- Dừng lại! Suối đây rồi! Tớ khát đắng cả lưỡi.
- Lại uống nữa hay sao? Chúng mình vừa nghỉ cách đây nửa giờ cơ mà!
- Mặt trời tai ác làm tao toát hết mồ hôi, phải để tao nhúng ướt đầu tóc cái đã.
Nha-phơ-rông đặt chân xuống đất rồi hạ chiếc xe đạp máy xuống cỏ, xong chạy ù xuống suối té nước lên đầu, lên mặt bằng thích thì thôi. Những đứa khác cũng làm theo. Nước mát lạnh, chỗ này lại có bóng cây, chẳng có gì phải chê nữa.
La Ghiơ, tay chơi kèn ác-mô-ni-ca vào loại chúa đề xuất:
- Chúng mình tranh thủ lúc này, ăn cái đã các cậu ạ.
Cậu ta lúc nào cũng thấy đói mà hễ đói thì chẳng được trò trống gì hết.
Nhưng sự dừng lại đột xuất này chỉ có con chó Ka-Phi tinh khôn của Ti-đu là thích thú nhất. Nó phởn phơ lội xuống suối rồi lên rũ lông rũ lá bắn nước tung tóe đầy bọn trẻ.
Cuộc pic-nic kết thúc; Bit-xtêck, tay đầu bếp của đoàn hỏi:
- Mô-bơ-rắc còn xa nữa không?
Ti-du giở bản đồ ra xem:
- Còn những ba lăm kilômét, còn lên dốc xuống dốc nhiều. Ít ra phải giờ rưỡi nữa mới đến.
Đây là lần đầu tiên những người "Bạn đồng hành" đến vùng Mát-xíp Xăng-tơ-ran (Massif Central hay còn gọi là Plateau Central (Cao nguyên trung phần) diện tích bằng 1/5 nước Pháp, địa thế từng lớp cao dần có nhiều ngọn núi có tiếng như Forez, Auvergne, Limoussin…). Đáng lẽ phải chuẩn bị tăng bạt nghỉ đêm như thường khi cắm trại thì lúc này họ lại thuê nhà trọ bình dân. Ma-đi là cô gái độc nhất trong đoàn được phân công đảm nhiệm việc đó.
Sau khi đã nghỉ ngơi mát mẻ và ăn xong, những người "Bạn đồng hành" lại nổ máy phóng đi, trong lúc đó con Ka-Phi cũng phốc kịp lên thùng đèo hàng sau xe gán máy của Ti-đu. Lúc này đã bốn giờ chiều, cái nóng đầu tháng tám thật gay gắt. Nắng xiên khoai rọi vào gáy, Ma-đi và Ti-đu phải buộc túm bốn góc chiếc mùi soa làm mũ, còn anh chàng Tông-đuy thì đáng lẽ giữ nguyên chiếc mũ nồi muôn thuở khi nào cũng nằm nguyên trên cái đầu trọc do một thứ bệnh hồi bé gây nên thì nay cậu đành phải cất đi để lộ cái sọ dừa nhẵn bóng, ánh lên dưới tia nắng mặt trời.
Ti-đu lăn bánh đầu tiên, dẫn đầu cả đoàn, bởi cái thùng rơ-moóc của cậu hơi nặng nên cậu phải điều tiết tốc độ chung. Thình lình cậu reo lên:
- Hồ nước kia rồi! Tớ vừa thoáng thấy!
Các bạn của cậu dấn ga làm cho máy nổ của các xe rú lên mãnh liệt.
- Hồ nước!
Lại đến lượt Nha-phơ-rông reo lên. Nhưng ngay sau đó cậu thấp giọng nói:
- Ồ! Mà nó gần cạn các cậu ạ! Tai hại chưa!
Tất cả đổ xuống một cái dốc dài thoai thoải, mười lăm phút sau đã có mặt trên hồ. Thực ra thì mức nước không còn cao như thường ngày, ít ra đã thấp hơn mười mét. Toàn bộ xung quanh đã trơ ra một giải đất trống màu vàng nhạt trông rất buồn tẻ.
Tông-đuy vừa xoa xoa cái đầu nhẵn thín nóng bừng vừa than thở:
- Chúng mình thật xúi quẩy! Đến phải “gút bai” bơi lội mất thôi!
Ma-đi có vẻ lạc quan hơn:
- Mưa một trận lại đầy ngay thôi. Ta đi tìm nhà nghỉ cái đã.
Họ leo lên làng Mô-bơ-rắc. Nhà cửa ở đây thấp lè tè lợp bằng loại ngói la mã như thời xưa. Một bà bán hàng thực phẩm chỉ cho họ đến nhà trọ Ca-bơ-rét cách thị trấn mấy bước chân.
Họ không cần phải gõ cửa. Nhà trọ vẫn mở.
- Này, có ai trong nhà không?
Một người đàn ông đứng tuổi, cũng chẳng rõ độ bao nhiêu, hiện ra trong phòng rộng, hơi tối do những tấm lá sách cửa được kéo xuống để che bớt nắng và che ruồi. Vợ của ông ta có vẻ trẻ hơn đứng sau ông. Ti-đu hỏi chủ nhà:
- Ông là ông Pu-giát phải không ạ?
- Đúng đấy!
- Chúng tôi từ Ly-ông đến bằng xe gắn máy muốn thuê nhà ông trong tháng tám này được không?
Người chủ trại gật đầu dẫn mọi người vào nhà mà không quên cả con Ka-Phi.
- Con chó đẹp quá! Của cô phải không?
- Vâng, nó là của anh bạn Ti-đu của chúng cháu - Ma-đi đáp - Anh ấy nuôi và dạy nó nhưng tất cả chúng cháu cũng đều chăm sóc. Ông yên tâm, nó được huấn luyện tốt, nó không cắn ông đâu, đừng sợ!
- Tôi yêu súc vật lắm - người đàn ông nói - Trước đây tôi cũng có một con béc-giê vùng Py-rê-nê để chăn cừu và bò cơ đấy. Bây giờ tôi chưa có con nào để thay nó; chó to thì đắt và nuôi dạy tốn kém lắm... còn những con chó cảnh thì chỉ phù hợp với sở thích của các bà thành phố thôi.
- Các cô, các cậu có muốn xem chỗ nghỉ không? - Người đàn bà hỏi - Tôi sẽ dẫn các cô cậu. Ở đây không khí mát lành chứ không ô nhiễm như ở Li-ông đâu; lại yên tĩnh nữa... Và sáng ra các cô các cậu còn được nghe thấy tiếng chim đánh thức nữa.
Bà dẫn những người "Bạn đồng hành" đến cuối trại, trong những gian phụ.
- Các cô các cậu coi, chồng tôi và tôi già rồi không còn đủ sức để nuôi bò, vắt sữa nữa. Chúng tôi chỉ còn có năm con cừu cái thôi. Bọn trẻ nhà tôi không kế tục cái công việc này... Chúng đã đi làm ở thành phố, ở Cơ-léc-mông Phe-răng. Vậy là chúng tôi đã cải tạo cái chuồng bò thành nhà trọ bình dân. Đây là phòng nghỉ, các cô các cậu có thể nấu nướng ở đó được, cái buồng lớn có hai giường đôi và cái buồng nhỏ có một giường con. Phòng tắm ở bên cạnh. Trong đó có gương sen... Không biết các cô các cậu sẽ sắp xếp như thế nào? Tôi báo cho các cô các cậu là chỉ có năm chỗ mà các cô các cậu lại có những sáu người.
Ti-đu đáp:
- Ông bà khỏi lo, chúng tôi có mang theo giường dã chiến, chúng tôi tự giải quyết lấy.
Nhà trọ khá sạch sẽ; cửa sổ có ri-đô. Cả đoàn tỏ ra hài lòng. Họ để quần áo, đồ đạc ở phòng nghỉ mà bà chủ trại gọi là "phòng ngoài".
Người chồng hồi nãy đến giờ vẫn đi theo, ông nói:
- Bây giờ các bạn trẻ hãy cụng ly với tôi. Ta uống với nhau chút ít để chúc mừng các bạn đã đến với gia đình tôi.
Những người "Bạn đồng hành" đã uống no ở suối nhưng họ nể lòng vợ chồng ông chủ trại nên không tiện từ chối. Họ uống thứ rượu vang bản địa chua loét, ê cả răng. Rồi câu chuyện giữa chủ và khách bắt đầu rôm rả.
Người đàn ông nói:
- Đúng là các bạn trẻ đã không gặp may. Có thể là năm nay tôi chỉ nhận có các bạn thôi. Các bạn thấy đấy, người ta đang rút cạn nước của hồ nhân tạo; chả là họ phát hiện có những vết nứt rạn trong đập; vì vậy mà không có câu cá, bơi lội gì cả... Nhưng các bạn có thể đi bộ, leo núi, dạo chơi. Ở nông thôn chẳng thiếu cách gì tiêu khiển. Rồi các bạn sẽ thấy, ở đây các bạn sẽ thích cho mà xem.
Nha-phơ-rông, Nha-phơ-rông "oắt con" như mọi người thường gọi vì cậu nhỏ con nhất trong bọn mặc dầu cậu cùng tuổi với họ, không thể không trề môi ra khi nghe nói như vậy. Là một tay bơi cự phách nên cậu ta chỉ nghĩ đến bơi lội và đi tắm thôi.
Ma-đi quan tâm đến cái đập, lên tiếng hỏi:
- Ở vị trí của hồ nước, ngày xưa là gì ạ?
- Trước kia dưới đáy hồ là một thung lũng, làng Mô-bơ-răc cũ ở ngay thung lũng đó.
- Thế cái đập này xây dựng từ năm nào?
- Đã được mười lăm năm rồi. Đây là lần đầu tiên người ta tháo cạn nước... Miễn cái đó có lợi. Việc hàn gắn tu bổ đáng lẽ làm từ năm ngoái cơ, cùng vào cái dịp này khi con sông Xê-unl chảy vào lưu vực gần như cạn nước nhưng đầu tháng tám thì ở đây bị những trận mưa dữ dội làm cho mực nước lại dâng cao. Ban quản lý đập đã quyết định hoãn tu sữa và mực nước hồ lại trở lại bình thường.
- Cái làng chìm dưới thung lũng có sao không ạ?
- Độ ba mươi nóc nhà phải dùng mìn phá đi, cả cái nhà thờ đạo nữa. Ôi! Thật xót xa khi thấy những tàn tích đổ nát sẽ trồi lên. Những người của làng Mô-bơ-răc cũ lấy làm đau lòng khi họ phải lìa bỏ nơi ở đời này qua đời khác của mình để dời đi nơi khác. Một người trong số họ, có thể nói là đã mất trí. Nước đã dâng lên nhưng anh ta vẫn nấp trong một chỗ đổ nát. May mà những người thợ bơm xả nước đã cứu anh ta thoát chết. Người ta đặt cho anh ta cái tên là Găm-ba-đu (Từ chữ Gambader là nhảy nhót, mà ra. ND.), bởi vì anh ta có cái tật đi cà nhắc, vừa đi vừa nhảy. Anh sống cô đơn trong một lán nhỏ tự tay anh làm lấy… Thế nào rồi các bạn cũng có dịp gặp anh ta, dễ nhận ra thôi mà. Từ khi có những biến cố đó râu ria anh không thèm cạo nữa, cứ đễ bù xù, lòa xòa trông đến kỳ quặc.
Bà vợ nói thêm:
- Người ta nói chú thím của anh nuôi anh từ tấm bé; họ giàu lắm. Trước khi xả nước vào hồ một thời gian, họ bị mất trộm rất lớn. Chú thím của anh ta chết trong một tai nạn ô tô trước một tuần khi có lệnh rời làng. Như vậy đấy, các cô cậu xem khi xây cái đập này cũng có một số phải chịu thảm hoạ.
Ông chủ trại nhấc chai rượu vang định rót thêm vào các cốc nhưng những người "Bạn đồng hành" từ chối. Họ xin phép đứng lên, viện cớ đi sắp xếp đồ đạc và mua thức ăn tối bởi vì thức ăn đã hết dọc đường.
Khi bọn trẻ chỉ có một mình với nhau, Nha-phơ-rông phàn nàn:
- Chúng mình rồi sẽ buồn như chuột chết. Bây giờ mình mới hiểu vì sao tiền thuê nhà ở đây lại rẻ đến thế. Chỉ có chúng mình là những thằng ngu mới đâm đầu vào rọ...
Tông-đuy nói thêm:
- Mà chúng ta còn đi đâu được nữa cơ chứ trong khi chúng ta chỉ có hai cái giường dã chiến mà tăng bạt cũng chẳng có nữa.
- Ôi dào! Bà chủ trại, bà ấy đã nói có lý - Ma-đi nói - Ở đây ít ra chúng ta cũng có dịp để cho các lá phổi hoạt động dễ dàng hơn.
Sự bố trí sắp xếp chẳng có gì phức tạp. Ma-đi ngủ ở buồng nhỏ vốn là gian để đồ trước đây. La Ghiơ và Bít-xtêck nằm chung một giường đôi, còn một giường đôi nữa thì Tông-đuy và Nha-phơ-rông. Ti-đu thì ngủ trên chiếc giường dã chiến gần con chó của cậu.
Khi họ rời trại Ca-bơ-rét thì đã bảy giờ tối. Cuộc dạo của họ quanh làng rất nhanh. Chỉ có độc một cửa hàng thực phẩm nên chẳng còn đâu nữa mà chọn. Bít-xtếck sắp bước vào thì Ma-đi lại nhìn thấy tấm biển hàng cửa một quán ăn kiêm nhà trọ ở góc đường phía bên kia: 'Tiệm ăn bờ hồ". Cô nói:
- Cậu đã mệt rồi, tội gì mà phải lăn vào bếp. Nếu các món ăn không đến nỗi đắt thì chúng mình cứ ăn ở quán cho rồi. Chúng mình còn nhiều tiền, bởi vì chúng mình đã lao động cả tháng bảy cơ mà.
Họ đến gần quán ăn, nhìn vào tấm gỗ dán quảng cáo có vẽ một người đầu bếp chỉ tay vào các món ăn trong ngày. Tông-đuy nói:
- Thực ra thì chẳng đắt, ta có thể ăn được đấy! Mình thích món khoai tây rán, phải ăn cho đã đời mới được.
La Ghiơ mỉm cười:
- Với cái giá đó thì mình tin thế nào cậu cũng bội thực cho mà xem...
- Thôi ta vào đi!
Họ đẩy cửa. Một người đàn bà còn trẻ chào đón họ:
- Các cô cậu dùng bữa tối chứ?
- Cho sáu suất!
Phòng ăn khá rộng, đủ cho bốn mươi chỗ mà chỉ lèo tèo có hai ông khách đang ngồi ở một bàn gần cửa sổ.
Nha-phơ-rông nói to với Ma-đi:
- Khách ăn ít nhỉ?
Bà chủ quán nghe thấy, vội đáp:
- Đấy là vì hồ cạn nước, chứ những năm trước thì đông quá, không còn chỗ, đến nỗi chúng tôi không phục vụ kịp. Các cô cậu đinh ngồi ở đâu nào? Ở đây nhé? Cái bàn này rộng, thoải mái đấy!
Rồi bà nói thêm:
- Các cô các cậu ghé qua hay định nghỉ lại lâu?
- Chúng tôi trọ ở nhà trọ bình dân, ở trại ông Pu-giát.
- Ra vậy, quán Ca-bờ-rét! Nếu các cô cậu định dùng cơm thường xuyên ở tiệm đây, tôi sẽ tính giá phải chăng... các cô cậu cứ suy nghĩ đi.
- Đúng vậy, để chúng tôi nghĩ xem - Ti-đu trả lời.
Bọn trẻ ngồi vào chiếc bàn rộng. Hai ông khách kia vẫn còn chờ thức ăn. Họ trạc bốn mươi trông có vẻ rầu rĩ.
La Ghiơ nhận xét:
- Nếu họ trọ đây để nghỉ hè thì có gì là vui thú? Chỉ có việc đi câu mà cấm là hết.
- Theo mình nghĩ thì đây là hai kỹ sư theo dõi mực nước hồ. Ma-đi nói.
- Chắc không phải, - Tông-đuy bác lại - Kỹ sư thì họ phải ở trạm thủy văn dưới chân đập ấy chứ.
Suốt bữa ăn những người "Bạn đồng hành" chỉ có đoán vui với nhau về nghề nghiệp của hai người không quen biết đó và tại sao họ lại ở đây một mình trong cái xứ sở hẻo lánh này, chẳng có gia đình vợ con gì cả; nếu không có cái hồ thì chẳng có gì là quyến rũ đối với họ.
Ăn xong, hai người khách lên phòng, Ma-đi bèn hỏi bà chủ tiệm ăn là những ông kia có phải là khách du lịch qua đây hay là khách trọ thường xuyên. Bà chủ tiệm ăn trả lời:
- Khách trọ thường xuyên. Họ đến đây từ năm ngoái khi người ta định bắt đầu tháo nước hồ. Họ ở đây mười lăm ngày. Năm nay họ định ở lại lâu. Đó là mấy ông địa chất. Tôi cho là họ có công việc liên quan đến cái hồ, đến mực nước cạn, đến cái làng chìm ở dưới đáy hồ.
La Ghiơ nói:
- Ma-đi này, cậu xem đây, có chuyện gì là bí ẩn đâu. Tớ đánh cuộc là cậu hay nghĩ ra hàng lô hàng lốc những chuyện không đâu vào đâu.
Đáng lẽ ăn xong là về ngay thì bọn trẻ lại nán lại ở quán ăn. Tông-đuy đặc biệt phấn chấn. Cậu đã ngốn hết đĩa khoai rán mà bà chủ đã tiếp thêm đồng thời cũng hào phóng đến mức cho con Ka-Phi cả một đĩa xúp.
Khi họ ra khỏi tiệm ăn đi về nhà trọ Ca-bơ-rét thì trời đã tối mịt. Đi đến những ngôi nhà cuối cùng trong làng thì con Ka-Phi gầm gừ. Họ giáp mặt với một người đàn ông râu tóc bù xù, má và cằm bị che lấp bởi bộ râu rậm và dài. Người lạ mặt lắp bắp điều gì đó rất khó hiểu, có thể là những lời chửi đổng và giơ một chiếc gậy lên doạ. Ti-du phải ghìm con chó sắp lao vào người đó để bảo vệ những người chủ của nó. Thế là người đàn ông lủi ngay vào bóng tối. Bọn trẻ còn nghe được bước chân lật bật của người đó trên nền đường.
- Chắc là Găm-ba-đu mà ông Pu-giát đã kể chuyện - Ma-đi nói - Giá như chỉ có một mình tớ thì tớ đã chết khiếp. Mong rằng chúng ta đã không thường xuyên gặp phải con người đó!
Cô kéo các bạn đi nhanh hơn. Về đến nhà trọ thì bà Pu-giát đã chuẩn bị sẵn giường chiếu cho họ. Nha-phơ-rông "oắt con" kêu lên:
- Ngủ trên vải cơ à? Hãy nghe mình đây: Chúng ta đã tư sản hoá! Lần sau nhất định chúng ta phải nghỉ ở palátxơ (Palace - khách sạn cao cấp. ND.).
Trong lúc này không ai ngủ được nhất là Ma-đi trong gian buồng để đồ đạc. Nhạy cảm trước thiên nhiên (như tất cả bọn con gái mà La Ghiơ nhận xét) cô bé suy nghĩ về những khách trọ ở tiệm ăn. Bà chủ quán đã nói về những nhà địa chất. Lời nói đó có vè còn mập mờ, chưa rõ. Vì lợi ích gì mà họ lại đến sớm trước khi nước hồ rút cạn? Phải chăng họ có ý định nghiên cứu đất đai còn ngập nước? Rồi cô lại tự chế giễu mình:
“Ta quả là điên! La Ghiơ đã có lý. Ở đâu ta cũng cho là bí hiểm cả. Tốt nhất là hãy cứ ngủ đi!”
Cô nằm sấp, vùi đầu vào gối như cô đang tìm cách ẩn náu. Ẩn náu cái gì?... Một mối nguy hiểm ư?