Sáng hôm sau, Alice đã không ngớt lời cằn nhằn khi tôi rung chuông gọi cô ấy. Tôi không biết việc nào khiến cô ấy bực bội nhiều hơn: dạo bờ biển lúc nửa đêm hay dại dột rung chuông gọi cô ấy khi trở về. Cô ấy làu bàu về đôi giày và vạt áo dính đầy cát của tôi. Và khi lôi nắm vỏ sò ra khỏi túi áo choàng, cô ấy lại ném cho tôi một ánh nhìn tức giận, nói:
– Chỉ tới đây thôi nhé, tiểu thư. Cô không được làm thế nữa. Nhất là vào đêm trăng tròn.
Tôi – lúc ấy đang đứng nghe tiếng chim hót bên bậu cửa – xoay lại thắc mắc:
– Vì sao lại không được đi vào đêm trăng tròn?
Alice lắc lắc đầu, nom như muốn phát cáu với tôi lắm rồi. Cuối cùng, cô vẫn đáp:
– Vì hoạt động buôn lậu thường diễn ra trên bờ biển, thưa cô! Nhất là vào đêm trăng tròn.
Tôi phấn khích nhảy chồm tới, suýt ngã lăn ra sàn:
– Hoạt động buôn lậu thật sự vẫn còn diễn ra ở đây ư?
Sự hối hận dâng lên trong mắt Alice. Cô ấy lập tức xoay đi, cầm đôi giày của tôi trên tay và lẩm nhẩm gì đó về việc cần rửa sạch cát cho nó. Sau đó cô ấy ra khỏi phòng. Giá tôi đừng tỏ ra quá tò mò! Biết đâu cô ấy đã kể thêm cho tôi về những bí mật ở vịnh Robin Hood. Hy vọng, nếu tôi chịu nhẫn nại, cơ hội của tôi sẽ không hoàn toàn bị vuột mất.
Nhưng sự nhẫn nại không đến với tôi dễ dàng chút nào, yếu điểm ấy càng thể hiện rõ hơn khi tôi phải chờ đợi tín hiệu cho lời cầu hôn của Henry. Tôi đã đồng ý rằng sẽ không cố thúc giục anh ấy. Nhưng phu nhân Delafield cứ liên tục trừng mắt nhìn tôi mỗi khi liếc qua đây, Sylvia vẫn không chịu nói với tôi một lời nào từ sau cái đêm tôi cố tán tỉnh ngài Brandon của bạn ấy. Và cứ nhìn cách cô tiểu thư St. Claire bám dính lấy cánh tay Henry là tôi lại phát ốm lên. Tôi phải rời khỏi đây. Càng sớm càng tốt.
Suốt cả bữa điểm tâm, tôi chăm chú nhìn Henry trong lúc St. Claire mải mê cảm thán thời tiết u ám và mưa lâm râm khiến cô ta không thể đến vịnh Robin Hood dạo chơi như ý muốn. Brandon cũng tỏ ra thích thú với những tiếng chim trên đồi cỏ hôm nọ. Song chim chóc không phải chủ đề mà tôi muốn chia sẻ cùng anh ta.
Henry không nhìn tôi một lần nào cả, trong một phút hoang mang, tôi tự họi liệu có phải mình đã tưởng tượng ra tất cả mọi chuyện tối qua. Hoặc giả anh đã đổi ý và không còn muốn giúp tôi nữa. Nhưng khi đứng dậy chuẩn bị cáo lỗi Brandon để ra ngoài, tôi bỗng nhận ra Henry cũng đứng dậy theo đến cửa. Nghe thấy anh khẽ gọi tên mình, tôi xoay người ngừng lại, thắc mắc không hiểu anh định làm gì.
– Của em đánh rơi này. – Anh nói, đưa cho tôi một chiếc khăn tay mà tôi dám cam đoan không phải mình làm rớt.
Dù vậy, tôi vẫn cảm ơn anh và nhận lấy chiếc khăn tay. Anh vòng trở lại bàn ăn. St. Claire bắn cho tôi một cái nhìn kỳ quái. Tôi nhét khăn vào túi áo rồi rảo bước ra ngoài. Sau khi rẽ ngoặt hai lần, tôi tìm được một căn phòng trống và lẻn ngay vào đó. Đó là một thư viện, vào giờ này buổi sáng, không ai đến thư viện cả. Tôi đứng xoay lưng về phía cửa, cẩn thận mở chiếc khăn tay bị gập lại ra. Bên trong có một mẩu giấy cũng được gấp lại cẩn thận. Vừa mở mẩu giấy, tôi nhận ra ngay nét chữ ngay ngắn của Henry.
Gặp anh trước lối đi bí mật lúc nửa đêm.
Suốt cả ngày, tôi sục sạo khắp các căn phòng và hành lang hòng tìm ra bất cứ dấu hiệu nào của lối đi bí mật. Blackmoore quả là một biệt thự khổng lồ. Có một lần tôi chạm mặt Henry ở sảnh phía Đông. Anh dừng lại một lúc, mỉm cười và hỏi:
– Em đã tìm ra chưa?
– Vẫn chưa! – Tôi khẽ đáp. – Hay anh cứ chỉ luôn cho em đi!
Anh lắc lắc đầu bằng vẻ kiên định thường trực và nụ cười ranh mãnh.
– Kate, em đã quấy rầy anh hàng năm trời vì chuyện này. Giờ em phải tự tìm thôi.
Khi anh toan cất bước, tôi vội nói:
– Vậy hãy cho em một gợi ý đi.
Anh ngoảnh đi, lúc tôi đinh ninh anh sẽ lờ đi yêu cầu đó thì vào những giây cuối trước khi rẽ khỏi hành lang, anh lại cất tiếng:
– Nó nằm sau một bức tranh.
Có hàng trăm bức tranh trong Blackmoore này. Tôi lần tìm trong từng căn phòng và từng dãy hành lang ở hai tầng trên cùng của chái đông và chái tây. Số phòng còn lại ở chái tây rõ ràng là đã không được sử dụng khá lâu rồi. Đồ đạc đều được phủ vải che kín, không khí lẫn đầy bụi bẩn.
Tôi không dày mặt đến mức có thể lẻn vào những căn phòng khác ở chái đông. Lẽ hiển nhiên Henry cũng sẽ không cho tôi một nhiệm vụ mà phải xâm phạm sự riêng tư của người khác để hoàn thành như vậy.
Sau vài giờ tìm kiếm tỉ mỉ, tôi đi đến kết luận rằng không có bất kỳ lối đi bí mật nào ở tầng trên của căn biệt thự cả.
Sau đó, vì đã đến giờ ăn tối, tôi vội vàng trở về thay quần áo và nhờ Alice búi tóc cho chỉnh tề. Bữa tối kéo dài rõ lâu và nhờ vào sự sắp xếp của phu nhân Delafield tôi chẳng ngồi cạnh một ai thú vị cả. Khi các quý bà quý cô lục tục kéo ra khỏi phòng ăn, tôi cố nán lại ở nhóm sau cùng, mọi người đều rẽ sang trái để đến phòng khách, còn tôi rẽ phải và lủi vào sau cánh cửa thư viện. Trong đó treo rất nhiều tranh, vả lại tôi vẫn chưa có cơ hội nào để kiểm tra kỹ tất cả các phòng ở tầng trệt.
Tuy nhiên, thư viện vẫn chỉ đem đến cho tôi sự thất vọng, cũng như đại sảnh và dãy hành lang dẫn ra hai bên của nó vậy. Chỉ còn lại một căn phòng duy nhất: phòng nhạc phụ. Phòng chim.
Tôi dừng lại trước khung tranh treo trên bức tường ốp ván đen. Chăm chú nhìn nó và thầm ngạc nhiên là mình đã không hề chú ý đến nó trước đây. Ắt hẳn chú chim và cây đàn đã thu hút mọi sự chú ý, khiến tôi vô tình bỏ qua tác phẩm nghệ thuật này.
Đó là Icarus. Vừa nhìn thấy tôi liền nhận ra ngay. Cha chàng đang buộc đôi cánh mà ông đã làm ra cho chàng và chỉ tay lên trời, mắt nhìn nghiêm túc, như muốn cảnh báo chàng không được bay quá cao. Một bức trang gốc tuyệt đẹp, của Anthony Van Dyck, theo như tên được ký bên góc tranh.
Tôi chạm vào khung tranh và lần đầu tiên trong cả ngày hôm nay, cảm nhận được sự tĩnh lặng. Bỗng khung tranh đột nhiên chuyển động, bức tường xoay ra, hé lộ một lối đi bí mật.