông Phụng giải thích tiếp. “Vài phút sau sẽ có một chiếc máy bay nữa bay tới nhưng quả bom sau không bao giờ rơi đúng ngay vị trí quả bom trước. Vì thế, giữa các đợt bom, chúng tôi quan sát xem hố bom vừa được tạo nên nằm ở đâu. Nếu hố bom nằm ngay trên một đoạn hầm nhưng không khiến hầm sập, chúng tôi sẽ rời vị trí của mình và chui vào nấp trong đoạn hầm vừa bị trúng bom ấy”.
Bản thân ông Phụng từng chứng kiến sự hiệu nghiệm của kỹ thuật tránh bom này. Sau khi ông đến một hầm ngầm vừa bị bom dội trúng nhưng không sập, chỗ hầm mà ông vừa bỏ lại đã bị bom phá hủy.
°°°
“Sau Chiến dịch Cedar Falls1 (cuộc tấn công của Mỹ vào tổng hành dinh Việt Cộng tại Tam giác sắt một năm sau Chiến dịch Crimp, từ 8 đến 26 tháng 1 năm 1967)”, Tướng Phụng cho biết, “người Mỹ đã chế tạo ra loại bom mới. Bom này không nổ trên mặt đất mà chui xuống lòng đất. Thiết bị hẹn giờ sẽ kích hoạt bom nổ khi đã khoan sâu vào lòng đất. Độ sâu của bom tùy thuộc vào địa hình và loại đất. Lần đầu tiên tôi đối mặt với loại bom này là vào tháng 4 năm 1967. Một chiếc F-5 bổ nhào rất sâu, cho trái bom rơi ra theo một góc phù hợp để có thể khoan sâu. Chiến thuật của chúng tôi là đợi tới khi máy bay bổ nhào thì dùng tiểu liên và súng máy bắn. Không có phương tiện phòng thủ nào khác để chống máy bay. Việc thả một trái bom chính xác để phá hủy địa đạo không hề đơn giản, nó đòi hỏi kỹ thuật cao”. Nhưng một khi bom ném trúng thì có thể gây ra thiệt hại khó lường. “Năm 1969, một chiếc F-5 thả một quả bom duy nhất trúng địa đạo đã giết chết bốn mươi người”, ông Phụng kể.
Người Mỹ đã có thể khiến cho du kích dưới lòng đất khổ sở, và ngược lại, du kích cũng khiến cho người Mỹ trên mặt đất gặp khó khăn. Quân Mỹ hoạt động ở vùng Củ Chi mỗi khi tìm cách tiến quân đều thường xuyên bị các tay súng bắn tỉa tấn công. Nhờ yếu tố bất ngờ cũng như có thể định vị mục tiêu dễ dàng, Việt Cộng đã nắm lợi thế - và họ luôn bắn phát nào trúng phát đó.
“Mỗi thành viên của đội bắn tỉa chỉ được cấp 100 viên đạn mỗi ngày”, Tướng Phụng tiết lộ. “Với cơ số đạn hạn chế như vậy, nhưng khi chiến đấu, lực lượng bắn tỉa vẫn gây cho địch nhiều thiệt hại. Phương châm của chúng tôi là mỗi viên đạn diệt một kẻ thù. Khi hết đạn, họ sẽ dùng lựu đạn. Nếu một người đang đánh nhau còn một người không thì người sau san sẻ bớt đạn cho người trước. Chúng tôi phát động thi đua, khen thưởng cho người bắn tỉa hạ được nhiều địch nhất”.
Mỗi khi bị bắn tỉa, quân Mỹ liền tập trung bắn trả về phía viên đạn quân thù vừa phát ra – nhưng thường là quá muộn. Tay súng du kích luôn trồi lên từ địa đạo, nổ súng và trở về nơi an toàn trong lòng đất trước khi quân Mỹ nhận ra mình bị tấn công. Ông Phụng tuyên bố: “Du kích quân rất bình tĩnh khi trạm trán đối phương, chính vì thế chúng tôi luôn chiến đấu hiệu quả”.
Thiết lập một vành đai phòng thủ không hẳn mang lại cho quân Mỹ sự bảo vệ an toàn. Vành đai phòng thủ của Mỹ có khi được lập ngay trên một hệ thống địa đạo. Trong trường hợp như thế, người Mỹ chỉ phát hiện ra khi có một du kích quân trồi lên từ cánh cửa sập ngay bên trong vành đai phòng thủ, nổ súng và sau đó biến mất.
Chiến dịch Crimp kết thúc vào ngày 14 tháng 1 năm 1966. Chiến dịch này thành công hay thất bại tùy thuộc bạn đặt câu hỏi cho ai. Báo cáo của Lục quân Mỹ sau chiến dịch khẳng định đợt truy kích thành công, trong khi lực lượng phía bên kia chiến tuyến – hay chính xác hơn, những người dưới lòng đất – nói rằng chiến dịch đã thất bại. Có lẽ câu trả lời phụ thuộc vào quan niệm của mỗi người về thành công.
Từ góc nhìn của người Mỹ, chiến dịch thành công bởi nó đã cho phép người Mỹ có một cái nhìn mới về khả năng của kẻ thù, dẫn tới việc thu thập được nhiều tài liệu, lương thực và vũ khí, cũng như ít nhất là tạm thời đẩy quân địch lui khỏi một phần căn cứ dưới lòng đất. Từ góc nhìn của Việt Cộng, họ đã thành công khi chống lại Chiến dịch Crimp bởi qua đó, họ đã trở nên tự tin hơn về khả năng đánh Mỹ, họ đã gây ra tổn thất lớn cho quân địch và cũng chứng minh được rằng một đội quân ít hơn vẫn có thể duy trì được vị trí sâu trong lãnh địa địch tại Củ Chi – cho dù vị trí đó nằm dưới lòng đất.
Sau Chiến dịch Crimp, Mỹ còn mở nhiều đợt tấn công vào khu vực. Một năm sau Crimp, Chiến dịch Cedar Falls được phát động với sự tham gia của hầu hết các đơn vị Lục quân từng có mặt hồi Chiến dịch Crimp. Lần này, quân Mỹ đã được chuẩn bị kỹ càng hơn để đối phó với các chiến thuật mà du kích quân có thể triển khai, trong đó có việc đem theo nhiều thiết bị đặc dụng.
“Sau thất bại của Chiến dịch Crimp”, Tướng Phụng kể tiếp, “họ tiếp tục mở thêm nhiều chiến dịch. Cuộc tấn công lớn nhất là Chiến dịch Cedar Falls với sự tham gia của nhiều quân hơn cũng như một lực lượng cơ giới có cả máy ủi. Chúng tôi vẫn sử dụng chiến thuật cũ trong khi họ triển khai chiến thuật mới để phá địa đạo. Họ đã dùng máy ủi để “bóc vỏ trái đất”. Nhưng sau Chiến dịch Crimp, chúng tôi đã đào địa đạo sâu hơn, khiến quân địch khó phát hiện. Chẳng biết địa đạo nằm ở đâu nên quân Mỹ đem theo nhiều xe ủi dàn thành từng hàng – thường là mười hai chiếc, có khi cả tiểu đoàn được huy động cùng lcus. Nếu sau khi ủi mà không tìm thấy gì lạ, họ sẽ chuyển tới nơi khác để ủi tiếp. Chiến thuật này rất nguy hiểm, nhưng chúng tôi đã dùng súng chống tăng để bắn xe ủi. Phía Mỹ sau đó đã điều rất nhiều quân chỉ để bảo vệ xe”.
Việc sử dụng xe ủi không làm Việt Cộng bất ngờ. Trinh sát của họ đã theo dõi những chuyển động bên trong các căn cứ Mỹ trước Chiến dịch Cedar Falls. Những gì trông thấy giúp họ biết rằng xe ủi sắp được sử dụng. Ông Phụng kể:
“Chúng tôi thấy xe ủi được huy động bên trong căn cứ quân sự Mỹ trước khi chiến dịch bắt đầu. Khi biết rằng họ sẽ dùng xe ủi, chúng tôi quay sang tìm hiểu xem họ sẽ ủi ở đâu để đem mìn và chất nổ cài ở những nơi ấy. Xe ủi tỏ ra hiệu quả hơn xe tăng trong việc phá hầm ngầm, nhưng chúng tôi đã đào hầm sâu hơn nên cả hai loại xe này đều không gây tổn thất lớn”.
Lục quân Mỹ còn dùng chó để đánh hơi nơi ẩn náu của Việt Cộng. Nhưng rồi họ cũng chẳng thu được mấy thành công bởi du kích quân đã chuẩn bị đối phó. Họ sử dụng ớt bột rải trên đất để ngăn chặn chó đánh hơi.
°°°
Về phía Mỹ, lính chuột chũi, với nhiệm vụ đột nhập địa đạo, là một dạng binh lính đặc biệt. Họ đi vào một thế giới bí ẩn để đối mặt với kẻ thù, nơi ấy đầy rẫy bất trắc và cái chết đôi khi chỉ ở cách họ vài mét.
“Chúng tôi cố ý thiết kế địa đạo rất phức tạp, vì đây là cách duy nhất để chống lại sự xâm nhập của lính chuột chũi”, Tướng Phụng giải thích.
Lính chuột chũi được trang bị đèn pin, súng ngắn, dao – cũng như một tinh thần dũng cảm lớn lao khi đột nhập vào những nơi dễ bị phát hiện. Để liên lạc với người trên mặt đất, lính chuột chũi mang theo điện thoại có dây. Một sợi dây được buộc vào cơ thể người lính để người trên mặt đất biết được anh ta đã đột nhập bao xa vào lòng địa đạo.
Bên trong lòng đất, trò chơi mèo vờn chuột bắt đầu giữa lính chuột chũi và du kích quân – với vai “chuột” và “mèo” được hoán đổi. Ông Nguyễn Thành Linh giải thích về sự hoán đổi nhanh chóng giữa vai mèo và chuột: “Khi phát hiện có người đang bám theo mình trong địa đạo, chúng tôi liền nằm im và chờ đợi cơ hội tấn công kẻ đột nhập. Chúng tôi thường nằm phục ở tầng trên để đón lõng lính chuột chũi đang ở tầng dưới bò lên. Địa đạo được thiết kế để buộc những kẻ đột nhập phải đưa tay lên trước rồi sau đó mới đưa phần thân trên qua lỗ kết nối để chui từ tầng dưới lên tầng trên. Di chuyển bằng cách này khiến lính chuột chũi rất dễ bị tấn công, chúng tôi thường dùng dao đâm hoặc thả một quả lựu đạn xuống tầng dưới vào đúng vị trí đã xác định”. Dù ở hai bờ chiến tuyến nhưng lính chuột chũi và người phòng thủ địa đạo luôn tôn trọng nhau.
“Lính chuột chũi thực hiện một nhiệm vụ rất nguy hiểm”, Tướng Phụng giải thích. “Khi chui vào địa đạo thì họ có hai nhiệm vụ: thứ nhất, tìm kiếm tài liệu, đồ quân nhu, vũ khí hoặc bất cứ thứ gì có giá trị tình báo; thứ hai, nghiên cứu cách thức hiệu quả nhất để đánh dưới hầm ngầm. Đó là nhiệm vụ rất khó khăn, không chỉ bởi họ phải thường xuyên xoay xở trong không gian chật hẹp mà còn bởi bộ đội của chúng tôi luôn phục chờ họ… Sau chiến tranh, tôi đã gặp một đại tá Mỹ; ông ta lắc đầu và bảo rằng không thể nào đánh nhau với chúng tôi dưới địa đạo”.
Bẫy cũng luôn chờ đợi lính chuột chũi. Bẫy chông tre là loại phổ biến nhất, được làm bằng cách đặt những thanh tre vót nhọn vào dưới hố rồi ngụy trang kỹ nắp hố. Nắp hố làm bằng chất liệu dễ gẫy để có thể sụp xuống khi một người bước lên trên. Lính chuột chũi vô ý sẽ trở thành nạn nhân của loại bẫy này, với thân thể bị thân tre đâm thủng. Đôi khi, que chông được tẩm phân người hoặc động vật để khiến vết thương dễ nhiễm trùng trong trường hợp nạn nhân sống sót sau khi bị đâm.
Các thiết bị nổ cũng được huy động. Cửa sập thường được gắn chất nổ, mà phần lớn lấy từ số bom đạn chưa phát nổ của Mỹ. Các thiết bị nổ này không chỉ làm chết hoặc bị thương kẻ đột nhập mà còn phá hủy địa đạo để khiến quân Mỹ không thể lần ra phần còn lại.
Một loại bẫy đỡ chết chóc hơn là loại tấm bảng lởm chởm đinh. Đã có một số lần lính chuột chũi Mỹ bị đâm thủng chân tay khi vấp tấm bảng này.
Trong một biến thể khác, Việt Cộng dùng bẫy cung tên. Người ta đào đường hầm ngắn, vuông góc với địa đạo chính. Một chiếc cung được đặt trong hầm ngắn, với dây cung được kéo ra phía sau, và được giữ chặt bằng thiết bị rất nhạy, mũi tên được đặt lên trên, chĩa mũi ra hầm chính. Sau đó, người ta nối một sợi dây từ hầm chính tới thiết bị kích hoạt. Khi lính chuột chũi bò vào hầm chính, tới điểm giao nhau ấy, nếu không cảnh giác thì có thể vướng phải sợi dây, kích hoạt cây cung và mũi tên được phóng đi.
“Loại bẫy này hoạt động tốt”, Tướng Phụng đánh giá. “Nhưng đôi lúc chúng lại gây ra rắc rối. Một vài lần người Mỹ không thể thu dọn xác quân nhân bên trong đường hầm. Tôi biết tới hai trường hợp dính bẫy – một người vấp phải chông tre và người kia bị trúng bẫy tên – cả hai đều thiệt mạng và thi thể bị bỏ lại. Sau đó, chúng tôi phải kéo xác lên mặt đất và để đấy cho người Mỹ thu dọn. Bẫy của chúng tôi rất hiệu nghiệm khiến sau năm 1966, lính chuột chũi không còn hoạt động nhiều nữa”.
Tuy nhiên, không chỉ người Mỹ mới là nạn nhân của các loại bẫy.
“Ngay cả người của chúng tôi cũng sợ bẫy”, Tướng Phụng thừa nhận. “Đã có lần người của tôi trở thành nạn nhân. Chúng tôi luôn tìm cách đánh dấu nơi đặt bẫy để tránh tai nạn nhưng do vô tình hoặc đánh dấu không đúng nên đôi khi chiến sĩ của chúng tôi cũng thiệt mạng”.
Một số loại bẫy gây khiếp sợ hơn các loại khác, đặc biệt là loại “bẫy sống”. Thỉnh thoảng, sau khi sơ tán khỏi một đường hầm, người ta để lại một vài con rắn độc để đối phó với lính chuột chũi. Rắn được nhốt trong lồng, sau đó được thả ra đúng lúc để đón lõng lính chuột chũi.
“Dùng rắn không thực sự hiệu quả”, Tướng Phụng cho biết. Có thể không hiệu quả mấy, nhưng chúng lại làm gia tăng nỗi sợ hãi đối với những người muốn khám phá đường hầm.
Ông Nguyễn Thành Linh bổ sung: “Ngay cả những người sống ở Củ Chi như chúng tôi cũng không bao giờ biết trước được mình sẽ đối mặt với điều gì bởi đôi lúc thú hoang vẫn thường chui vào địa đạo. Bất cứ lúc nào chúng tôi cũng có thể đụng phải dơi, chồn hoặc rắn”.
Sự sáng tạo của Việt Cộng tại Củ Chi không chỉ giới hạn trong phạm vi hệ thống địa đạo. Họ còn làm bẫy đặt trên mặt đất ở những lối dẫn tới đường hầm. Nếu người Mỹ sáng tạo ra phương cách để phát hiện bẫy, du kích quân sẽ thay đổi loại bẫy hoặc cách thức đặt bẫy. Điều này đã dẫn tới việc quân du kích đặt bẫy ở những nơi mà trực thăng Mỹ nhiều khả năng sẽ sử dụng làm bãi đáp.
“Chúng tôi nhanh chóng phát hiện ra rằng máy bay Mỹ tìm kiếm khu vực thoáng đãng để đổ quân nhằm đột kích bất ngờ”, Tướng Phụng nói. “Chúng tôi đối phó bằng cách cài mìn ở nơi mà quân Mỹ có thể đáp máy bay. Một chiến thuật khác là buộc trực thăng đáp xuống những nơi chúng tôi đang mai phục. Chúng tôi buộc người Mỹ phải đánh theo cách của mình – chứ không phải theo cách của họ. Về sau, vì sợ mìn, phi công đã cho trực thăng treo trên không và lính tụt xuống bằng dây thừng. Nhưng chúng tôi chế ra loại bẫy mìn có thể phát nổ khi trực thăng bay ở độ cao mười tới mười lăm mét. Điều này được thực hiện bằng cách cài một quả mìn trên mặt đất, rồi đặt một cây nhỏ lên trên kíp nổ. Khi máy bay vờn phía trên, gió từ cánh quạt sẽ thổi bay cái cây, kích hoạt quả mìn. Loại mìn này sử dụng kíp nổ đặc biệt do nông dân địa phương thiết kế và chế tạo”.
°°°
Du kích quân dựa vào lao động chân tay, sử dụng cuốc xẻng hoặc nếu cần, dùng tay không để đào địa đạo. Giống như những con giun đất hình người, họ khoan vào lòng đất với một tốc độ đáng kinh ngạc. Cách thức che giấu hàng tấn đất được đào lên cũng đáng kinh ngạc như kỹ thuật đào hầm.
“Để đào địa đạo, trước hết chúng tôi đào hai cái giếng khô”, Đại tá Châu Lâm tiết lộ. “Mỗi giếng có đường kính 0,8 mét. Hai cái giếng nằm cách nhau chừng sáu tới mười lăm mét, tùy thuộc vào địa hình, và được đào tới độ sâu ba đến bốn mét. Khi tới độ sâu đó, hai người ở hai giếng sẽ bắt đầu đào về phía nhau. Vừa đào họ vừa lắng nghe âm thanh của người kia để biết chắc rằng họ sẽ đào thông qua nhau”.
Độ sâu của giếng khô ban đầu tùy thuộc vào tầng của địa đạo. Loại giếng sâu từ ba tới bốn mét sử dụng cho tầng thứ nhất của địa đạo, chủ yếu phục vụ việc di chuyển nhanh sang vị trí chiến đấu khác. Độ sâu năm tới sáu mét tương đương với tầng thứ hai, thường được sử dụng để nghỉ ngơi. Còn độ sâu mười hai mét là tầng thứ ba, được sử dụng để tránh bom cũng như xe tăng/máy ủi.
Để xuống dưới giếng sâu, người ta phải khoét đất tạo bậc thang. Những giếng có bán kính nhỏ thì mỗi lần chỉ có một người xuống đào. Một tổ đào thường có năm người: trong khi một người đào thì một người theo sau xúc đất đổ vào rổ, ba người còn lại ở trên mặt đất – một người kéo rổ đất lên, một người mang tới nơi đổ, người còn lại có nhiệm vụ ngụy trang số đất vừa đào lên. Những nhiệm vụ này được các thành viên luân phiên thực hiện. Công đoạn quan trọng nhất trong hoạt động đào hầm thực sự diễn ra trên mặt đất – đó là che giấu số đất vừa đào lên. Bất cẩn trong công đoạn giấu đất có thể khiến kẻ thù nghi ngờ có hoạt động đào hầm ở gần đấy – dẫn tới một cuộc lục soát.
“Chúng tôi có nhiều cách giấu đất”, ông Nguyễn Thành Linh giải thích. “Cách phổ biến nhất là rải trên mặt đất rồi lấy lá cây phủ lên. Cách thứ hai là dùng đất lấp hố bom B-52. Đôi lúc chúng tôi lấy đất làm ụ mối nhân tạo, cao chừng một mét rưỡi”.
Sau khi đã đào đường hầm thông hai giếng khô lại với nhau, cái giếng thứ nhất sẽ được lập phía trên lại. Sau đó người ta đào tiếp một cái giếng thứ ba với cự li tương tự như hai giếng đầu. Khi giếng thứ ba được đào xong, người ở giếng thứ hai và ba sẽ đào đường hầm thông với nhau. Đến khi đường hầm thông, quy trình lặp lại với việc giếng thứ hai được lấp phía trên lại và người ta bắt đầu đào giếng khô thứ tư. Kỹ thuật này đòi hỏi việc đào và lấp hàng ngàn giếng khô, hết cái này đến cái kia, sau khi đường hầm nối chúng với nhau hoàn tất.
Sau một thời gian, có một vấn đề nảy sinh đó là đất trên bề mặt tại nơi những giếng khô được lấp lại sẽ lõm xuống. Quân cảnh giới bên phía kẻ thù có thể nhận ra rằng hiện tượng lõm xuống này xuất phát từ hoạt động đào hầm. Vì thế, bề mặt phía trên được kiểm tra thường xuyên và được khỏa thêm đất vào mỗi khi xuất hiện sụt lún.
Tốc độ đào hầm cũng thay đổi tùy thuộc vào mùa.
“Vào mùa khô, đất cứng rất khó đào, vì thế phải mất một ngày mới đào xong một cái giếng khô hoặc đào được đoạn địa đạo dài sáu mét”, ông Lâm cho hay. “Vào mùa mưa, tiến độ mỗi ngày có thể nhanh hơn, có thể hoàn tất việc đào hai giếng và nối chúng lại với nhau”.
Đường kính của địa đạo đã hoàn thành thường nhỏ tới mức hai người bò từ hai đầu hầm về phía nhau sẽ rất khó tránh nhau. Một người buộc phải nằm sấp trên nền hầm để người kia bò qua.
Trước khi đào giếng thứ nhất, người ta kiểm tra kỹ mặt đất. “Chúng tôi tìm những nơi tốt nhất để đặt cửa ra vào địa đạo”, ông Nguyễn Thành Linh giải thích. “Sau đó sẽ đến công đoạn đào tầng hầm thứ nhất, rồi sau đó đến tầng thứ hai, thứ ba”.
Cửa sập dẫn tới các địa đạo được ngụy trang rất kỹ. Cửa làm bằng gỗ, được che bằng bùn đất và lá khô ở phía ngoài. Lối ra vào địa đạo rất nhỏ, không chỉ để tránh bị phát hiện mà còn để khiến đối phương khó đột nhập một khi phát hiện ra.
Lối ra vào địa đạo không phải lúc nào cũng dẫn lên mặt đất. Một số địa đạo gần sông có lối ra ngầm dưới nước.
“Ra vào mấy địa đạo có cửa ngầm dưới nước rất khó”, Tướng Phụng cho biết. “Chúng tôi phải nín thở hơn một phút. Đi vào khó hơn đi ra, bởi khi đi vào thì anh phải mất thời gian lần tìm cửa hầm ở dưới nước. Cửa hầm dưới nước thường lớn hơn cửa trên cạn để cho dễ tìm. Những lối ra vào này được giữ bí mật nên rất ít người biết đến”.
Địa đạo cần có lỗ thông hơi để dẫn ôxy vào. Việc đặt ống thông hơi tùy thuộc vào độ sâu của hầm.
“Đối với tầng một và hai, lỗ thông hơi được đào từ dưới lên trên”, ông Lâm cho biết. “Xẻng hoặc cật tre được dùng để khơi lỗ thông hơi, sau đó người ta sử dụng một ống tre dài thọc vào lỗ, đẩy lên bề mặt. Khi làm ống thông hơi cho tầng thứ ba, chúng tôi chỉ cần để một thanh tre dài dựng đứng theo cái giếng cạn trước khi lấp phần trên của nó lại”.
Củ Chi là một khu vực tốt để đào địa đạo. Về mặt chính trị, vùng đất này được biết đến như là cứ địa cách mạng, nhưng có một nguyên nhân “sâu xa” hơn để nơi đây được chọn – đó chính là đất. “Kết cấu đất ở Củ Chi chắc, rất tốt cho việc đào hầm”, ông Lâm chia sẻ.
Tướng Phụng cho biết thêm: “Đó là loại đất thủng tổ ong với mực nước ngầm nằm ở độ sâu 25 mét. Đôi khi chúng tôi đào sâu 30 mét mới tới được nơi có nước ngầm”.
Có nhiều cách để chiếu sáng dưới lòng đất. Đèn dầu hỏa hoặc dầu diezel được dùng để thắp sáng ở khu vực hội họp. Nhiều đèn dầu sử dụng một loại chai rượu đặc trưng của Pháp vì kiểu chai này rất khó đổ. (Khi chính quyền Sài Gòn biết chuyện, họ đã cấm bán loại chai ấy). Những người đi lại dưới hầm ngầm thường dùng đèn pin hoặc nến. Tuy nhiên, rất nhiều khi thiếu phương tiện chiếu sáng, họ phải di chuyển hoàn toàn trong bóng tối.
Bất cứ khi nào có thể, những người thiết kế hầm ngầm luôn tìm cách tạo ra một số tiện nghi để giảm bớt việc phải đi ra ngoài. Mỗi một hệ thống hầm đều có nơi cung cấp nước. Để nấu nướng, họ làm bếp “không khói”. Loại bếp này có nhiều ống khói rất dài, được thiết kế đặc biệt để phân tán khói từ bếp lò ra xa, đến khi khói lên tới mặt đất thì hầu như đã tan hết. Dưới hầm có một số nơi đủ rộng để hội họp hoặc giải trí cơ bản. Một số hầm còn có phòng thí nghiệm chất nổ để phục vụ việc chế tạo mìn. Thêm vào đó, người ta còn nuôi gia cầm hoặc gia súc nhỏ.
“Cuộc sống dưới lòng đất an toàn và khá thoải mái”, Tướng Phụng nói. “Lúc không đánh nhau, chúng tôi thay phiên lên mặt đất tập thể dục. Đôi khi chúng tôi đem theo thú nuôi lên mặt đất để tập thể dục, cứ như thể chúng là con người vậy”.
Việt Cộng kiểm soát lòng đất ở Củ Chi, nhưng quyền kiểm soát mặt đất thì thay đổi tùy theo thời điểm trong ngày. Ban ngày, Mỹ và quân Việt Nam Cộng hòa kiểm soát; tuy nhiên, vào chiều muộn thì vai trò thay đổi. Lính Mỹ và quân miền Nam thường rút đi lúc 5 giờ chiều. Sau thời điểm ấy, du kích quân trồi lên từ lòng đất, trở thành những gã săn đêm.
“Ban ngày, phần lớn hoạt động của chúng tôi diễn ra dưới hầm”, Tướng Phụng kể. “Chúng tôi hội họp và nghỉ ngơi. Một vài nhóm đưa chất nổ lên mặt đất cài mìn. Nếu như chạm trán quân địch thì sẽ chiến đấu; nhưng thông thường chúng tôi không chủ động tấn công vào ban ngày”. Ban đêm là một câu chuyện khác.
“Khi màn đêm buông xuống, chúng tôi tấn công doanh trại địch”, Tướng Phụng kể tiếp. “Sở trường của chúng tôi là đánh đêm. Dù đối phương có máy bay thả pháo sáng cũng như có thiết bị quan sát hồng ngoại ở căn cứ của họ, nhưng những thứ đó không hiệu nghiệm khi đối phó với quân du kích”.
Quyết tâm của Việt Cộng – “chí thép” của họ - trong việc bảo vệ Củ Chi hiện lên qua lời giải thích của ông Lâm: “Chúng tôi biết quân địch luôn quyết tâm tìm và phá hủy hệ thống địa đạo. Họ, cũng như chúng tôi, biết rõ những gì diễn ra ở Củ Chi, cũng như diễn tiến của chiến tranh; địa đạo còn, chúng tôi sẽ thắng; địa đạo mất, người Mỹ sẽ thắng. Thế nên chúng tôi quyết tâm không để mất dù chỉ một phần địa đạo. Đó là một cuộc đua về ý chí mà hệ quả của nó là hàng loạt trận chiến kịch liệt. Chúng tôi đã hy sinh rất nhiều để giành thắng lợi”.
Du kích Củ Chi phải trả giá đắt cho chiến thắng. Ba mươi năm chiến đấu chống Pháp và Mỹ đã cướp đi 30.000 mạng sống. “Hơn tám mươi phần trăm con số đó chết dưới tay người Mỹ”, Tướng Phụng ước tính. “Chúng tôi rất tự hào khi đã hoàn thành sứ mệnh bằng quyết tâm và tinh thần mãnh liệt. Nhưng phải thừa nhận rằng chúng tôi đã phải trả giá đắt bằng máu của những chiến sĩ ở đây”.
__________________________________
1. Operation Crimp – Chiến dịch Nhử địch – được triển khai từ ngày 8 đến 14 tháng 1 năm 1966, khoảng 8.000 lính bộ binh và dù của Mỹ, Úc đã tấn công khu vực Củ Chi.
2. Big Red One – Số 1 lớn màu đỏ - là biệt danh của Sư đoàn 1 Lục quân Mỹ. Số 1 lớn màu đỏ ám chỉ phù hiệu có số 1 màu đỏ trên áo của quân nhân sư đoàn. Big Red One cũng thường được dịch là “Anh cả đỏ”.
1. Operation Cedar Falls diễn ra từ ngày 8 đến 26 tháng 1 năm 1967. Khoảng 30.000 quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã tiến đánh Củ Chi và các khu vực lân cận. Đây là một trong những chiến dịch mặt đất lớn nhất của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam.