Tôi bị đánh thức bởi tiếng chim hót. Phòng trong vẫn tối om om. Lúc ngủ trằn trọc, chăn đắp đã quấn vào chân tôi tạo thành một tổ kén màu mận chín tự bao giờ. Tôi co chân đạp nó ra, rùng mình chạy vọt qua sàn gỗ lạnh cóng, rồi kéo phăng tấm rèm và mở toang cửa sổ.
Sương mờ giăng phủ che kín tầm nhìn, bao bọc mặt đất như tấm rèm tơ. Mặt trời vẫn chưa mọc, nhưng đã có dấu hiệu cho thấy nó sắp sửa nhô lên – ấy là bầu trời hửng sáng nơi đằng đồng, và tiếng chim trời hót gọi ban mai. Tôi nhắm mắt lắng nghe những âm thanh quen thuộc, có tiếng chim sáo, chim én, chiền chiện, chim sẻ, chim hét, và cả kim yến. Song điệu nhạc của lũ chú chim sinh trưởng vùng ven biển này khác hẳn so với lũ chim sống gần nhà tôi.
Tôi thụt đầu vào trong, khép cửa sổ lại rồi lập tức thay đồ. Giục giã bản thân phải nhanh hơn nữa, trước khi mặt trời kịp nhô cao và lũ chim thôi hót. Tròng vội chiếc áo ấm nhất của mình, tôi chẳng thèm bận tậm đến đầu tóc rối bù mà vội vội vàng vàng xỏ chân vào giày, vừa nhảy lò dò qua hành lang vừa cúi người kéo mạnh từng chiếc vào chân. Đoạn, tôi chạy như bay xuống cầu thang, chẳng thiết cẩn thận tìm đi lối cửa sau mà cứ băng thẳng qua đại sảnh rồi xông ra ngoài bằng cửa lớn.
Sương sớm ôm trọn lấy tôi bằng những ngón tay ẩm ướt và giá lạnh của mình. Tôi đi theo hướng tây, hướng đi ra đồi cỏ vì biết rằng ngôi biệt thự được đại dương bao bọc phần phía đông. Tuy mặt đất phủ sương trắng xóa, nhưng khi nghe thấy tiếng cỏ khô kêu lạo xạo dưới chân, tôi biết rằng mình đã đến đúng chỗ.
Giữa màn sương hiện ra một tảng đá lớn, tôi bèn đến gần nó. Bầu trời rạng sáng trong vắt không một gợn mây. Những bụi dương xỉ và thạch nam ướt nhẫy sương quẹt vào váy tôi. Xa xa ngoài bãi cỏ có tiếng ngựa hí vang. Dẫu vậy, tôi vẫn nghe rõ mồn một tiếng chim hót.
Đến trước tảng đá, tôi dừng lại một chốc để tìm đường leo lên. Nó lớn hơn nhiều so với tôi tưởng khi vừa nhác thấy từ đằng xa, sừng sững như một tòa lâu đài lởm chởm bị gió lạnh mài mòn mà phải ngả hẳn đầu ra sau tôi mới thấy được chóp. Sau hai lần trơn trượt và cố sức bấu víu bằng cả hai tay, cuối cùng tôi cũng trèo lên tận đỉnh. Ngồi xuống nghỉ một lát, tôi khoanh tay trước ngực, hít đầy một buồng khí lạnh, dõi mắt nhìn màn sương đang tan dần và lắng nghe tiếng chim hót quanh tai, lảnh lót, líu lo, rù rì, thánh thót, chiêm chiếp, véo von. Song, tôi lại chẳng biết gì về chúng.
Giữa đồi cỏ mênh mông, trên đỉnh cao vời vợi, bao quanh là vùng đất xa xăm, tiếng chim lạ lẫm, tôi chợt thấy mình nhỏ bé xiết bao. Hay phải nói, những điều tôi chưa biết, chưa trải nghiệm và nhìn thấy thật bao la rộng lớn. Tôi sợ hãi nhận ra hiểu biết hạn hẹp của mình trước thế gian. Sợ hãi nhận ra mình chẳng thể làm gì để hoàn thành giao ước. Chẳng có cho mình một kế hoạch giành giật tự do mà nếu không, thế giới của tôi cũng chỉ là hạt bụi nhỏ bé như này thôi.
Quầng hồng đã nhô cao báo hiệu chẳng mấy mặt trời sẽ mọc. Sương mờ sẽ nhanh chóng bốc hơi, trả lại cho mặt đất những đường nét rõ ràng sống động. Song tương lai mờ mịt phía trước của tôi sẽ hiện được bao phần? Con đường đến cuộc sống mới cùng cô Charlotte ở Ấn Độ sẽ rõ được mấy phân?
Henry nói rằng cuộc đời luôn có nhiều hơn một lựa chọn. Nhưng tôi đã trót buộc mình vào mẹ, tự thò đầu vào một bản giao ước chẳng có chút phần thắng nào cả trên lý thuyết lẫn thực tế. Không tìm ra được ba người đàn ông nào chịu cầu hôn mình, tôi sẽ hoàn toàn lọt vào vòng khống chế của mẹ. Nhắm nghiền hai mắt, tôi ước sao mình có thể trở ngược về thời điểm đó để thay đổi bản giao ước kia. Cớ gì tôi lại chấp nhận một thỏa thuận để ngỏ như vậy? Bởi tôi không lường trước thất bại ư? Cho nên bây giờ chỉ còn biết chùng lòng nghĩ đến viễn cảnh khi mẹ biết tôi thua.
Một vài khả năng lướt qua trong óc. Bà sẽ ép tôi lấy lão Cooper? Gửi tôi đến Luân Đôn sống chung với Eleanor để chăm sóc các con chị ấy? Hay tệ hơn nữa là mưu đồ những trò hèn hạ như đã làm với Eleanor ở Brighton? Tôi rùng mình tởm lợm bởi những ý tưởng có thể nảy ra trong đầu bà. Đối với bà ấy, chủ nghĩa cơ hội vốn không biên giới, rào cản đạo đức chẳng nghĩ lý gì.
Chợt nghe có tiếng sáo văng vẳng. Tôi lập tức ngẩng đầu dỏng tai lên. Đúng là tiếng ca tươi vui của loài chim sáo. Một nụ cười khẽ lướt qua môi, tôi khum hai tay trước miệng và bắt chước huýt theo. Một giây sau, tiếng sáo ấy lại cất lên lần nữa. Vừa không ngừng huýt sáo đáp trả, tôi vừa đăm đăm nhìn màn sương mờ tìm kiếm hình bóng của Henry, song chẳng thấy anh đâu. Sau một quãng thời gian chờ đợi kéo dài, tôi rầu rĩ nhận ra, tiếng sáo ấy thật sự là tiếng hót của một chú chim.
Tôi thở dài chống tay ra sau và ngước nhìn bầu trời quang đãng. Bỗng có một tia sáng chợt lóe qua đầu. Một gợi ý thì đúng hơn. Cảm giác như nếu tôi chịu bỏ công suy nghĩ, nó sẽ mở ra cho tôi cách giải quyết mọi vấn đề.
Tôi dạo lại cuộc nói chuyện với mẹ hôm đó thêm lần nữa. Bà bắt tôi kết hôn, còn tôi khăng khăng từ chối. Tôi vẫn nhớ mình đã hét lên với bà, hỏi rằng phải từ chối bao nhiêu lời cầu hôn nữa thì bà mới chịu tin rằng tôi thật sự không muốn lấy chồng. Ba. Tôi ngồi thẳng dậy, tự hỏi đó có chính xác là những lời mình đã nói? Cẩn thận nhẩm lại đoạn đối thoại hẵng còn hằn sâu trong ký ức. Nó quan trọng nhường ấy – tôi tuyệt đối sẽ không nhớ nhầm. Đúng. Chính xác là thế. Khi tôi hỏi về những lời cầu hôn. Mẹ đã cho tôi con số ba. Nghĩa là tôi không cần phải thuyết phục ba người đàn ông, mà chỉ cần nhận được ba lời cầu hôn mà thôi.
Niềm hy vọng và nhẹ nhõm tức khắc cuộn vào tâm trí, hệt như sự tự do bừng sáng lúc chú chim lông đen sải cánh khỏi lồng giam. Tôi chỉ cần một người chịu cầu hôn mình ba lần, một người thân thiết sẵn sàng trao cho tôi đặc ân ấy. Nụ cười thư thái liền lướt qua môi.
Song niềm vui sướng chưa kịp bay cao đã lại ngã nhào xuống đất. Trái tim bỗng nhói lên nỗi đau khôn tả. Tôi làm được thật sao? Bảo Henry cầu hôn mình? Cho dẫu anh thực sự đồng ý, liệu tôi có chịu nổi khi nghe anh tận miệng thốt lên những lời mình hằng mơ ước, để rồi dối lòng từ chối?
Nỗi sợ hãi cuộn tràn vào tim hòng giật phăng cánh cửa tôi đã khóa kín bấy lâu. Tôi dùng một tay giữ gọn mái tóc đang bị gió cuốn bay rồi chống tay kia lên trán. Trong kế hoạch này vẫn tồn tại rủi ro, không phải về phía Henry – anh đã có sẵn con đường phía trước. Tiểu thư Sc, Blackmoore và nguồn thu từ điền trang sẽ cho anh sống đời dư dả và được trọng nể. Anh sẽ không mất gì khi ban cho tôi ân huệ ấy. Nhưng, đúng vậy, người có nguy cơ bị tổn thương chính là tôi.
Tôi ngẩng đầu cố tống khứ suy nghĩ ấy đi trước khi nó kịp cắm rễ vào tâm trí. Đó là lối thoát duy nhất, là đáp án cho mọi vấn đề của tôi. Không gì tồi tệ xảy ra đâu.Trái tim sẽ không suy suyển chút nào đâu. Một năm rưỡi trước, nó đã được khóa giữ an toàn và luôn thực thi chính xác những gì tôi mong muốn từ bấy đến nay. Dẫu có giáp mặt hằng ngày với Henry trong suốt mười tám tháng ấy, quyết tâm trong lòng tôi cũng chưa hề bị dao động.
Chưa một lần tôi nghi ngờ hay cố huyễn hoặc bản thân lờ đi quyết tâm ấy – cả trong ý nghĩ, lời nói lẫn hành động. Bây giờ chỉ còn phải nhờ Henry cầu hôn tôi ba lần. Anh nhất định sẽ nhận lời, và tôi sẽ có giấc mơ Ấn Độ của mình.
Niềm phấn khích đột ngột dâng tràn tựa muốn nhấc tôi lên bằng cảm giác lâng lâng bay bổng. Tôi bèn đứng dậy tìm đường đi xuống nhưng đột ngột bị sẩy chân khiến tay cà mạnh vào mặt đất. Cả người phăng phăng trượt xuống.
Ngay lúc quờ tay tìm được chỗ bấu lại, đu đưa thân mình vắt vẻo giữa lưng chừng, tôi bỗng nghe thấy tiếng bước chân huỳnh huỵch. Ngoái đầu qua vai nhìn xuống bên dưới, thấy mình chẳng còn cách mặt đất bao xa, tôi bèn thả tay nhảy xuống rồi tươi cười xoay lại.
Anh chàng Brandon trẻ tuổi đang đứng cách tôi chừng một mét với vẻ thảng thốt phủ kín gương mặt.
“Ối!” Tôi giật thót tim, nhất thời quên cả cách nói năng.
“Cừ thật!” Khóe môi anh ta chậm rãi dãn ra nụ cười, mắt lấp lánh niềm ngưỡng mộ. “Thế mà tôi còn định chạy đến đỡ cô cơ đấy, thừa thãi quá nhỉ?”
Thì ra tiếng bước chân lúc nãy là của anh ta.
“À, vâng…” Tôi lúng túng đáp, day day trán tự hỏi liệu có thô lỗ không nếu cứ thế bỏ đi. Nhưng nom như anh ta đang đợi một lời giải thích. Nên tôi đành nhún vai hờ hững. “Tôi thường xuyên trèo cửa sổ.”
Nụ cười rạng rỡ của Brandon quá dễ tiêm nhiễm, nó khiến người khác choáng váng sây sẩm, đặc biệt là khi những tia nắng mặt trời rọi xuyên màn sương, sáng lóa trên mái tóc vàng ươm của anh ta.
“Thật á?” Anh ta hỏi, chân bước lại gần tôi.
Tôi vén mái tóc rối của mình ra sau, ngẫm lại quá trình đi thẳng từ giường ngủ ra đây, suy đoán mức độ tả tơi của mái tóc và dáng vẻ nhếch nhác luộm thuộm của bản thân, nếu không nói là tệ hơn.
Song, từ đôi mắt như màu xanh cây cỏ chung quanh của anh chàng Brandon trẻ tuổi này, tôi vẫn thấy vẻ thích thú chưa phai. Nụ cười của anh ta tựa tia nắng ấm áp soi rọi lên tôi.
“Thế, vì sao cô lại ưa trèo cửa sổ vậy, tiểu thư Worthington?”
Tôi thấy má mình nóng bừng lên. Sực nhớ lại những lời của Sylvia đêm hôm trước – rằng tất thảy mọi người đều đánh giá tôi bằng danh tiếng chẳng mấy tốt đẹp của gia đình, nhớ lại cái khảy cười khinh nhạo khi tôi tỏ bày muốn được cầu hôn. Tôi tự nhận mình chưa từng gây ra chuyện gì đáng bị phỉ báng, thế mà hôm nay lại hành xử một cách buông thả không phải phép như này.
Đương lúc rối rắm cùng cực, bỗng tôi vỡ lẽ ra một sự cứu rỗi rành rành. Nếu đã tìm được con đường tương lai bằng sự giúp đỡ của Henry, tôi chắc chắn có thể thoát khỏi đây và lên đường đi Ấn Độ, như vậy tôi sẽ chẳng bao giờ chạm mặt anh chàng Brandon hay cha anh ta lần nữa. Đến lúc đó, tôi sẽ chẳng cần phải mang mặc cảm vì cái họ Worthington của mình. Những điều tiếng không hay về các chị em gái cũng chẳng thể vượt qua đại dương xa xôi để ảnh hưởng đến tôi. Và tôi sẽ không phải mồi chài bất cứ gã đàn ông nào nữa.
Nghĩ đến sự tự do ấy, tôi không khỏi sung sướng cười nhẹ nhõm. Xét thấy chẳng cần thiết quan tâm anh Brandon này nghĩ gì về mình, tôi thành thật trả lời.
“Thi thoảng tôi thấy mình cần chạy trốn.”
Đôi mày anh ta nhướng lên. “Vậy ra cửa sổ là lựa chọn chạy trốn của cô? Lẽ nào cửa lớn không đáp ứng được yêu cầu đó?”
Môi tôi cong lên một nụ cười trầm lắng. “Đôi khi cửa sổ là hành trình phiêu lưu duy nhất dành cho một quý cô, anh Brandon ạ.”
Anh ta lại tiến sát tới tôi đến độ có thể nom rõ đám râu mọc lún phún hai bên má. Phải thừa nhận anh ta rất điển trai, vô cùng điển trai là khác.
“Cô thú vị thật đấy.”
Từ đáy mắt anh ta, tôi cũng đọc được điều tương tự bởi ánh mắt ấy cứ đăm đăm dán vào tôi bằng cái nhìn nóng bỏng khiến tôi đâm ra ngượng ngùng lúng túng và bắt đầu lo lắng cho vẻ ngoài xộc xệch của mình.
“Vậy ra cô là một tín đồ phiêu lưu? Phải chăng đấy là lý do kéo cô ra ngoài này lúc tinh mơ sáng?”
“Không thú vị thế đâu.” Tôi mỉm cười đáp. “Tôi chẳng qua đi theo tiếng chim hót thôi. Tiếng chim ở đây khác hẳn tiếng chim ở Lancashire.”
“Ra vậy.” Anh ta vẫn chằm chằm nhìn tôi như thể nhìn một sinh vật lạ lần đầu được thấy. Tôi tự hỏi tóc tai mình thế nào rồi nhỉ? Đoạn cố vuốt nó khỏi mặt trong khi gió mạnh cứ thốc ngược lại, tán cả vào tóc lẫn váy tôi, rung rung mấy cây thạch nam và khiến những ngọn cỏ dài nhấp nhô uốn lượn tựa sóng biển. Khẽ xoay lưng về phía Brandon, đưa mắt nhìn về hướng mà tôi đoan chắc là nơi căn biệt thự tọa lạc, tôi khách sáo lên tiếng, “Tôi nên quay về thì hơn. Nếu anh thứ lỗi…”
“Không, tôi không thứ lỗi đâu.”
Tôi sững sờ nhìn anh ta trân trối. “Sao cơ?”
Anh ta lắc lắc đầu. “Cô không thể chỉ nói đi theo tiếng chim hót rồi cứ thế bỏ lửng cho cơn tò mò của tôi được dịp ngứa ngáy chộn rộn lên như vậy được.”
Tôi gượng gạo cười. “Yêu thích chim chóc nào phải sở thích gì đặc biệt đâu?”
“Đúng vậy. Ai lại chẳng yêu chim cơ chứ?” Giọng anh ta trầm thấp và thân thiết hơn. “Nhưng không mấy ai chịu ra tận đồi cỏ này trước cả khi mặt trời mọc chỉ để nghe tiếng chim hót cả. Và điều đó, thưa cô Worthington, đã khiến cô trở nên quyến rũ.”
Lời nói, nụ cười và ánh mắt anh ta kết hợp thành một chỉnh thể khiến tôi sảng sốt không thốt nổi nên lời, chỉ biết trân trân giương mắt nhìn anh ta với một vệt phiếm hồng khẽ lướt qua má.
“Trông cô có vẻ ngạc nhiên.” Anh ta nói khẽ.
Ngoài lúng túng cười trừ, tôi chẳng còn biết làm gì hơn. “Xin lỗi. Tôi chỉ là hơi bất ngờ khi có người cho rằng niềm yêu thích chim chóc của tôi là một sự quyến rũ.”
Khóe môi anh ta liền dãn rộng. “Vô cùng vinh hạnh.”
“Vậy còn anh Brandon, anh làm gì ngoài này lúc mờ sáng thế?”
Anh ta hít vào một hơi rồi ngước mắt nhìn lên cao, mặt trời bọc trong vầng hào quang chói lọi đã nhú khỏi chân trời. “Tôi ra ngoài thám hiểm. Cô thấy đấy, đây là lần đầu tiên tôi đến đồi cỏ. Mà một nơi có cả núi lẫn biển như này thì lại càng…
Đoạn dán mắt vào tôi, anh ta nói tiếp. “…càng lý tưởng hơn, không phải sao?
Tôi gật đầu, tán đồng với anh ta. Dưới những tia nắng ngày một sáng rỡ, tôi thấy cần phải thay đổi nhận định về màu mắt của Brandon. Không phải sắc xanh của đồi cỏ nơi đây, mà là màu xanh của cây cối quê nhà. Dưới ánh bình minh, toàn thân anh nhuốm đẫm sắc vàng chói lọi – từ mái tóc, nước da cho đến những cọng râu mảnh lún phún dưới cằm và hai bên má. Tôi nhận ra anh ta khá cao, có thể gần bằng Henry.
Tôi tự hỏi vì sao Sylvia lại bỏ qua một người như anh ta mà để mắt đến ông bố nhỉ?
Đoạn, anh ta khẽ chỉ sang trái ra hiệu. “Chúng ta cùng trở về chứ? Tôi thấy đói muốn rã ruột rồi. Hẳn là sau cuộc dạo chơi cô cũng đói rồi nhỉ?”
Tôi sóng đôi cạnh anh ta. Được một lúc, tôi khẽ hắng giọng. “Nhân nói về cuộc dạo chơi, phiền anh đừng kể cho người khác biết nhé, tôi sợ nhiều người không chấp nhận tính ưa phiêu lưu lắm.”
Anh ta khẽ liếc tôi một cái, đuôi mày vển lên, song vẫn mỉm cười đáp. “Rất hân hạnh được cùng chung bí mật với cô.” Rồi chẳng cho tôi kịp suy nghĩ về những lời ấy, anh ta lại nói tiếp. “Giờ hãy kể cho tôi nghe về những chú chim của cô đi.”
Tôi liếc nhìn anh ta, gió thổi tóc bay lòa xòa trước mặt. “Anh muốn biết gì?”
“Mọi thứ. Điều khiến cô yêu thích.”
“Tiếng hót. Bản tính của chúng” Tôi đáp, đánh mắt sang Brandon, tự hỏi liệu anh ta có thực sự quan tâm như trong giọng nói của mình không. Song ánh mắt của anh ta chẳng hề dứt khỏi tôi, không lộ chút gì ngoài sự chăm chú. Vì rất ít người thực sự muốn tán chuyện về sở thích của tôi, nên tôi đột nhiên thấy rất hứng khởi. “Chúng rất dễ bị đánh đồng. Người ta thường cho rằng tất cả các loài chim đều như nhau. Nhưng kỳ thực mỗi loài đều có những nét độc đáo riêng.”
Anh ta gật đầu, khích lệ tôi nói tiếp.
“Tiếng hót có thể làm đặc điểm nhận dạng cho từng loài, chứ không hề đơn giản chỉ là tiếng kêu chiêm chiếp đâu. Ví dụ chim sáo sẽ hót như này.”
Đoạn tôi chum miệng huýt điệu sáo đã cùng Henry luyện tập hàng giờ trong một ngày mưa nhiều năm về trước.
Anh ta nhướng cao đôi mày. “Vậy ra đó là cô à? Lúc nãy ấy. Tôi đã nghe thấy tiếng huýt sáo trên đồi cỏ.”
Tôi gật đầu. “Vâng, một tiếng là tôi. Tiếng còn lại… tôi đoán là của một chú sáo thật.” Chùng lòng nhớ đến cảm giác thất vọng khi không thấy Henry lộ diện khỏi đám sương mờ.
“Thế cô thích nhất loài nào?” Brandon hỏi.
Tôi đáp lấp lửng. “Câu đó thật khó trả lời.”
Khóe môi anh ta cong lên. “Cứ nói tên một trong số những loài cô thích là được.”
Tôi ngẫm nghĩ một lát. Vốn định đáp là chiền chiện, nhưng tôi lại cảm thấy làm vậy giống như là phản bội Henry.
Những cọng thạch nam khô quắt đã nhường đường cho cỏ xanh mút mắt mọc quanh Blackmoore. Mặt trời đã nhô hẳn lên cao, ánh nắng vàng ươm dần dà xua tan sương sớm. Brandon chợt dừng bước, quay sang nhìn tôi vẻ chờ đợi.
Tôi cũng đứng lại theo, cân nhắc một lát, đoạn trả lời.
“Anh vũ.”
“Nó thế nào?”
Tôi nhìn anh ta nghi hoặc.
Anh ta vẫy vẫy tay như muốn giục tôi nói tiếp. “Điều gì khiến nó có tên trong danh sách yêu thích của cô?”
Anh ta ra vẻ thật sự quan tâm đến sở thích của tôi. Điều đó thật quá lạ lẫm.
“À… Ờ…Nếu anh thật sự muốn biết…”
“Tôi thật sự muốn biết.”
“Chỉ vì một lý do, khi bay lượn trên cao, nom nó như thể đang khoác một chiếc áo lông xám ngoét bóng bẩy, nhưng thực ra ở vùng bụng và ngực nó có những đốm lông trắng đen, trông bắt mắt như sắp tham dự một bữa tiệc vậy. Anh có thể nghĩ nó là một giống vật buồn tẻ chán ngắt, nhưng khi nhìn thấy những đốm lông ấy, anh sẽ nhận ra ngay mình đã lầm.” Tôi nói liền một hơi. “Nhưng điều mà tôi thích nhất ở loài anh vũ là sự can trường. Nó thường đậu trên ngọn cây to và cất cao tiếng hót giữa trời giông bão, tựa như thách đố ông trời có thể khiến nó sợ hãi, hay chăng muốn ngạo nghễ nói rằng tiếng hót của nó vượt xa cả bão tố. Nó thật sự rất gan dạ.” Tôi mỉm cười nhún vai. “Khiến tôi vô cùng ngưỡng mộ.”
Anh ta nghiền ngẫm nhìn tôi bằng ánh nhìn khó đoán, ánh mắt ấy tựa như ánh mắt khi tôi ngắm nhìn lũ chim. Bỗng ngộ ra duyên cớ, tôi bèn khoanh hai tay trước ngực. “Anh thấy tôi ngớ ngẩn lắm phải không? Lại đi ngưỡng mộ một loài chim?”
“Không phải vậy,” Anh ra nhanh chóng đáp. “Tôi chỉ đột nhiên thấy vô cùng hứng thú với chim chóc thôi.”
Gió từ biển thổi táp vào khiến mái tóc của tôi rối xù lên. Vừa cố gắng vén tóc ra sau và cố định nó lại, tôi vừa xoay mặt mình cho mái tóc được thuận chiều cùng gió. “Gió mạnh quá…” Tôi nói.
“Vâng. Chúng ta vào trong thôi.” Brandon tiếp lời, rồi chúng tôi cùng băng qua trảng cỏ, khoảng sân và trở về ngôi biệt thự bằng cửa chính. Đi qua đại sảnh, tôi rảo chân lên lầu định bụng về phòng chỉnh trang trước khi bị ai đó bắt gặp trong bộ dạng này. Đến lối rẽ cầu thang, ánh mắt tôi có thể đưa lên ngắm bức họa Phaeton trên mái vòm, hoặc đưa xuống nhìn dãy hành lang bên dưới. Tôi đã chọn nhìn xuống. Và lập tức bắt gặp Brandon đang đứng ngây người nhìn lên với nụ cười hòa ái trên môi. Tôi không thể không cười đáp lại.
Rõ ràng anh ta đã nhìn thấy nụ cười của tôi. Má tôi nóng rực lên mà chẳng rõ lý do. Đoạn xoay phắt người hòng che giấu sự e thẹn. Song, chỉ kịp thấy trước mắt loang loáng một vệt mờ, tôi đã lập tức đâm sầm vào ai đó. “Ối! Xin lỗi!” Tôi nói, tóm chặt lan can để giữ thăng bằng.
Phu nhân Df lùi lại quở trách. “Đi đứng phải nhìn đường chứ, Kitty.”
“Cháu xin lỗi, cháu không thấy cô.”
Bà dán đôi mắt lạnh lẽo của mình lên mặt tôi, rồi dạo khắp người tôi một vòng trước khi ghim vào tóc tôi. “Cô đã ở ngoài đấy à, Kitty?”
“Là Kate ạ,” Tôi nhắc nhở bà ấy, cố nhịn không giơ tay vuốt lại tóc. “Thưa vâng, cháu đã ra ngoài.”
Bà thở dài rồi ngước mắt nhìn lên như đang tìm kiếm sự cứu rỗi thiêng liêng nào đó. “Tôi phải nói cho cô những hành vi được phép ở đây mới được.”
Tôi không thể ngăn mình đừng liếc qua vai. Cảm thấy một bài thuyết giảng đạo đức lại sắp sửa đổ lên đầu, tôi chẳng mong Brandon chứng kiến cảnh này chút nào. Nhưng anh ta vẫn còn đứng bên dưới ngẩng nhìn lên, mà giọng nói phu nhân Delafield lại vang vọng khắp cả mái vòm chúng tôi đang đứng.
Bà bước lên trước, đánh mắt qua cầu thang, tay nắm chặt lan can gỗ, mu bàn tay hiện rõ đường gân.
“Chào buổi sáng, cậu Brandon.” Giọng bà lúc này là một điển hình của sự lịch thiệp gượng ép.
“Tôi tin chắc cậu đã có một giấc ngủ ngon, phải không?”
“Đúng vậy.” Nụ cười của anh ta thoắt cái đã chuyển từ nét hòa ái tôi vừa mến mộ sang vẻ lễ độ cứng nhắc.
Tôi bèn dịch khỏi lan can, nói: “Xin cô thứ lỗi, cháu…”
“Kitty, tôi có vài lời muốn nói với cô.”
Tôi khựng lại, ngoái nhìn bà ấy với cảm giác sợ hãi ngày một phình to. Bà chau đầu xuống, ghé sát vào tôi vặn hỏi, “Cô đã ra ngoài một mình với cậu Brandon? Có phải hai người… lén dan díu gì không?”
“Không phải,” Tôi thì thầm đáp lại, giọng tột độ kinh hoảng. “Chúng cháu chỉ tình cờ gặp nhau thôi, cháu không nghĩ sẽ gặp anh ta ngoài đó.”
Đôi mắt xanh thẫm của bà híp lại, một ánh nhìn cảnh xáo xoẹt qua. “Kitty, đây không phải là Brighton, không một tai tiếng nào được phép xảy ra ở đây cả.”
Tôi xấu hổ đến nóng ran cả mặt bởi ám chỉ trong lời bà nói. “Cháu không phải Eleanor, thưa cô. Cháu không bao giờ làm thế.”
Đoạn xoay lưng lại và lững thững bước trên những bậc cầu thang. Cảm thấy bầu không khí yên tĩnh quá mức, vừa đến chỗ rẽ, có một sự thôi thúc khiến tôi ngoái đầu nhìn lại. Thay vì lựa chọn an toàn là cứ thế đi thẳng về phòng, tôi lại đưa mắt chạy dọc lan can. Phu nhân Delafield lúc này đã xuống hết các bậc thang và sắp đi ngang qua chỗ Brandon. Anh ta chau mày nhìn tôi rồi nhanh chóng lia mắt sang bà, vừa đúng lúc bà ấy chạm vào cánh tay rồi ghé vào tai anh ta thì thầm gì đó.
Hai má tôi hầm hập như có lửa đốt, cố nghĩ xem bà ấy đang nói gì về mình. Song, tôi lập tức gạt phăng cảm giác bẽ bàng tủi hổ và trở bước về phòng. Brandon có nghĩ gì cũng mặc, tôi chỉ cần đến nhờ Henry, có ba lời cầu hôn và chạy thẳng đến Ấn Độ. Ở đó sẽ chẳng còn ai trông xuống tôi bằng ánh mắt kẻ cả. Sẽ chẳng còn ai xem tôi là kẻ thừa hay kiểm soát cuộc đời tôi. Ấn Độ sẽ giải quyết mọi vấn đề.