GA CUỐI TRƯỚC KHI TỚI MOSKVA, khi người soát vé đến thu vé của hành khách, tôi sắp xếp xong đồ đạc bèn đi xuống sân ga, và nhận thấy cái quyết định cuối cùng đã rất gần, tôi càng xúc động mạnh hơn. Tôi cảm thấy lạnh, hai hàm bắt đầu run lên đến nỗi răng va cả vào nhau. Tôi đi theo đám đông một cách vô ý thức và ra khỏi ga, gọi một người đánh xe, lên xe ngựa và đi. Tôi vừa đi vừa nhìn ngắm người qua lại thưa thớt trên đường, ngắm bóng những chiếc đèn đổ xuống đường và bóng của tôi lúc chạy trước, lúc chạy sau chiếc xe, và không nghĩ ngợi gì cả. Đi được nửa dặm, tôi thấy lạnh hai chân và nhớ ra rằng mình đã cởi đôi tất len lúc ở trên tàu và bỏ nó vào trong túi. Ờ cái túi đâu rồi? Có ở đây không? À có đây rồi. Nhưng còn cái giỏ đâu? Tôi nhận ra rằng mình đã xuống trước một ga và quên tất cả đồ đạc trên tàu, nhưng chợt nhớ vẫn còn tờ biên lai nên quyết định không quay trở lại ga lấy đồ nữa mà tiếp tục đi.
Bây giờ cho dù có cố đến đâu tôi cũng không tài nào nhớ nổi tâm trạng của tôi lúc đó: “tôi nghĩ cái gì?”, “tôi muốn cái gì?” tôi chẳng biết nữa. Tôi chỉ nhớ lúc đó tôi ý thức được rằng một điều gì đó rất khủng khiếp và cũng rất quan trọng đối với cuộc đời tôi đang sắp xảy ra. Không biết có phải là do tôi đã linh cảm trước được điều đó không, tôi cũng không rõ nữa. Cũng có thể, sau tất cả những gì đã xảy ra, mọi hồi tưởng của tôi về quá khứ đều nhuốm màu u tối. Tôi về đến sân nhà thì đã một giờ đêm. Bên hiên nhà tôi có vài anh đánh xe đang đứng chờ khách dưới các ô cửa sổ còn sáng ánh đèn. (Những ô cửa sáng đèn đó là của phòng khách và phòng ăn trong căn hộ chúng tôi ở). Không để ý tại sao cửa nhà mình còn sáng đèn vào lúc khuya như thế, vẫn tâm trạng chờ đợi cái gì đó rất khủng khiếp, tôi bước lên bậc thang và rung chuông. Gã hầu Egor tốt bụng, chịu khó và ngốc nghếch ra mở cửa. Điều đầu tiên đập vào mắt tôi là trên giá mắc áo, bên cạnh những váy áo khác là chiếc áo khoác của hắn. Lẽ ra tôi phải ngạc nhiên, song tôi không ngạc nhiên, dường như tôi đã mong đợi điều đó. “Quả đúng là thế”, - tôi nghĩ. Khi tôi hỏi Egor ai đang ở đây, gã nói tên Trukhachevsky, tôi lại hỏi có ai đi cùng hắn không. Gã đáp: “Không có ai ạ!”
Tôi nhớ gã hầu trả lời tôi với một giọng dường như muốn làm tôi vui mừng và xua đi nỗi ngờ vực rằng còn có thêm ai đó nữa. “Không có ai cả. Thế đấy, thế đấy”, - tôi tự nói với mình.
“Thế còn lũ trẻ?”
“Ơn Chúa, các cô cậu khỏe cả và đi ngủ từ lâu rồi ạ.”
Tôi không thở nổi và không thể dừng đôi hàm răng đang run bần bật lại được. “À thế là không phải như mình đã nghĩ, rằng mọi chuyện tưởng là bất hạnh nhưng rồi lại tốt đẹp như cũ. Không, mọi chuyện không phải như cũ, mà tất cả những cảnh mình tưởng tượng ra, mình nghĩ đó chỉ là tưởng tượng thôi, hóa ra là sự thật. Tất cả hóa ra là...”.
Tôi suýt khóc nức lên, nhưng lập tức con quỷ trong tôi mách bảo: “Mi khóc lóc rên rỉ đi, còn chúng nó thì bình an giải tán, rồi mi chẳng tìm được chứng cớ nào nữa, và sẽ suốt đời hồ nghi, khổ sở”. Lập tức sự yếu mềm trong tôi biến mất và xuất hiện một cảm xúc kỳ lạ, chắc là ngài không tin đâu, một cảm xúc vui sướng rằng nỗi đau khổ của tôi sẽ kết thúc ngay bây giờ, rằng ngay bây giờ tôi có thể trừng phạt nàng, có thể được giải thoát khỏi nàng, rằng tôi có thể để cơn giận dữ tha hồ hoành hành. Và tôi đã thả cơn giận dữ của mình ra. Tôi biến thành con thú, một con thú dữ hung ác và khôn khéo.
“Không cần, không cần”, - tôi nói với Egor khi gã định đi vào phòng khách, - “việc của mày đây: chạy nhanh đi gọi đánh xe và ra ga nhận đồ đạc của tao, biên lai đây. Đi đi.”
Egor đi qua hành lang lấy áo khoác. Sợ gã sẽ đánh động họ, tôi đi theo đến tận buồng gã, đợi gã mặc áo xong. Trong phòng ăn, cách đó một phòng, có tiếng nói chuyện và tiếng dao đĩa. Họ đang ăn và không nghe thấy tiếng chuông. “Miễn là chúng đừng bước ra bây giờ”, - tôi nghĩ. Egor mặt xong chiếc áo khoác lông cừu kiểu dân Astrakhal và đi ra. Tôi mở cửa cho gã ra rồi khóa trái cửa sau lưng gã. Và tôi trở nên khiếp sợ, khi cảm thấy rằng mình chỉ còn lại một mình và rằng tôi cần phải hành động ngay bây giờ. Hành động như thế nào - tôi cũng còn chưa biết. Tôi chỉ biết rằng mọi chuyện bây giờ đã kết thúc, rằng không còn nghi ngờ gì về tội lỗi của nàng và rằng tôi ngay bây giờ sẽ trừng phạt nàng, chấm dứt mối quan hệ của tôi với nàng.
Trước kia, khi trong tôi vẫn còn những do dự, tôi nói với mình: “Nhỡ đâu đó không phải là sự thật, nhỡ đâu mình nhầm”, bây giờ thì không như thế nữa. Tất cả đã được khẳng định dứt khoát. Bí mật không cho tôi biết, một mình nàng và hắn, giữa đêm khuya. Thế cũng đã đủ để không thể tha thứ cho tất cả. Hay còn tệ hơn thế nữa: họ phạm tội một cách táo tợn, chủ tâm làm ra táo tợn như thế để chứng tỏ là mình không có chuyện gì. Tất cả đã rõ ràng, không còn nghi ngờ gì nữa. Chỉ còn lo một điều là làm sao cho họ đừng kịp tẩu thoát, đừng nghĩ ra thêm được trò bịp bợm mới nào để xóa dấu vết, xóa chứng cớ và làm tôi mất cơ hội trừng phạt. Và để mau chóng bắt quả tang, tôi rón rén đi vào phòng khách, nơi họ đang ngồi, không bằng lối qua phòng ăn mà đi qua hành lang và phòng trẻ con.
Phòng trẻ thứ nhất là của mấy thằng bé, ở phòng trẻ thứ hai chị vú cũng đang ngủ, cựa quậy mình như muốn thức giấc. Tôi tưởng tượng chị ta sẽ nghĩ gì khi biết hết mọi sự, và ý nghĩ đó khiến cho nỗi thương xót thân mình dâng khắp trong tôi, tôi không cầm nổi nước mắt. Để không đánh thức lũ trẻ, tôi nhón chân chạy qua hành lang về phòng mình, nằm vật xuống đi văng khóc nức nở.
“Mình - một con người trung thực, con của mẹ của cha, mình - người cả cuộc đời mơ ước đến hạnh phúc gia đình, mình - người đàn ông chưa khi nào phản bội lại cô ta... Thế mà cô ta, mẹ của năm con người, năm đứa trẻ, cô ta còn ôm lấy thằng nhạc công, chỉ vì hắn có đôi môi đỏ! Không, đó không phải là con người nữa! Đó là con chó, một con chó cái đê tiện! Làm chuyện đó ngay cạnh phòng của lũ trẻ mà cô ta giả vờ thương yêu suốt đời. Lại còn viết lá thư như đã gửi cho mình trong khi ở đây thì trơ tráo nhảy lên ôm cổ hắn! Làm sao mà mình biết được, biết đâu cô ta đã như thế trong suốt thời gian qua rồi. Biết đâu cô ta từ lâu đã đẻ ra những đứa con với bọn hầu mà mình tưởng là con mình. Nếu như ngày mai mình mới về, với mái tóc đó, với eo lưng đó, với những động tác lười biếng yêu kiều đó (tôi nhớ rõ toàn bộ khuôn mặt hấp dẫn đáng ghét của nàng) cô ta sẽ lại đón mình, và con quỷ ghen tuông sẽ mãi mãi ở lại và xâu xé trái tim mình. Vú nuôi và gã hầu Egor sẽ nghĩ gì? Và cả bé Lisa tội nghiệp nữa! Con bé đã hiểu được điều gì đó rồi. Rồi còn sự trắng trợn đó nữa! Còn sự dối trá đó nữa! Còn cái tình cảm thú vật mà mình đã thừa biết nữa”. - Tôi tự nói với mình.
Tôi muốn dậy song không dậy nổi. Trái tim đập mạnh đến nỗi tôi không thể đứng vững trên đôi chân của mình. Hừ, tôi sẽ chết vì nhồi máu cơ tim thôi. Nàng đã giết chết tôi. Nàng cần như thế mà. Sao cơ, nàng sẽ giết tôi à? Ồ không, nếu thế thì quá lợi cho nàng, và tôi không cho nàng được hưởng cái lợi đó đâu. Hừ, tôi thì ngồi đây, còn ở đằng kia họ ăn uống, cười nói, và... Hừ, tuy nàng không còn tươi trẻ nữa nhưng hắn không chê nàng: nàng dù sao vẫn không tệ lắm, và chủ yếu là ít nhất nàng không gây nguy hại cho cái sức khỏe quý giá của hắn. “Tại sao mà mình không bóp cổ cô ta ngay khi đó cơ chứ”, - tôi nhớ trong cuộc cãi cọ một tuần trước đó, tôi đã đẩy nàng ra khỏi phòng mình và sau đó đập phá đồ đạc. Tôi hồi nhớ trạng thái của mình lúc đó, không chỉ hồi nhớ, mà còn cảm thấy lại cái nhu cầu muốn đánh, muốn đập phá mà tôi đã cảm thấy lúc đó. Tôi nhớ tôi muốn hành động như thế nào, và tôi không còn nghĩ thêm được gì khác ngoài những suy tính cho hành động đó. Tôi rơi vào trạng thái của một con thú dữ hay của một người bị kích động khi gặp nguy hiểm, khi người đó hành động một cách chính xác, không vội vã, nhưng không bỏ phí một giây phút nào, tất cả đều nhằm hướng tới một mục đích nhất định.