Vào bất cứ lúc nào, cuộc đời cũng chỉ có một trọng điểm.
Chiều hôm sau thì chúng tôi tới được Phượng Hoàng cổ trấn ở Tương Tây.
Kiếm một khách sạn rẻ tiền trú tạm. Hai người kia đã mệt phờ, vừa vào phòng đã lăn ra ngủ say như chết. Còn tôi thì lang thang ra ngoài kiếm Lông Mi.
Bờ sông vắng vẻ đìu hiu. Thuyền nan xếp thành một hàng dài, nước sông cuồn cuộn chả. Trên bờ chỉ có vài người địa phương ăn mặc kiểu người Miêu. Mùa đông lạnh lẽo này du khách rất ít khi tới đây, khung cảnh cũng trở nên tiêu điều xơ xác. Tôi đi dọc theo con phố nhỏ lát đá xanh kéo dài xuyên xuốt thị trấn, đi từ đầu tới cuối, rồi lại vòng trở lại mấy lượt, không thấy Lông Mi đâu, bèn quyết định thử hỏi thăm trong các khách sạn, đã hỏi một lượt hết cả các khách sạn gần đó mà cũng chẳng có thu hoạch gì.
Bước trên chiếc cầu nhỏ qua sông, tìm hết một lượt các khách sạn bên bờ đối diện. Trừ một căn phòng có con gái đang tắm là chưa tìm, vẫn chẳng thấy Lông Mi đâu. Bèn đứng đợi trước căn phòng kia, chờ cô gái ra ngoài, không phải Lông Mi.
Đột nhiên tôi ý thức được rằng mình đang phải đối diện với một cuộc tìm kiếm trên diện tích rộng tới 960 vạn km2, một cuộc tìm kiếm tuyệt đối không dễ hơn cuộc “Giải cứu binh nhì Ryan” trên phim chút nào, trong lòng không khỏi cảm thấy hơi chán nản.
Quay trở về khách sạn, tôi nằm vật ra giường, đầu óc trống rỗng.
Hai người kia giờ mới bò dậy, gọi tôi đi ăn cơm, tôi mặc kệ. Họ hẩy hẩy mấy lần, tôi vẫn mặc kệ. Cả hai lấy làm ngạc nhiên, đành ngồi đó hút thuốc chờ tôi dậy. Tôi thấy thế đâm ngại, đành ngồi dậy. Họ đâu phải cùng tôi đi tìm Lông Mi, tôi không thể để tâm trạng tồi tệ của mình ảnh hưởng đến người ta được.
Thị trấn Phụng Hoàng về đêm rất đẹp. Các con phố đều được lát đá xanh. Trên phố hầu như đều là những ngôi nhà mái cong mang dáng dấp cổ xưa, mỗi góc mái đều treo một chùm đèn lồng đỏ, tỏa ra những luồng dáng dịu mắt rải khắp thị trấn. Tuy đã về khuya, nhưng vẫn còn rất nhiều cửa hàng mở cửa kinh doanh, bán đồ ăn, bán đồ lưu niệm, bán quần áo, còn có rất nhiều quán trà và quán rượu nhỏ nữa. Tuy nhiều nhưng không hỗn tạp, không làm mất đi vẻ yên binh của, thậm chí còn điểm xuyết cho văn hóa nơi đây thêm phần đặc sắc. Mùa đông du khách đến đây rất ít, chỉ có vài ba người đi ba lô tụ tập thành từng nhóm đi qua.
Ăn cơm xong, hai người kia kéo tôi đến quán rượu. Không muốn đi, nhưng không từ chối được, đành để mặc cho họ muốn làm gì thì làm.
Quán rượu ở đây cũng rất đặc biệt. Kết cấu hầu như chỉ cố gỗ thô, bốn phía treo đầy những đồ vật đậm chất dân tộc. Khách chỉ lưa thưa vài ba người. Bên cửa sổ có hai cô gái, ăn mặc như khách du lịch bụi, nhìn mặt mũi cũng xinh xắn dễ thương, tay cầm tạp chí du lịch, cúi đầu lẩm nhẩm đọc. Bảo là đẹp thì cũng không phải đẹp lắm, nhưng không khí đặc biệt của nơi này khiến cho hai cô cũng trở nên rất có “chất”.
Tây Môn cứ liếc mắt nhìn tôi với Luật Sư, hình như đang khó xử không biết “chia” thế nào? Tôi đẩy hai người họ lên trước, rồi một mình ra ngồi cạnh cửa sổ, gọi một tách trà xanh của địa phương sản xuất, lòng trĩu nặng ngắm nhìn dòng Đà Giang cuộn chảy, âm thầm nhớ về Lông Mi. Thi thoảng quay đầu lại, Tây Môn và Luật Sư hình như đang trò chuyện rất vui vẻ với hai cô gái mới quen thì phải.
Ngồi mãi cũng chán, tôi bèn đứng dậy đi vòng vòng chung quanh.
Trên tường có rất nhiều lưu bút để lại: những câu dí dỏm, những lời từ trái tim, những lời tỏ tình, có cả những hàng chữ nguệc ngoạc viết lung tung nữa.
Tôi nghĩ một chút, rồi nắn nót viết lên lên trên đó: “Rất nhiều người trong đời chỉ có 0,1% thời gian là thật sự yêu một người nào đó 100%. Tất cả mọi người đều không thể chỉ yêu một người nào đó trong 100% thời gian của đời mình.”
Quyết định đến đâu cũng sẽ để lại lưu bút, để Lông Mi biết rằng tôi đang đi tìm em.
Chợt nhận ra bên cạnh có một cô gái đang đứng nhìn mình.
Quay đầu lại, cảm thấy hơi quen mặt. Nhìn kỹ hơn, liền nhận ra đó là cô gái tôi gặp lúc đi tìm Lông Mi ban chiều. Cả hai nhìn nhau cười cười. Cô gái khoanh tay, nhìn hàng chữ tôi vừa để lại, nghĩ gì đó rồi nói:
- Nếu là tôi, thì chỉ cần 0,1% đó đã à quá đủ.
Tôi nghe mà chợt thấy toàn thân run rẩy.
Trở về chỗ ngồi, cô gái cũng đi theo, ngồi xuống bên cạnh.
Hai tay cô cầm một chén trà lớn, áp má vào thành chén, hình như đang làm ấm lại gò má lạnh băng, nghiêng nghiêng đầu ra nhìn dòng Đà Giang bên ngoài, trầm ngâm không nói gì. Bên cạnh tay cô đặt một quyển sách. Tôi cũng không có tâm trạng để ý đến ai, trong lòng chỉ nghĩ đến một mình Lông Mi.
Hai người cứ thế chìm trong im lặng. Lâu. Thật lâu.
Một bầu không khí kỳ dị dần dần hình thành, cô đặc lại.
Hai con người lặng lẽ, mang trong lòng những tâm sự khác nhau, giữ một khoảng cách vừa xa lạ lại vừa thân quen.
Đầu lưỡi tôi chợt có cảm giác ngòn ngọt, có lẽ cô gái kia cũng vậy.
Dường như cả hai đều cùng cảm nhận được sự thay đổi rất nhỏ nhưng cũng rất tinh tế của bầu không khí xung quanh, đều thấy hơi lúng túng.
- Mới tới Phượng Hoàng à?
Tôi bèn lên tiếng phá vỡ bầu không khí trầm mặc.
- Không. Ở cũng lâu rồi, đến đây luyện đàn.
Giọng nói của cô gái điềm đạm, nhưng có gì đó mệt mỏi và chán chường.
- Luyện đàn? Ghi ta hay Piano? hay là Violon?
- Cho hỏi Violon là cái gì thế?
Cô gái này nói chuyện có vẻ rất chú trọng đến lễ tiết.
- Là vĩ cầm ấy. Trong sách của Trương Ái Linh, thời đó người ta gọi vĩ cầm là violon
Tôi lại không cẩn thận giở mấy trò cưa gái hồi xưa hay dùng ra, trong lòng chợt thấy mình thật đáng tởm.
- Ồ, tôi thích cái tên này, hay hơn vĩ cầm nhiều.
Cô gái cười cười.
Cô đặt chén trà xuống, tay chống cằm, nhìn tôi chăm chú, điệu bộ rất hứng thú. Tôi không khỏi hơi hối hận, không biết nên sử xự thế nào. Thật tình là lúc này tôi không muốn chạm đến ai, mà cũng không muốn bị ai chạm đến mình.
- Đang tập nhạc của ai thế?
Tôi cầm chén trà lên, hỏi vu vơ.
- Ai cũng tập, nhưng chỉ lõm ba lõm bõm. Anh thích nghe nhạc của ai nhất? Paganini?
Cô gái đốt một điếu thuốc, hờ hững kẹp giữa hai ngón tay, tư thế rất đẹp, nét mặt có vẻ rất u uất. Lúc nhắc đến Paganini, điệu bộ của cô có gì đó rất mệt mỏi chán chường. Có lẽ tại hiện nay người ta cứ cho âm nhạc của Paganini là tiêu chuẩn để thưởng thức âm nhạc, rất nhiều người chẳng bao giờ nghe violon, nhưng chỉ cần nhắc đến Pagani ni là ít nhất cũng có thể vênh mặt lên là ta đây hiểu biết âm nhạc rồi.
- Cũng tàm tạm. Nói về người thì tôi thích Mozart với Jascha Heifetz, còn về tác phẩm thì thích “Bài ca kẻ lang thang” của Pablode Sarasate, từ trước đến giờ cũng luôn cho rằng đàn vi olon vì có những con người ấy, những tác phẩm ấy mà trở nên vĩ đại hơn.
Cô gái nghe rất chăm chú và hứng khởi.
Tôi lại cảm thấy mình hơi tự khoa trương, không muốn nói thêm nữa, bèn ngậm miệng lại.
Cả hai lại chìm vào trong im lặng.
Tây Môn đi tới, nói muốn đi dọc bờ sông, rủ chúng tôi đi cùng. Tôi vốn định từ chối, chẳng ngờ cô gái đã đứng lên trước, gật đầu lịch sự nhận lời. Tôi ngây ra mất một lúc, rồi đành đứng dậy theo.
Sáu người ra khỏi quán rượu, đi bộ dọc theo bờ sông.
Đêm đã về khuya. Chỉ còn lại những chùm đèn lồng đỏ treo trên mái nhà như đang nhắc nhở màn đêm đừng tưởng rằng có thể nuốt hết được mọi ánh sáng của nơi này. Đèn lồng chiếu ra những tia sáng mờ mờ mông lung, nhìn xa xa trông như quầng sáng huyền ảo. Dòng Đà Giang lững lờ trôi. Đêm đông tĩnh lặng lạ thường, có thể nghe thấy cả tiếng nước chảy ì oạp. Vầng trăng lành lạnh treo ở góc trời, thỉnh thoảng lại có một đám mây trôi qua, cùng với một trận gió lành lạnh nhưng không buốt da buốt thịt.
Gió lạnh thổi qua, Tây Môn và Luật Sư đều ôm lấy cô gái đi bên cạnh.
Cô gái kia đứng một mình run rẩy, lịch sự dùng ánh mắt nhắc nhở tôi. Tôi giật mình, đành vòng tay ôm lấy cô. Cô gái hình như đã được giáo dục rất chính quy theo kiểu Thiên Chúa Giáo, nói năng cử chỉ đều có một chút gì đó rất u nhã, rất thần bí, thậm chí là đến độ hơi cứng nhắc.
Cô mặc một chiếc áo len đen tuyền mềm mại, eo chiết theo kiểu Pháp, làm chiếc eo thon và bộ ngực đầy đặc càng lộ rõ. Cổ áo khoác dựng đứng, thấp thoáng bên trong là chiếc áo lót trắng thêu hoa mờ mờ. Cô gái này hình như cũng có thói quen giống Lông Mi, mùa đông chỉ thích mặc một chiếc áo len bên ngoài nội y. Phát hiện này lại làm tôi cảm thấy thêm khó chịu và nhớ em.
Tây Môn đi tới nói bọn họ có việc, rồi nháy mắt đầy ẩn ý, sau đó bốn người kéo nhau đi về phía khách sạn.
Chỉ còn lại tôi và cô gái kia thần người đứng bên bờ sông, không biết nên làm gì, không biết nên nói gì, tình cảnh rất khó xử.
Cô gái chợt lên tiếng hỏi tôi có muốn thả đèn ước nguyện không? Tôi gật đầu đồng ý.
Cô bèn về khách sạn lấy ra mười mấy cái, rồi kéo tôi ra đầu cầu bên bờ sông. Cô quỳ xuống, cẩn thận vén áo lên, rồi cắm nến cho từng cây đèn ước nguyện một. Tôi cũng ngồi xuống bên cạnh giúp một tay. Một chốc sau thì đã làm xong. Cô hỏi tôi muốn ước mấy điều? Tôi mỉm cười giơ một ngón tay lên. Cô gái cũng cười cười, đưa một ngọn đèn cho tôi, còn đâu để hết ình.
Tôi lấy bật lửa đốt nến lên, rồi đưa cho cô. Đèn ước nguyện thực ra là một con thuyền giấy nhỏ màu đỏ, bên trên cắm một ngọn nến. Cô gái cầm đèn, nhẹ nhàng thả xuống mặt nước, con thuyền lập tức thuận dòng trôi đi. Tôi lại đốt thêm một ngọn đèn nữa, đưa cho cô thả. Cứ vậy lặp đi lặp lại. Một lát sau thì cả mười mấy con thuyền đã trôi bồng bềnh trên mặt nước, tiền hô hậu ủng như một hạm đội. Những ngọn nến bập bùng bập bùng chiếu sáng vùng nước xung quanh, nhìn từ xa trông đẹp vô cùng, một vẻ đẹp có gì đó rất không chân thực.
Cô gái chắp hai tay lại, mắt nhắm hờ, lẩm nhẩm cầu nguyện, rồi từ từ mở mắt, nhìn tôi cười cười, ra hiệu cho tôi cũng thả ngọn đèn của mình xuống. Tôi đặt con thuyền nhỏ lên tay, bắt trước cô gái nhắm mắt lại, ước một điều ước về Lông Mi. Con thuyền nhỏ này trông khá chắc chắn, đường nét mềm mại nhưng cũng rất mạnh mẽ, hi vọng nó đủ lực khí để đưa ước nguyện của tôi theo dòng nước trôi tới nơi tận cùng.
Tôi thắp nến, chăm chú nhìn ở cự ly gần. Ngọn lửa rất yếu ớt, nhưng không hề tự ty, mà đang cháy hết sức mình, ngoan cường chống chọi lại với gió lạnh. Một lúc sau, tôi mới chầm chậm thả con thuyền xuống mặt nước. Con thuyền nhè nhẹ trôi đi, giữ một khoảng cách cố định với mười mấy con thuyền phía trước, không gấp gáp đuổi theo mà cũng không cam tâm bị bỏ lại phía sau, vừa xoay tròn vừa tiến lên phía trước, tựa như vũ công trong phim Vũ Khúc Tây Tây Lý mặc váy xòe xoay tròn trong điệu múa vậy.
Con thuyền mỗi lúc một xa dần, từ từ mơ hồ, cuối cùng biến thành một quầng sáng mờ mờ mông lung. Quầng sáng trong nháy mắt đã biến mất, nhường chỗ cho bóng đêm. Nó biến mất quá bất ngờ, phảng phất như đột nhiên nhắm mắt lại, tất cả ánh sáng đều bị mí mắt chặn hết vậy. Tôi đứng dậy dõi mắt nhìn ra, hi vọng tìm được bóng dáng con thuyền nhỏ. Nhưng chỉ uổng công. Không nén nổi cảm giác chán nản dâng lên.
- Phía trước có một con đập nhỏ, tất cả thuyền giấy trôi đến đó đều phải rơi xuống hồ cả. Cũng giống như tất cả mọi người đến cuối cùng đều phải mất đi thiên đường của mình vậy.
Cô gái dựa người vào vai tôi, cười khổ nói, ngữ khí dường như đang cười trên sự đau khổ của người hkác.
Tôi không lên tiếng, chỉ ngẩng đầu nhìn trời. Bầu trời đêm mênh mang, không trăng, bầu trời và dòng sông như có một hiệp định ngầm để tái hiện lại thời kỳ hỗn độn xa xưa.
- Thường có cảm giác mình giống như một con thuyền giấy nhỏ, bất cứ lúc nào cũng có thể rơi ra bên lề cuộc đời.
Cô gái bi quan nói.
- Sống dù sao cũng tốt hơn là chết. Ít nhất là còn có hi vọng.
Tôi chỉ biết khuyên như thế.
- Sau một hi vọng lại là một hi vọng khác. Đời người là một cái vòng luẩn quẩn. Xét về mặt tinh thần, thực ra chúng ta đều là những cái xác sống mà thôi. Linh hồn đã chết. Còn nhục thể thì chỉ là vấn đề của thời gian, nhục thể của chúng ta đang từ từ thối rữa với một tốc độ và mức độ mà chính chúng ta cũng không thể ý thức được.
Cô gái thở dài một tiếng, rồi ngước lên nhìn trời đêm với ánh mắt tuyệt vọng.
Tôi thừ người ra.
Đột nhiên nhớ lại lần ở Tây Đường, ba người ngồi trước cửa nhà người chết, Bất Bất cũng từng nói một câu tương tự như vậy, thậm chí tôi còn nhớ rõ cả tiếng cười của Bất Bất.
Bất Bất rời bỏ tôi, sau đó là Lông Mi.
Cuộc đời hình như lúc nào cũng muốn đối địch với tôi vậy.
F #$%!
Tôi đưa cô gái mới quen về khách sạn.
Một ngôi nhà to, tối om.
Cô gái dắt tay tôi, đi xuyên qua sân, qua đại sảnh không một bóng người, lên lầu hai, mở cửa vào phòng, bật ngọn đèn bàn lên, ngồi xuống. Khung cảnh cũng được, trước mặt là ĐàGiang, nhà cửa san sát bên bờ sông, tường thành cổ. Gian phòng không lớn lắm, đơn giản nhưng sạch sẽ. Trên giường để một cây violon màu đỏ. Tôi tiện tay cầm lên, nghịch nghịch mấy sợi dây đàn.
Cô gái cười cười, ngồi xuống bên cạnh, cầm đàn kẹp dưới cằm, nghĩ một chút rồi nhắm mắt kéo một khúc nhạc. Tiếng nhạc trầm trầm, gam nửa cung cực kỳ không cân đối đưa qua đưa lại, khiến người nghe cực kỳ khó chịu. Cô gái dường như bị âm nhạc làm ảnh hưởng, chìm sâu vào trong tiếng nhạc, nét mặt đau khổ, đến lúc cao trào, nước mắt còn trào ra, khóe mắt rưng rưng.
- Bài gì vậy?
Tôi phá vỡ bầu không khí trầm mặc.
- Gloomy Sunday.
Tôi bỗng nhiên hiểu ra.
Một khúc nhạc kỳ lạ của người Pháp. Tác giả đem nỗi đau khổ không thể giải thoát, và nỗi thương cảm ngọt ngào của mình hòa quyện vào tiếng đàn tuyệt vọng, phía sau những âm thanh tuyệt diệu ấy là lời phán đoán tàn khốc về ý nghĩa của sự tồn tại, làm người nghe chợt sinh ra xung động muốn tự sát. Người tình của tác giả cũng chính là nạn nhân đầu tiên của khúc nhạc này. Về sau, chính tác giả cũng để lại di ngôn: “Tự do thì đừng do dự”, sau đó nhảy lầu tự sát.
- Tự do thì đừng do dự.
Tôi khe khẽ nhắc lại.
- Tự do rồi chết.
Cô gái tiếp lời.
- Đó chỉ là liên hệ mù quang thôi, đừng để mình chìm đắm vào trong ấy.
Tôi khuyên giải.
- Tôi đã chìm rồi, không thể thoát ra khỏi đó nữa rồi. Cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì hết, chỉ có cái chết là nơi cuối cùng cho tôi ẩn náu mà thôi.
Cô gái lẩm bẩm, liếm liềm nước mắt chảy xuống khóe miệng, nét mặt rất tuyệt vọng.
Cô buông đàn xuống, lại gần tôi chăm chú quan sát, rồi đưa ngón tay lên vuốt nhẹ quanh môi tôi, vạ một đường tròn, rồi nhấc ngón tay lên, chấm vào nước mắt mình, chầm chậm nhét vào miệng tôi, nhè nhẹ chạm vào đầu lưỡi, rồi lại rút về, cho vào miệng mút mút, hình như đang nếm thử mùi của tôi thế nào. Kế đó lại gật gật đầu, nheo mắt nhìn tôi cười cười, ra vẻ thích thú.
- Sống lâu quá cũng chẳng ý nghĩa gì, thà dùng 0,1% cuộc đời để yêu ai đó 100% còn hơn., nếu không thì thật là lãng phí.
Cô gái yếu ớt nói khe khẽ.
Tôi như bừng tỉnh khỏi một giấc mộng dài, vội vàng kiếm một lý do để rời khỏi đó.
Một mình đi trên cây cầu nhỏ bắc qua Đà Giang.