Mụ già Celestina và tên sinh viên Hilario đã bị Toà án Công giáo Valladolid xử vắng mặt và bị kết án phạm tội phù thuỷ và gây ra cái chết của cha Tomas de Santo Domingo, vì lý do đó, xác của họ bị đào lên và đốt chảy đến tận xương tuỷ trên giàn hoả thiêu như một sự trừng phạt công khai đối với phạm nhân.
Trong quá trình xét xử không ai nói đến cái chết của Thái tử và của Alicia. Một lần nữa, Fernando de Rojas tuân theo lời của Diego de Deza và không hé lộ bất kỳ điều gì liên quan. Đổi lại, anh đã đạt được việc cho phép những người Do Thái đang lẩn trốn trong hang chạy trốn đến Bắc Phi. Tuy nhiên, vài người trong số họ vẫn muốn ở lại Salamanca, trong những “bến đỗ” không ai biết tới.
Nhờ Rojas và Sabela thông báo, Fernando de Roa và những người thân tín của ông đã kịp đóng cửa các đường hầm vào hang, do đó đã không xảy ra việc phá hoại tài sản hoặc các vụ bắt giữ. Dù thế nào chăng nữa, để giữ an toàn, Viện Hàn lâm đã đóng cửa một thời gian và một số đường hầm của Viện không được mở lại nữa.
Theo lệnh của Nữ hoàng Isabel, lối vào đường hầm nhà thờ Thánh Cebrian đã được đóng lại bằng đá và vữa. Một thời gian sau, Vua ra lệnh phá bỏ nhà thờ và những cột trụ của nhà thờ được tái sử dụng để xây bức tường phía Đông của nhà thờ mới. Sau nhiều cân nhắc và báo cáo tham khảo từ phía các kiến trúc sư, nhà thờ mới đã được xây dựng ở phía Bắc của nhà thờ cũ, trên quảng trường Azogue cổ, ngay trên đường hầm dẫn đến lối vào Viện Hàn lâm. Như ông Roa dự đoán, nhà thờ ở ngay bên dưới trường Trẻ lớn. Để xây dựng nhà thờ, họ buộc phải phá bỏ một số căn nhà của Hội đồng giáo hội, khiến cho Hội đồng giáo hội mất đi một nguồn thu quan trọng. Như vậy, họ đã phá một phần cánh gà phía trái của nhà thờ cũ và cây thánh giá phía Bắc cùng với ngọn tháp được trang trí rất đẹp. Cuối cùng, hai ngôi đền được hợp nhất bởi một bức tường dày cùng một tháp chuông. Toà dinh thự của Giám mục cũng như trường Đại học đều không bị ảnh hưởng.
Họ cũng bịt bằng vôi và đá lát lối vào hang ở phía Đông giữa một đống đổ nát của Alcazar. Từ đó đến nay, nơi ấy được biết đến với tên gọi tảng đá Celestina. Về bóng ma của Enrique de Aragon hay de Villena, lần cuối họ nhìn thấy ông là ở hang Hercules nổi tiếng tại Toledo, nơi mà theo nhiều người nói, ông chuyên giảng dạy về thuật chiêu hồn.
Sau cái chết của Tomas de Torquemada và sau khi ông được chôn cất tại cùng một tu viện với Thái tử Juan, vào tháng Mười hai năm 1498, Diego de Deza được bổ nhiệm làm Tổng Chánh án Toà án Công giáo, như một phần thưởng cho nhiều năm phục vụ vương triều. Trong suốt thời gian đương nhiệm, ông ta tỏ ra rất mạnh tay với những người cải đạo, đối xử với họ tàn nhẫn và hằn thù, đỉnh điểm là việc Đức vua đã phải ra lệnh triệu tập ông ta vì đã cho phép công tố viên xứ Cordoba, Diego Rodriguez Lucero, xử tàn bạo cha Hernando de Talavera. Cuối cùng, vào năm 1507, ông ta cũng bị thay thế bởi kẻ thù không đội trời chung của ông ta, Giáo chủ Cisneros. Trong những cương vị đảm nhiệm, Diego de Deza cũng từng được bổ nhiệm làm Giám mục vùng Jaén (1498) và Palencia (1500), Tổng giám mục Sevilla (1504) và Toledo (1523), tuy nhiên ông ta đã không kịp nhậm chức Tổng giám mục Toledo do mất ngày mùng 9 tháng Sáu năm 1523. Thật lạ, vào năm 1521, viên bác sĩ cải đạo Juan de la Parra được bổ nhiệm làm Giám mục vùng Almería. Ông cũng trở thành chủ tịch Hiệp hội bác sĩ và phẫu thuật gia.
Ngày mùng 8 tháng Mười hai năm 1497, Công nương Margarita của Áo, goá phụ của Thái tử Juan, đã sinh non một bé gái. Bé gái này đã chết yểu. Việc này đã khiến cho Vua Manuel đệ nhất của Bồ Đào Nha và Hoàng hậu Isabel trở thành người kế vị vương quốc Castilla vào ngày mùng 7 tháng Tư năm 1498. Thật không may, Công chúa xứ Asturias mất trong khi trở dạ vào ngày 23 tháng Tám năm 1498. Bà sinh hạ một bé trai, đặt tên là Miguel de la Paz de Avis y Trastámara. Khi vừa mới ra đời, bé trai đã trở thành Thái tử xứ Asturias và là người kế vị vương triều của Bồ Đào Nha gồm Castilla, Aragon, Napolas. Và theo lời của Pedro Mártir de Angleri, đứa trẻ sẽ kế thừa tất cả “tài sản to lớn của vương triều” mà các vị Vua Thiên Chúa giáo đã thu phục được. Nhưng đứa trẻ đã chết khi mới hai tuổi vào tháng Bảy năm 1500. Chưa đầy ba tháng sau, không từ bỏ mong muốn trở thành vua của Castilla và Aragon, Ngài Manuel của Bồ Đào Nha đã kết hôn với Công chúa Maria, con gái thứ ba của các vị Vua Thiên Chúa giáo và bà này cũng mất vào năm 1517. Cho đến thời điểm đó, hai Công chúa của các vị Vua Thiên Chúa giáo đã kết hôn rất bất hạnh, Ngài Manuel đã không còn lựa chọn nào khác mà phải kết hôn với Công chúa Leonor của Áo, con gái cả của Juana “Điên” và Felipe “Đẹp trai” và dĩ nhiên, là chị gái của Carlos, vị vua tương lai và là cháu gái của hai bà vợ trước. Buồn bã và thất vọng, Ngài Manuel đã mất năm 1521. Sau một vài lần cố gắng bất thành, con trai ông, Ngài Juan đệ tam đã cho thành lập Toà án Công giáo ở Bồ Đào Nha vào năm 1536.
Tháng Chín năm 1512, Giám mục vùng Malaga, Ngài Diego Ramirez Villaescusa, thay mặt cho các vị Vua Thiên Chúa, đã đến thăm Học viện Salamanca nhằm trực tiếp kiểm chứng tình trạng xuống cấp của bộ môn Ngữ pháp và thúc đẩy công cuộc cải cách cần thiết để phục hồi bộ môn này. Chỉ trong vòng hai tháng sau đó, trường Đại học đã công bố sắc lệnh rằng ở tất cả các học viện thuộc trường Đại học, học sinh đều phải nói tiếng La tinhệ Việc này, đối với thầy Antonio de Nebrija, là một thắng lợi giòn giã trước sự tụt hậu về văn hoá và đương nhiên là khởi đầu cho một thời đại mới. Tuy nhiên, một năm sau, ông đã bị thua trước phe đối lập trong việc tranh giành chức giáo sư môn Ngữ pháp. Đó là García del Castillo, một kẻ mới tốt nghiệp, không hề có danh tiếng gì mấy, trừ việc là ứng cử viên của Học viện. Đau đớn và tức giận, Nebrija rời bỏ và thề sẽ không bao giờ đặt chân trở lại thành phố. Khi Giáo chủ Cisneros được tin về việc ấy, ông đã mời Nebrija đảm nhiệm bộ môn Tu từ học ở trường Đại học Alcalá de Henares với mức lương sáu mươi nghìn maravedis một năm, cộng với hơn một trăm fanega(1) đất để canh tác và quyền ưu đãi “Nebrija có thể giảng những gì ông muốn, những gì không muốn ông không cần đề cập đến, và việc ban thưởng hậu cho ông không phải vì công việc, mà vì Tây Ban Nha đã mắc nợ ông quá nhiều”.
Về phần mình, cha German de Benavente đã viết một cuốn sách về hang động ở Salamanca, nhưng không dám in vì sợ Toà án Công giáo sẽ đưa ông lên giàn thiêu. Thật nực cười, ông chết trong một đám cháy ở tu viện San Francisco. Theo lời kể của một tu sĩ, cha German đã vào phòng để cố gắng cứu bản thảo khỏi bị cháy, nhưng không còn bất kỳ một vết tích nào của bản thảo cũng như của cha German.
Fernando de Roa rời bỏ môn Triết học Luân lý rất sớm và cũng không ra tái ứng cử chức Giáo sư môn Thần học để dành toàn bộ thời gian cho lớp học tại Hàn lâm viện và những mưu mô chống lại các vị Vua. Năm 1502, tại Salamanca ông cho công bố một vài lời bình luận đối với Chính sách của Aristotle và gây tranh cãi lớn. Mặc dù mất năm 1507, nhưng những đề xuất của ông về một chính quyền tốt đã là nguồn cảm hứng cho cuộc nổi dậy ở các vùng thuộc Castilla chống lại Vua Carlos đệ nhất từ những năm 1520 đến 1521. Điều tương tự xảy ra với dự thảo Luật tự chủ của các miền, trong đó người dân có thể bảo vệ quyền tự chủ địa phương và hạn chế quyền lực của Vua chúa.
Cha Antonio de Zamora đã nhanh chóng thực hiện ước mơ của mình được đặt chân đến Ấn Độ. Đó là năm 1498, trong chuyến thám hiểm thứ ba của Columbus. Chuyến đi gặp nhiều rủi ro, ít nhất là đối với Columbus, đô đốc hải quân, người mới trở thành Toàn quyền và thống đốc Ấn Độ một thời gian ngắn trước đó. Cha thảo dược may mắn hơn, ông đã ở lại và sống tại La Espanola(2), gần đất nước Santo Domingo(2) mới ra đời, ở bờ biển phía Nam của hòn đảo. Một số người nói rằng, ông đã từ bỏ các thói quen của mình - những thói quen tôn giáo, chứ không phải thói quen hút thuốc xì gà - và đã kết hôn với một cô gái bản địa, nhưng không ai có thể kiểm chứng điều đó. Nhưng điều đã được kiểm chứng chính là việc ông là người đầu tiên lên tiếng chống lại việc bóc lột và chế độ nô lệ của người thổ dân, trở thành người có ảnh hưởng lớn đối với chàng trai trẻ Bartolomé de las Casas(4), sau này cũng trở thành người theo Thánh đạo Domingo như ông.
Luật sư cải đạo Alonso Juanes và cô gái Do Thái Ruth Ben-Yashar đã kết hôn, theo nghi lễ Do Thái vào tháng Năm năm 1498 tại thành phố Amberes, nơi họ đã tới sau khi bỏ trốn với sự trợ giúp của Rojas. Tuy nhiên, một vài tháng sau, họ phải rời đi. Một số người cho rằng họ đã chạy đến Bắc Phi, nhưng thực tế họ đã quay trở lại Castilla.
Người ta biết rằng điều đầu tiên Fernando de Rojas làm khi rời khỏi hang là đến phòng của Hilario tại trường San Bartolomé. Anh đến tìm bất kỳ một dấu hiệu nào cho thấy nguồn gốc và cách xử sự của một người đã từng là bạn anh. Rõ ràng không có gì cho thấy rằng một kẻ sát nhân và một kẻ phục tùng Quỷ sứ đã từng sống ở đây. Đó cũng không phải là một con người có gì ngoại lệ. Dưới gầm giường, Rojas tìm thấy một cái rương gỗ nhỏ được khoá kín. Anh đã kín đáo mang cái rương về phòng trọ vì anh không muốn các công tố viên Toà án Công giáo tịch thu nó. Cuối cùng, cũng không khó khăn gì khi mở được chiếc rương mà anh không biết có gì bên trong, anh phát hiện ra trong đó có vài cuốn sách như cuốn tuyển chọn luận văn cho học sinh có tựa đề Aristotle và triết lý của ông(5) và một số giấy tờ của Hilario, tất cả đều được viết tay. Trong số này, có thư từ, thơ ca và bài viết về các thể loại khác nhau. Có một bài viết khiến Rojas chú ý hơn cả, đó dường như là phần mở đầu của một vở hài kịch. Bài viết khiến Rojas rất thích nên anh quyết định sẽ hoàn thiện nó. Với điều này, anh muốn khép lại một chương, mặc dù chỉ ở hình thức tượng trưng mà thôi.
Và thế là, một vài tháng sau đó, lúc ấy là năm 1498, anh tận dụng mười lăm ngày nghỉ lễ Phục sinh để chỉnh sửa và viết tiếp cho đến khi hoàn chỉnh thành bài viết gồm mười sáu chương. Có vẻ như anh đã viết tại nhà của Tomé Gonzalez và Antona Pérez, họ hàng xa của Sabela. Họ sống ở làng Tejares, nơi các cô gái từng làm việc cho nhà chứa thường lưu lại trong tuần lễ thánh(6), không xa thành phố mấy. Anh kết thúc bài viết vào đúng ngày thứ Hai trời mưa, có nghĩa là một ngày sau lễ Phục sinh, là thời điểm kết thúc tuần lễ ăn kiêng và các cô gái quay trở lại Salamanca. Họ được các sinh viên chào đón để nhảy múa và ăn uống bên bờ sông Tormes. Mặc dù Rojas đặt tên bài viết là Hài kịch của Calisto và Melibea, nhưng nhân vật quan trọng nhất của vở hài kịch lại chính là Celestina, được tạo ra bởi cảm hứng từ một nhân vật cùng tên mà anh quen biết.
Vở hài kịch được xuất bản lần đầu tiên dưới hình thức vô danh, không có cả lời mở đầu lẫn lời kết, ở thành phố Amberes vào mùa hè năm 1498. Nhờ những nỗ lực của Alonso Juanes, vở hài kịch đã khiến độc giả quan tâm, khiến họ phải in thêm các phiên bản mới vào năm sau, cũng dưới hình thức vô danh, ở Burgos. Từ đó, Rojas, với sự giúp đỡ của bạn anh, đã xuất hiện trong cuốn sách với tư cách là người hiệu đính. Anh lấy tên là Alonso de Proaza (đó là tên một thầy giáo dạy Ngữ pháp mà cả hai anh đã học ở Trường Trẻ nhỏ). Anh tiếp tục dành thời gian để sửa chữa, thêm thắt các chi tiết cho vở kịch và hé mở một phần về tác giả của vở kịch. Do vậy, trong lần tái bản ở Toledo vào năm 1500, mặc dù vẫn vô danh, nhưng vở kịch có kèm theo một lá thư của “tác giả gửi cho một người bạn”, trong đó thú nhận rằng chương đầu tiên của vở kịch không phải là của tác giả mà là của “tác giả đầu tiên”, vô danh nhưng rất can đảm, người đã mất vào thời điểm mà tác giả tìm thấy “bản thảo của vở kịch này”. Sau đó, anh hé lộ một vài điểm về con người anh như ở ngoài đời tác giả là luật sư. Và cuối cùng, anh giấu tên và nơi sinh ở khổ thơ thứ tám, khổ thơ kết thúc lá thư, nơi anh đồng thời giới thiệu về người hiệu đính trong những đoạn văn cuối cùng của vở kịch.
Không hoàn toàn hài lòng về điều này, nên vào năm 1502, nhà in Juan Porras, nhà in đã xuất bản những bình luận của Roa ở Salamanca, đã cho ra một ấn bản với tựa đề “Bi hài kịch của Calisto và Meỉibea”, mở rộng thêm năm chương mới, hoàn thiện lời nói đầu và có thêm ba khổ thơ nữa ở phần kết để xin lỗi về khía cạnh phi đạo lý của tác phẩm. Trong bức thư, đã chỉ ra rằng “tác giả trước đây” có thể là Juan de Mena hoặc Rodrigo Cota, nhưng không chắc chắn về ai cả. Những năm sau, họ còn cho xuất bản một vài ấn phẩm, trong đó có tác phẩm của Valencia vào năm 1514, với chỉnh sửa và bổ sung của Proaza (tức Alonso Juanes) cho đến cuối cùng, vào năm 1526, có một phiên bản ở Toledo, trong đó có viết thêm một chương mới với tựa đề “Chương sau chót” và được coi là của một Sanabria nào đó.
Cũng có một vài lý do giải thích cho sự thiếu tin tưởng, không rõ ràng và che giấu cảm xúc từ phía Rojas. Trước tiên, có một thực tê là chương đầu tiên của vở kịch bị đánh cắp và thuộc về, không ai khác, một người bị Toà án Công giáo kết tội hoả thiêu. Nhưng cũng không loại trừ khả năng rằng một cuốn sách với nhiều lý luận và có thể gây ra tai tiếng lại là, trên thực tế, một tác phẩm được viết ngắn gọn, chứa đựng nhiều cạm bẫy, thông điệp, cảnh báo, những cái tên được mã hoá và những biểu tượng. Dưới hình thức nào và dành cho ai? Điều này, tới bây giờ, vẫn là một bí ẩn. Dù thế nào chăng nữa, trong cuộc đời của tác giả, tác phẩm cũng gây chú ý khi không bị cấm cũng không bị Toà án Công giáo đốt.
Điều đáng nói là không một ai hay biết gì về Rojas trong suốt thời gian từ năm 1498 - thời điểm anh viết bản thảo đầu tiên của vở kịch và cuối cùng, nhận được bằng tốt nghiệp cử nhân khoa Luật, và trở về thị trấn Montalbán một mình, không đi cùng với Sabela - cho đến năm 1508, sau đó ít lâu anh đã định cư lập nghiệp tại Talavera. Một vài người nghĩ rằng trong khoảng thời gian mười năm đó, anh tiếp tục làm việc bí mật cho Diego de Deza và còn đảm nhiệm một vài sứ mệnh quan trọng cho Vương triều, không chỉ ở Castilla và Aragon, mà còn ở Bồ Đào Nha và Ấn Độ, nơi anh có thể đã gặp cha Antonio. Tuy nhiên, nếu như vậy, cũng không có một bài viết nào, ít nhất là dưới tên anh. Một vài người khác khẳng định rằng anh ẩn náu với Sabela ở nhà của ông Roa và giảng dạy môn Luật trong hang, viết và tham gia tích cực trong các âm mưu chống vương triều mà người ta nói còn nhiều bằng chứng để lại trong bản thảo bằng đá. Nhiều người khác lại tin rằng anh sống một cuộc đời với hai hoặc ba nhân cách.
Dù thế nào đi chăng nữa, vào tháng Giêng năm 1509, sau một vài tháng ở quê hương, Rojas chuyển đến sống hẳn ở Talavera để hành nghề luật sư. Trung thành với gốc gác của mình, anh nhanh chóng kết hôn với Leonor Alvarez, người thị trấn Montalbán, con gái của một gia đình cải đạo và đã sinh được bảy người con. Người con cả, Fernando, đã đỗ cử nhân Luật, vượt một điểm xuất sắc han cha của mình, ở trường Đại học Salamanca. Người ta cũng biết rằng, vào tháng Sáu năm 1525, bố vợ Rojas, ông Álvaro de Montalban, đã bị Toà án Công giáo bắt giữ. Nguyên nhân là do có một vài lời bình luận đã bị bóp méo trước mặt vài công tố viên, những người mà ông đến thăm ở Madrid. Điều tệ hơn cả là, bốn mươi năm trước, ông bị buộc tội và bị xử vì đã cải đạo Do Thái. Lẽ dĩ nhiên, ông đề nghị con rể trở thành luật sư bào chữa cho mình, nhưng yêu cầu này đã bị Toà án bác bỏ vì Rojas có họ hàng với người có tội. Tại toà, ông bị kết án tù chung thân và bị tịch thu toàn bộ tài sản, trong số đó có một nửa là của hồi môn của con gái, trị giá khoảng 400 maravedis. Vì bị ảnh hưởng, Rojas đã yêu cầu phúc thẩm lại phiên toà và anh đã lấy lại được số tiền trên. Đối với bố vợ, họ đã phạt ông bị quản thúc tại gia.
Ngoài sự kiện trên, cuộc sống của Rojas trôi đi thoải mái và bình lặng. Rojas trở thành Thị trưởng thị trấn lớn Talavera, lúc đó có khoảng sáu nghìn dân. Trong nhiều dịp khác nhau, Rojas cũng đã làm luật sư cho thành phố, cương vị này đã mang lại cho ông uy tín và sự kính nể của dân chúng, cũng như sự sung túc cho gia đình. Ngoài ngôi nhà ở đường Gaspar Duque, bên cạnh nhà thờ Thánh Miguel, ông còn sở hữu vườn nho, trang trại, cối xay gió, xưởng chế biến rượu, vườn ươm… Vở kịch Ceỉestina, như nhiều người biết đến, đã rất thành công và người được hưởng lợi từ vở kịch là những nhà xuất bản và một số tác giả đã viết tiếp vở kịch đó.
Bên cạnh thú đam mê đọc sách, Rojas còn là một tay chơi cờ vua rất giỏi. Cũng không hề có bất kỳ bút tích nào, chỉ trừ khi phải viết thư và các giấy tờ riêng của mình, chứng tỏ ông đã không quay trở lại cầm bút. Tuy nhiên, một số người vẫn cho rằng ông đã viết một vài tác phẩm nữa, được xuất bản vô danh. Ông tham gia các hoạt động tôn giáo rất tích cực và tận tuỵ và là thành viên của Hiệp hội Thánh mẫu. Ai nhìn thấy ông tham gia trong các đám rước, không thể tưởng tượng được rằng sau khuôn mặt bình thản và hiền lành kia lại ẩn chứa nhiều bí mật ghê sợ đến thế. Một số bí mật ở đây đã được bật mí, số khác vẫn còn là ẩn tích.
Rojas mất ngày mùng 8 tháng Tư năm 1541, thọ sáu mươi bảy tuổi. Trước khi chết, ông yêu cầu được mặc bộ quần áo choàng của Thánh Francisco để tưởng nhớ đến cha German và được chôn cất ở Tu viện Thánh mẫu. Theo di chúc, tài sản của ông lên tới khoảng bốn trăm nghìn maravedis, một phần ba trong số đó là tiền ông cho thuê các tài sản sở hữu của mình. Trong các cuốn sách còn lại, người ta chỉ tìm thấy một bản in của vở “Bi hài kịch của Calisto và Melibea”. Khi không một ai trong số những người thừa kế muốn sở hữu vở hài kịch, họ đã bán nó với cái giá tương đương một nửa con gà.
Chú thích(1) 1 fanega tương đương 0,66 ha), ở đây, khoảng 66 ha.
(2) Nay là Haiti.
(3) Cộng hoà Dominica
(4) Bartolomé de las Casas (1484-1566): cha cố, nhà văn người Tây Ban Nha; ủng hộ xoá bỏ chế độ nô lệ đối với người bản địa, và sau này đối với người gốc châu Phi.
(5) Tiếng La tinh trong nguyên bản: Auctoritates Aristotelis et aliorum philosophorum.
(6) Trong tuần lễ Thánh của đạo Thiên chúa, người ta kiêng không ăn thịt.